Nghề đào tạo nguồn nhân lực (hay nói cách là là nghề tái sản xuất, mở rộng
sức lao động xã hội)
Giáo dục có chức năng là tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Nguồn nhân lực đó
chính là toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần ở trong cá nhân mỗi học sinh, trong
thế hệ trẻ của chúng ta ngày hôm nay.
Trong thiên niên kỷ trước, nguồn nhân lực nông nghiệp được đào tạo đơn
giản bằng con đường truyền khẩu (truyền kinh nghiệm qua ngôn ngữ nói) và
truyền tay nghề. Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thì nguồn nhân lực cần được đào tạo để
đạt trình độ quốc tế. Giáo dục và dạy học đã và đang tham gia một cách có hiệu
quả vào quá trình tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Nguồn nhân lực
này vừa có trình độ chuyên môn, vừa có những phẩm chất của người lao động thời
kỳ mới như có tổ chức, có kỷ luật, tính sáng tạo cao trong công việc 
Giáo viên các bậc học là người tham gia trực tiếp và quyết định chất lượng
của nguồn nhân lực tương lai. Vì vậy, hơn ai hết chính người giáo viên phải là
nguồn nhân lực được đào tạo chuẩn để có thể thực hiện tốt vai trò tạo nguồn nhân
lực có chất lượng cho xã hội.
Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao
Nhà sư phạm học người Đức đã viết: “Người thầy giáo tồi là người mang
chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân
lý”. Để thực hiện công việc dạy học theo tinh thần đó thì giáo viên phải dựa trên
những nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn cũng như khoa học giáo dục,
có kỹ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, sinh động, thíchứng với từng cá nhân. Cho nên công việc của người giáo viên tuy phải dựa trên nền
tảng khoa học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao. Và để thực hiện được chức năng
của mình theo yêu cầu của xã hội thì giáo viên còn phải có tính khoa học và tính
sáng tạo cao tới mức như là một người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ của quá trình
sư phạm.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 35 trang
35 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Tâm lý học sư phạm (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một trong các phương thức nêu trên, luyện tập và di chuyển sang các tình huống 
khác. 
 Như vậy, sự lĩnh hội các phương thức tư duy đòi hỏi người học phải tham 
gia thực hiện các cấu trúc thao tác, thực hiện các hành động trí tuệ hay tư duy ở 
những mức độ phức tạp và độc lập khác nhau. Việc lĩnh hội các phương thức tư 
duy có liên quan chặt chẽ với các tri thức được xây dựng trên cơ sở các phương 
thức đó. Cho nên sẽ không đúng nếu cho rằng các phương thức tự nó sẽ dạy cách 
tư duy ở mức độ cần thiết và trong những thể hiện cần thiết. 
CÂU HỎI ÔN TẬP 
1. Phân tích bản chất của hoạt động dạy và hoạt động học. 
2. Có bao nhiêu cách học trong thực tiễn cuộc sống? Phân tích ưu điểm và hạn 
chế của các cách học đó. 
3. Quá trình hình thành hoạt động học diễn ra như thế nào? 
4. Quá trình lĩnh hội khái niệm diễn ra như thế nào? 
5. Trình bày học thuyết hình thành hành động trí tuệ của P.Ia.Ganpêrin. Học 
thuyết này có ý nghĩa như thế nào đối với hoạt động dạy học? 
CHƯƠNG II. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN 
1. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGHỀ DẠY HỌC 
1.1. Vai trò và vị trí của người giáo viên trong xã hội hiện đại 
- Trong xã hội phong kiến, người giáo viên được xếp vào vị trí cao trong xã 
hội, chỉ đứng sau nhà Vua (“Quân, Sư, Phụ”). Cũng từ thời xưa, nhân dân ta 
vẫn quan niệm Không thầy đố mày làm nên. Từ khi thành lập Nhà nước Việt 
Nam mới, với nền giáo dục Cách mạng của nước ta, người làm công tác dạy 
học lại càng được xã hội coi trọng và tôn vinh là “người làm nghề cao quý 
trong những nghề cao quý”. 
- Trong xã hội hiện đại, người giáo viên cũng là người lao động, mà loại hình 
lao động này có đặc thù riêng so với nhiều loại hình lao động khác. Giáo dục 
đào tạo có chức năng tạo nguồn nhân lực và đào tạo nhân lực đáp ứng nhu 
cầu của xã hội. Người giáo viên tham gia, giữ vị trí then chốt và quyết định 
chất lượng của quá trình tạo ra nguồn nhân lực cho xã hội. 
