Giáo trình Tâm lý học sư phạm (Phần 2)

Nghề đào tạo nguồn nhân lực (hay nói cách là là nghề tái sản xuất, mở rộng

sức lao động xã hội)

Giáo dục có chức năng là tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Nguồn nhân lực đó

chính là toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần ở trong cá nhân mỗi học sinh, trong

thế hệ trẻ của chúng ta ngày hôm nay.

Trong thiên niên kỷ trước, nguồn nhân lực nông nghiệp được đào tạo đơn

giản bằng con đường truyền khẩu (truyền kinh nghiệm qua ngôn ngữ nói) và

truyền tay nghề. Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thì nguồn nhân lực cần được đào tạo để

đạt trình độ quốc tế. Giáo dục và dạy học đã và đang tham gia một cách có hiệu

quả vào quá trình tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Nguồn nhân lực

này vừa có trình độ chuyên môn, vừa có những phẩm chất của người lao động thời

kỳ mới như có tổ chức, có kỷ luật, tính sáng tạo cao trong công việc

Giáo viên các bậc học là người tham gia trực tiếp và quyết định chất lượng

của nguồn nhân lực tương lai. Vì vậy, hơn ai hết chính người giáo viên phải là

nguồn nhân lực được đào tạo chuẩn để có thể thực hiện tốt vai trò tạo nguồn nhân

lực có chất lượng cho xã hội.

Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao

Nhà sư phạm học người Đức đã viết: “Người thầy giáo tồi là người mang

chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân

lý”. Để thực hiện công việc dạy học theo tinh thần đó thì giáo viên phải dựa trên

những nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn cũng như khoa học giáo dục,

có kỹ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, sinh động, thíchứng với từng cá nhân. Cho nên công việc của người giáo viên tuy phải dựa trên nền

tảng khoa học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao. Và để thực hiện được chức năng

của mình theo yêu cầu của xã hội thì giáo viên còn phải có tính khoa học và tính

sáng tạo cao tới mức như là một người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ của quá trình

sư phạm.