1.2. Đặc điểm lao động sư phạm của nghề dạy học 
 Nhà giáo dục K.D. Usinxki nói: “Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào 
nhân cách người giáo dục”. Điều này nói lên đặc điểm lao động của nghề dạy học. 
1.2.1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người 
 Nghề nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp riêng của mình. Chẳng hạn: 
- Nghề quan hệ với kỹ thuật như thợ chế tạo và lắp ráp các loại máy, sửa chữa 
các loại máy  
- Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên như nghề chăn nuôi, thú ý 
- Nghề quan hệ trực tiếp với con người như nhân viên bán hàng, bác sỹ, giáo 
viên  
-  
 Những nghề có đối tượng quan hệ trực tiếp là con người đều đòi hỏi người 
hoạt động trong nghề đó phải có những phẩm chất nhất định khi thực hiện mối 
quan hệ giữa con người với con người như sự tôn trọng và lòng tin ở con người, 
tình thương, sự đối xử công bằng, thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị. 
 Cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp là con người nhưng con người với tư 
cách là đối tượng của nghề dạy học không hoàn toàn giống con người trong quan 
hệ với nghề y hay nghề kinh doanh. Đó là những con người đang trong thời kỳ 
chuẩn bị để trở thành những công dân tương lai có phẩm chất và năng lực đáp ứng 
nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Để tạo ra những công dân tương lai có phẩm chất và 
năng lực phù hợp với sự phát triển của xã hội thì người giáo viên phải là người tổ 
chức và điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương 
ứng ở người học. Qua đó, người học dần dần biến được kinh nghiệm của loài thành 
kinh nghiệm của cá nhân và nhân cách dần được phát triển. 
 Đặc điểm này của nghề dạy học được thể hiện rõ trong quá trình hành nghề 
của mỗi giáo viên và được Nhà nước quy định thành nhiệm vụ của nhà giáo. Điều 
63 Luật Giáo dục quy định nhà giáo có nhiệm vụ như sau: 
1. Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý, chương trình giáo dục; 
2. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều 
lệ nhà trường. 
3. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách người 
học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng 
của người học; 
4. Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ 
chuyên môn, nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người học; 
5. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. 
 Từ năm nhiệm vụ của người giáo viên như trên, Nhà nước và nhân dân đòi 
hỏi cao ở người làm nghề dạy học về phẩm chất và năng lực. 
1.2.2. Nghề có công cụ chủ yếu là nhân cách của chính người giáo viên 
 Trong dạy học và giáo dục, người giáo viên phải dùng nhân cách của mình 
để tác động tới người học. Đó là phẩm chất chính trị, lối sống, trình độ học vấn, kỹ 
năng giao tiếp  Đây cũng chính là lý do mà K.D. Usinxki khẳng định dùng nhân 
cách để giáo dục nhân cách. 
 Hơn nữa, nghề dạy học là nghề lao động nghiêm túc, không được phép tạo 
ra thứ phẩm chứ chưa nói tới phế phẩm như một số nghề khác. Có người đã từng 
nói làm hỏng một đồ vàng ta có thể nấu lại, một viên ngọc quý ta có thể bỏ đi 
nhưng làm hỏng một con người là một tội lớn, một lỗi lầm không thể chuộc lại 
được. Vàng, ngọc, kim cương đều quý nhưng không thể so sánh chúng với tâm hồn, 
nhân cách một trẻ thơ, một con người. 
 Nhà giáo tác động đến người học bằng nhân cách của mình nên nhà giáo cần 
sống mô phạm. Nhưng nhà giáo cũng là con người bình thường nên họ cũng cần có 
cuộc sống bình thường. Thực tế đó đòi hỏi người làm nghề dạy học phải công phu 
rèn luyện mới có thể đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã 
hội. 
1.2.3. Nghề đào tạo nguồn nhân lực (hay nói cách là là nghề tái sản xuất, mở rộng 
sức lao động xã hội) 
 Giáo dục có chức năng là tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Nguồn nhân lực đó 
chính là toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần ở trong cá nhân mỗi học sinh, trong 
thế hệ trẻ của chúng ta ngày hôm nay. 
 Trong thiên niên kỷ trước, nguồn nhân lực nông nghiệp được đào tạo đơn 
giản bằng con đường truyền khẩu (truyền kinh nghiệm qua ngôn ngữ nói) và 
truyền tay nghề. Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thì nguồn nhân lực cần được đào tạo để 
đạt trình độ quốc tế. Giáo dục và dạy học đã và đang tham gia một cách có hiệu 
quả vào quá trình tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Nguồn nhân lực 
này vừa có trình độ chuyên môn, vừa có những phẩm chất của người lao động thời 
kỳ mới như có tổ chức, có kỷ luật, tính sáng tạo cao trong công việc  
 Giáo viên các bậc học là người tham gia trực tiếp và quyết định chất lượng 
của nguồn nhân lực tương lai. Vì vậy, hơn ai hết chính người giáo viên phải là 
nguồn nhân lực được đào tạo chuẩn để có thể thực hiện tốt vai trò tạo nguồn nhân 
lực có chất lượng cho xã hội. 
1.2.4. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao 
 Nhà sư phạm học người Đức đã viết: “Người thầy giáo tồi là người mang 
chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân 
lý”. Để thực hiện công việc dạy học theo tinh thần đó thì giáo viên phải dựa trên 
những nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn cũng như khoa học giáo dục, 
có kỹ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, sinh động, thích 
ứng với từng cá nhân. Cho nên công việc của người giáo viên tuy phải dựa trên nền 
tảng khoa học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao. Và để thực hiện được chức năng 
của mình theo yêu cầu của xã hội thì giáo viên còn phải có tính khoa học và tính 
sáng tạo cao tới mức như là một người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ của quá trình 
sư phạm. 
1.2.5. Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp 
 Lao động của người giáo viên là loại lao động trí óc chuyên nghiệp. Loại lao 
động này có 2 đặc điểm nổi bật sau: 
- Có một thời kỳ khởi động (là thời kỳ để lao động đi vào nề nếp). Ở thời kỳ 
này, hiệu quả lao động thấp hoặc chưa có hiệu quả nhất là khi phải giải 
quyết những tình huống sư phạm phức tạp và có tính chất quyết định. 
- Có quán tính trí tuệ. Những diễn biến trong giờ học, những vấn đề học tập 
chưa được giải quyết đều không mất đi khi giờ học kết thúc. 
 Với hai đặc điểm nổi bật ở trên nên công việc của người giáo viên không 
đóng khung trong không gian lớp học và thời gian xác định mà nó thể hiện ở khối 
lượng, chất lượng và tính sáng tạo trong công việc. 
2. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN 
 Nhân cách là tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá 
trị tinh thần của mỗi người. Ngày nay, việc đánh giá con người cũng căn cứ vào 
phẩm chất và năng lực (hay còn gọi là đức và tài) của họ. 
 Phẩm chất và năng lực tạo thành thể thống nhất trong nhân cách con người 
cụ thể. Hai yếu tố này thống nhất và tác động qua lại với nhau, nhưng cũng có thể 
phân biệt tương đối để xem xét, đánh giá. Con người với loại hình hoạt động 
chuyên biệt khác nhau, nghề nghiệp khác nhau thì phẩm chất và năng lực của họ có 
nội dung, tính chất và yêu cầu khác nhau. 
 Người giáo viên có một số phẩm chất nhân cách chính sau: 
- Thế giới quan khoa học. 
- Lý tưởng nghề nghiệp. 
- Lòng tin và yêu mến người học. 
- Lòng yêu nghề. 
- Đạo đức - lối sống. 
 Năng lực sư phạm của giáo viên gồm: 
- Năng lực hiểu học sinh. 
- Năng lực khoa học (tầm hiểu biết). 
- Năng lực tổ chức. 
- Năng lực ngôn ngữ. 
- Năng lực giao tiếp. 
- Năng lực xử lý các tình huống sư phạm. 
3. MỘT SỐ PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN 
3.1. Thế giới quan khoa học 
 Trong phẩm chất nhân cách của người giáo viên, yếu tố trước tiên là thế giới 
quan khoa học. Đây là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó không những 
quyết định niềm tin chính trị, mà còn quyết định toàn bộ hành vi cũng như ảnh 
hưởng của giáo viên tới người học. 
 Thế giới quan của người giáo viên là thế giới quan duy vật biện chúng bao 
hàm những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật phát triển của tự nhiên, 
xã hội và tư duy. Nó chi phối thái độ và cách thức hoạt động của giáo viên đối với 
việc lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học - giáo dục, việc kết hợp giáo dục 
và nhiệm vụ chính trị xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống cũng 
như cách nhìn nhận và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của người. 
Thế giới quan khoa học không phải là bản tính tự nhiên của nhà giáo, nó 
được hình thành trong quá trình học tập của họ và dưới nhiều ảnh hưởng khác 
nhau. Đó là quá trình học tập trong trường phổ thông, trường sư phạm và tự học 
suốt đời; học trong trường học và học trong trường đời; trong quá trình học các 
môn khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, khoa học xã hội và 
nhân văn, đặc biệt là Triết học. Có thể nói, thế giới quan khoa học là kim chỉ nan 
giúp nhà giáo đi đúng hướng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động giảng dạy và 
giáo dục của người giáo viên. Điều này có thể thấy rõ trong điều 16, Luật Giáo 
dục: “Không truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo trong các 
trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan hành 
chính nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân”. 
3.2. Lý tưởng nghề nghiệp 
 Giáo viên không phải là thợ dạy mà phải là nhà giáo thực thụ. Nếu chỉ là thợ 
dạy thì trong chừng mực nào đó có thể dùng máy móc, các phương tiện kỹ thuật 
hiện đại để thay thế, nhưng nhà giáo thực thụ thì chỉ có thể thay thế bằng nhà giáo 
khác và họ đều đạt chuẩn nhà giáo ở cấp học, bậc học cụ thể. Nhà giáo có những 
tiêu chuẩn chung, trước hết họ đều là những người có lý tưởng nghề nghiệp. 
 Lý tưởng nhà giáo là lý tưởng về sự nghiệp quốc sách hành đầu, là lý tưởng 
về sự nghiệp trồng người, là hạt nhân trong nhân cách người giáo viên. Lý tưởng 
nghề nghiệp của giáo viên nói chung là đem lại hạnh phúc cho người đi học. Nó là 
cái hồn, là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên. 
 Lý tưởng nghề nghiệp biểu hiện ở niềm say mê nghề nghiệp, tận tuỵ hy sinh 
vì công việc, cần cù, có trách nhiệm, có lối sống giản dị và thân tình. Lý tưởng 
nghề nghiệp không có sẵn mà được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt 
động tích cực của người giáo viên. Chính trong quá trình đó, nhận thức về nghề 
ngày càng được nâng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng được sâu sắc. 
 Vì tác dụng to lớn của lý tưởng nghề nghiệp cho nên mọi việc làm trong 
trường sư phạm phải nhằm xây dựng lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nếu 
trường sư phạm không giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh thì cũng như 
A.X.Makarencô đánh giá là không giáo dục gì hết. 
3.3. Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề 
 Yêu quý và tin yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao 
quý của con người, riêng đối với người giáo viên thì đây là phẩm chất đặc trưng 
trong nhân cách của họ. Có phẩm chất đặc trưng này, người giáo viên sẽ nhận ra 
đúng những ưu điểm và hạn chế của người học để từ đó có những biện pháp dạy 
học và giáo dục phù hợp với các em. 
 Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề gắn bó với nhau và tạo thành động 
lực hoạt động của người giáo viên. Phẩm chất này một khi đã hình thành ở người 
giáo viên sẽ thôi thúc họ hành động vì mục tiêu giáo dục học sinh. Họ đầu tư sức 
lực và thời gian để trau dồi chuyên môn, năng lực sư phạm nhằm đáp ứng được 
những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. 
 Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề tạo niềm vui hạnh phúc nghề nghiệp 
cho người giáo viên. Lao động sư phạm của người giáo viên không đem lại lợi 
nhuận cho bản thân người giáo viên nhưng lại có lợi ích lớn hơn nhiều vì đó là loại 
hình lao động luôn hướng tới chất lượng - hiệu quả giáo dục và sự phát triển nhân 
cách người học. Chính vì vậy, càng tin yêu học sinh thì người giáo viên càng có 
lòng yêu nghề và càng yêu mến học sinh, càng yêu nghề thì chính người giáo viên 
cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc từ công việc, từ nghề nghiệp của mình. 
 Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề của người giáo viên được biểu hiện 
ở những điểm cơ bản sau: 
- Say sưa, làm việc hết mình, khi cần sẵn sàng hy sinh cả lợi ích cá nhân cho 
công việc dạy học và giáo dục. 
- Có những biện pháp cụ thể để khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện bằng 
được kế hoạch giáo dục của trường, của lớp mình phụ trách. 
- Gần gũi, yêu thường học sinh, có sự quan tâm, chăm sóc cụ thể đối với những 
học sinh có hoàn cảnh khó khăn, những học sinh tật nguyền và tin tưởng vào 
khả năng và sự tiến bộ của học sinh. 
- Sống và làm việc theo tinh thần Tất cả vì học sinh thân yêu. Vì học sinh, vì 
nghề dạy học, người giáo viên luôn học tập tu dưỡng để nâng cao trình độ 
nghề giáo của mình, đồng thời quan tâm giúp đỡ, hợp tác với đồng nghiệp 
trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. 
3.4. Đạo đức - lối sống 
 Khác với các ngành nghề khác, nghề dạy học có công cụ hành nghề là nhân 
cách của người giáo viên, đó là phẩm chất và năng lực, hay là đạo đức - lối sống và 
năng lực của người giáo viên. 
 Giáo viên tác động đến người học không những bằng những hành động trực 
tiếp của mình mà còn bằng sự mẫu mực, bằng thái độ và hành vi của chính mình 
đối với thế giới xung quanh. Để làm được điều đó, giáo viên phải biết lấy các quy 
luật khách quan làm chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình, mặt khác 
phải có những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Những phẩm chất 
đạo đức và phẩm chất ý chí đó là tinh thần nghĩa vụ; tinh thần mình vì mọi người; 
tinh thần nhân đạo; lòng tôn trọng con người; thái độ công bằng; tính ngay thẳng, 
giản dị, khiêm tốn; tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tính tự kiềm 
chế, biết chiến thắng thói hư tật xấu; kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng của 
bản thân cho phù hợp với tình huống sư phạm. 
 Trong thời đại mới, một số phẩm chất nhân cách dưới đây không những cần 
thiết đối với giáo viên mà còn cần được hình thành ở người học: 
- Lý tưởng nghề nghiệp. 
- Tính trung thực trong cuộc sống và trong hoạt động nghề nghiệp. 
- Lòng tin, trước hết là tin vào đạo học và tin vào chính mình. 
4. NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN 
 Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân, phù hợp 
với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo hoàn 
thành có kết quả hoạt động ấy. Vậy năng lực của người giáo viên là tổ hợp (tổng 
hợp) những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của 
nghề dạy học, nhằm đảm bảo cho giáo viên thực hiện có kết quả nhiệm vụ giảng 
dạy và giáo dục học sinh. 
 Khi bàn về năng lực của người giáo viên, cần chú một số điểm cơ bản sau: 
- Năng lực của người giáo viên không phải là một thuộc tính riêng lẻ hoặc 
những thuộc tính rời rạc của cá nhân, mà là tổ hợp những thuộc tính độc 
đáo của cá nhân. Những thuộc tính đó có quan hệ qua lại, bù trừ cho 
nhau, kết hợp chặt chẽ với nhau. 
- Nói tới năng lực của người giáo viên không phải là cách nói chung 
chung, mà bao giờ cũng xem xét, nhìn nhận nó qua hoạt động cụ thể nào 
đó (năng lực về một loại hình giảng dạy và giáo dục cụ thể nào đó). 
Không phải bất cứ một thuộc tính nào của cá nhân cũng phù hợp với yêu 
cầu của bất kỳ loại hình hoạt động cụ thể được xác định, cho nên khi nói 
tới người giáo viên có năng lực hay không có năng lực về một hoạt động 
cụ thể là phải xem xét giữa một bên là yêu cầu của hoạt động và một bên 
là các thuộc tính cá nhân. 
- Những thuộc tính cá nhân tạo nên năng lực của người giáo viên bao gồm 
cả những đặc điểm tâm lý (như các phẩm chất tư duy, các đặc điểm trí 
nhớ, sự chú, tưởng tượng ...) và những đặc điểm giải phẫu sinh lí (những 
đặc điểm của hệ thần kinh). Tổng hợp các thuộc tính của cá nhân đó có 
cấu trúc nhất định và trong quá trình phát triển của năng lực, cấu trúc này 
ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. 
- Năng lực của người giáo viên có thể phân chia thành ba mức độ: 
- Năng lực bình thường. 
- Năng lực khá. 
- Năng lực tốt (tài năng)\ 
 (Không đề cập tới năng lực yếu vì đã là giáo viên thì không thể có giáo viên 
yếu kém về năng lực.) 
 Căn cứ vào chức năng đặc trưng của nghề dạy học, người ta phân năng lưc 
của nguời giáo viên thành các nhóm cơ bản là nhóm năng lực dạy học, nhóm năng 
lực giáo dục và nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm. 
4.1. Nhóm năng lực dạy học 
4.1.1. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học 
 Dạy học là một quá trình thuận nghịch (từ giáo viên tới học sinh và người 
lại), thống nhất giữa hai hoạt động dạy (của giáo viên) và học (của học sinh). 
Trong quá trình đó, chức năng của người giáo viên là tổ chức và điều khiển hoạt 
động của học sinh, chức năng của người học là chiếm lĩnh nền văn hó xã hội. Dạy 
học chỉ có hiệu quả cao khi quá trình đó thực sự là quá trình điều khiển được. Kết 
quả của sự điều khiển phụ thuộc rất nhiều vào việc giáo viên hiểu học sinh. Vì vậy, 
năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục được xem là chỉ số cơ 
bản của năng lực sư phạm. 
 Năng lực hiểu học sinh là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của 
người học, có thể hiểu biết tường tận về nhân cách và biết quan sát tinh tế những 
biểu hiện tâm lý của các em trong quá trình dạy học và giáo dục. 
 Năng lực hiểu học sinh được biểu hiện: 
- Khi chế biến và trình bày tài liệu học tập, giáo viên biết đặt mình vào địa vị 
người học, xác định được khối lượng, nội dung bài học, mức độ khó khăn và 
hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh. 
- Căn cứ vào một loạt dấu hiệu quan sát được trong giờ học, giáo viên có thể 
hiểu được những biến đổi nhỏ nhất trong tâm hồn học sinh, dự đoán được 
mức độ hiểu bài và phát hiện được mức độ hiểu sai lệch của chúng. 
- Giáo viên có thể dự đoán được những thuận lợi và khó khăn thi thực hiện 
các nhiệm vụ nhận thức. 
 Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học là kết quả của một quá trình 
lao động đầy trách nhiệm, thương yêu và đi sâu tìm hiểu học sinh, nắm vững môn 
học mình dạy, am hiểu tâm lý học sinh, tâm lý học sư phạm, có các phẩm chất tâm 
lý cần thiết như sự tinh ý sư phạm (quan sát), óc tưởng tượng, khả năng phân tích - 
tổng hợp  
4.1.2. Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên 
 Nhiệm vụ cơ bản của giáo viên là phát triển nhân cách người học nhờ một 
phương tiện đặc biệt là tri thứcmà lời người đã tích luỹ được, nhất là những tri thức 
khoa học thuộc lĩnh vực giảng dạy của mình. Giáo viên phải nắm vững nội dung, 
bản chất cũng như con đường nghiên cứu khoa học mà loài người đã đi qua. Chỉ có 
trong điều kiện ấy, giáo viên mới có thể tổ chức cho người học tái tạo và lấy lại 
những gì cần thiết cho sự phát triển tâm lý và nhân cách của mình, tạo ra những cơ 
sở trọng yếu để hình thành phẩm chất và năng lực của con người mới. 
 Vì công việc của người giáo viên đồng thời cũng là công việc nhà nhà giáo 
dục nên đó là một dạng lao động phong phú và đa dạng. Họ vừa dạy một môn học, 
lại vừa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ một nhãn quan rộng rãi, những hứng thú và thiên 
hướng thích hợp. Do đó, giáo viên cần có một tầm hiểu biết rộng, chứa đựng vốn 
tinh hoa văn hoá của dân tộc, của cuộc sống và của khoa học. 
 Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên được thể hiện ở: 
- Nắm vững và hiểu biết môn học mình giảng dạy. 
- Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những phát minh trong khoa học 
liên quan tới môn dạy, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hững 
thú lớn lao đối với hoạt động này. 
- Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình. 
 Để có tri thức và tầm hiểu biết, người giáo viên cần có hai yếu tố cơ bản: 
- Có nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết (đây là nguồn gốc của 
tính tích cực và là động lực của việc tự học). 
- Có những kỹ năng để làm thoả mãn nhu cầu đó (phương pháp tự học). 
 Tri thức và tầm hiểu biết có tác dụng mạnh mẽ để tạo ra uy tín cho người 
giáo viên. Vì vậy, đây là yếu tố hết sức quan trọng để người thầy giáo thực hiện vai 
trò của nhà giáo dục. 
4.1.3. Năng lực chế biến tài liệu học tập 
 Năng lực chế biến tài liệu học tập là năng lực gia công về mặt sư phạm của 
giáo viên đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa 
tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ kinh nghiệm của các em và đảm bảo 
lôgic sư phạm. 
 Năng lực chế biến tài liệu học tập được thể hiện: 
- Giáo viên biết đánh giá đúng tài liệu học tập. Việc đánh giá đúng này sẽ giúp 
giáo viên xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình 
với trình độ nhận thức của học sinh để vừa đảm bảo yêu cầu chung về kiến 
thức của chương trình, vừa làm cho tài liệu học tập trở nên vừa sức với sự 
tiếp thưc của người học. 
- Giáo viên biết chế biến tài liệu học tập nhằm làm cho nó vừa đảm bảo lôgic 
của sự phát triển khoa học, vừa phù hợp với lôgic sư phạm và thích hợp với 
trình độ nhận thức của người học. 
Để có được năng lực này, giáo viên phải: 
- Có tri thức và tầm hiểu biết tốt. 
- Có khả năng phân tích - tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức. 
- Có óc sáng tạo. Cụ thể: 
o Giáo viên biết trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, 
cung cấp cho học sinh những kiến thức cô đọng, chính xác, liên hệ 
được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, kiến thức bộ môn 
này với kiến thức bộ môn khác, biết liên hệ vận dụng vào thực tiễn 
cuộc sống. 
o Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng có 
sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực. 
o Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cũng là yếu tố góp 
phần thúc đẩy năng lực chế biến tài liệu học tập. 
4.1.4. Nắm vững kỹ thuật dạy học 
 Kết qủa của sự lĩnh hội tri thức và chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc 
vào caá yếu tố: 
- Trình độ nhận thức của học sinh. 
- Nội dung bài giảng. 
- Phương pháp và cách thức tổ chức hoạt động dạy học. 
 Điều này cho thấy, người giáo viên khi tiến hành hoạt động dạy học phải 
biết cách dạy và nâng dần trình độ giảng dạy lên mức năng lực. 
 Nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững cách tổ chức và điều khiển hoạt 
động nhận thức của người học qua bài giảng. Điều này được thể hiện ở những 
điểm cơ bản sau: 
- Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho người học có vị trí là người phát 
minh trong quá trình dạy học. 
- Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu, làm cho nó trở nên vừa sức đối với 
người học. 
- Gây hứng thú, kích thích người học tự tìm tòi, suy nghĩ một cách tích cực và 
độc lập. 
- Tạo ra tâm thế có lợi cho việc học tập lĩnh hội kiến thức. 
 Trong quá trình dạy học, việc hình thành năng lực này không dễ dàng, nó là 
két quả của một quá trình học tập nghiêm túc (cả lý luận cơ bản và lý luận nghiệp 
vụ) và rèn luyện tay nghề công phu. 
4.1.5. Năng lực ngôn ngữ 
 Có thể khẳng định rằng, giáo viên không thể có năng lực dạy học nếu không 
có năng lực sử dụng ngôn ngữ. Trong dạy học và giáo dục, ngôn ngữ của giáo viên 
thường hướng vào việc giải quyết một nhiệm vụ nhất định nào đó như truyền đạt 
kiến thức mới, kiểm tra kiến thức cũ, biểu thị sự đồng tình hay không đồng tình  
 Năng lực ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình 
cảm của mình bằng lời nói cũng như bằng hành vi cử chỉ, nét mặt và điệu bộ. 
 Năng lực ngôn ngữ của người gi
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 giao_trinh_tam_ly_hoc_su_pham_phan_2.pdf giao_trinh_tam_ly_hoc_su_pham_phan_2.pdf