pdf35 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 661 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Tâm lý học sư phạm (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một trong các phương thức nêu trên, luyện tập và di chuyển sang các tình huống khác. Như vậy, sự lĩnh hội các phương thức tư duy đòi hỏi người học phải tham gia thực hiện các cấu trúc thao tác, thực hiện các hành động trí tuệ hay tư duy ở những mức độ phức tạp và độc lập khác nhau. Việc lĩnh hội các phương thức tư duy có liên quan chặt chẽ với các tri thức được xây dựng trên cơ sở các phương thức đó. Cho nên sẽ không đúng nếu cho rằng các phương thức tự nó sẽ dạy cách tư duy ở mức độ cần thiết và trong những thể hiện cần thiết. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích bản chất của hoạt động dạy và hoạt động học. 2. Có bao nhiêu cách học trong thực tiễn cuộc sống? Phân tích ưu điểm và hạn chế của các cách học đó. 3. Quá trình hình thành hoạt động học diễn ra như thế nào? 4. Quá trình lĩnh hội khái niệm diễn ra như thế nào? 5. Trình bày học thuyết hình thành hành động trí tuệ của P.Ia.Ganpêrin. Học thuyết này có ý nghĩa như thế nào đối với hoạt động dạy học? CHƯƠNG II. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN 1. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGHỀ DẠY HỌC 1.1. Vai trò và vị trí của người giáo viên trong xã hội hiện đại - Trong xã hội phong kiến, người giáo viên được xếp vào vị trí cao trong xã hội, chỉ đứng sau nhà Vua (“Quân, Sư, Phụ”). Cũng từ thời xưa, nhân dân ta vẫn quan niệm Không thầy đố mày làm nên. Từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam mới, với nền giáo dục Cách mạng của nước ta, người làm công tác dạy học lại càng được xã hội coi trọng và tôn vinh là “người làm nghề cao quý trong những nghề cao quý”. - Trong xã hội hiện đại, người giáo viên cũng là người lao động, mà loại hình lao động này có đặc thù riêng so với nhiều loại hình lao động khác. Giáo dục đào tạo có chức năng tạo nguồn nhân lực và đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội. Người giáo viên tham gia, giữ vị trí then chốt và quyết định chất lượng của quá trình tạo ra nguồn nhân lực cho xã hội. 1.2. Đặc điểm lao động sư phạm của nghề dạy học Nhà giáo dục K.D. Usinxki nói: “Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách người giáo dục”. Điều này nói lên đặc điểm lao động của nghề dạy học. 1.2.1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người Nghề nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp riêng của mình. Chẳng hạn: - Nghề quan hệ với kỹ thuật như thợ chế tạo và lắp ráp các loại máy, sửa chữa các loại máy - Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên như nghề chăn nuôi, thú ý - Nghề quan hệ trực tiếp với con người như nhân viên bán hàng, bác sỹ, giáo viên - Những nghề có đối tượng quan hệ trực tiếp là con người đều đòi hỏi người hoạt động trong nghề đó phải có những phẩm chất nhất định khi thực hiện mối quan hệ giữa con người với con người như sự tôn trọng và lòng tin ở con người, tình thương, sự đối xử công bằng, thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị. Cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp là con người nhưng con người với tư cách là đối tượng của nghề dạy học không hoàn toàn giống con người trong quan hệ với nghề y hay nghề kinh doanh. Đó là những con người đang trong thời kỳ chuẩn bị để trở thành những công dân tương lai có phẩm chất và năng lực đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Để tạo ra những công dân tương lai có phẩm chất và năng lực phù hợp với sự phát triển của xã hội thì người giáo viên phải là người tổ chức và điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương ứng ở người học. Qua đó, người học dần dần biến được kinh nghiệm của loài thành kinh nghiệm của cá nhân và nhân cách dần được phát triển. Đặc điểm này của nghề dạy học được thể hiện rõ trong quá trình hành nghề của mỗi giáo viên và được Nhà nước quy định thành nhiệm vụ của nhà giáo. Điều 63 Luật Giáo dục quy định nhà giáo có nhiệm vụ như sau: 1. Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý, chương trình giáo dục; 2. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường. 3. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người học; 4. Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người học; 5. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Từ năm nhiệm vụ của người giáo viên như trên, Nhà nước và nhân dân đòi hỏi cao ở người làm nghề dạy học về phẩm chất và năng lực. 1.2.2. Nghề có công cụ chủ yếu là nhân cách của chính người giáo viên Trong dạy học và giáo dục, người giáo viên phải dùng nhân cách của mình để tác động tới người học. Đó là phẩm chất chính trị, lối sống, trình độ học vấn, kỹ năng giao tiếp Đây cũng chính là lý do mà K.D. Usinxki khẳng định dùng nhân cách để giáo dục nhân cách. Hơn nữa, nghề dạy học là nghề lao động nghiêm túc, không được phép tạo ra thứ phẩm chứ chưa nói tới phế phẩm như một số nghề khác. Có người đã từng nói làm hỏng một đồ vàng ta có thể nấu lại, một viên ngọc quý ta có thể bỏ đi nhưng làm hỏng một con người là một tội lớn, một lỗi lầm không thể chuộc lại được. Vàng, ngọc, kim cương đều quý nhưng không thể so sánh chúng với tâm hồn, nhân cách một trẻ thơ, một con người. Nhà giáo tác động đến người học bằng nhân cách của mình nên nhà giáo cần sống mô phạm. Nhưng nhà giáo cũng là con người bình thường nên họ cũng cần có cuộc sống bình thường. Thực tế đó đòi hỏi người làm nghề dạy học phải công phu rèn luyện mới có thể đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. 1.2.3. Nghề đào tạo nguồn nhân lực (hay nói cách là là nghề tái sản xuất, mở rộng sức lao động xã hội) Giáo dục có chức năng là tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Nguồn nhân lực đó chính là toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần ở trong cá nhân mỗi học sinh, trong thế hệ trẻ của chúng ta ngày hôm nay. Trong thiên niên kỷ trước, nguồn nhân lực nông nghiệp được đào tạo đơn giản bằng con đường truyền khẩu (truyền kinh nghiệm qua ngôn ngữ nói) và truyền tay nghề. Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thì nguồn nhân lực cần được đào tạo để đạt trình độ quốc tế. Giáo dục và dạy học đã và đang tham gia một cách có hiệu quả vào quá trình tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Nguồn nhân lực này vừa có trình độ chuyên môn, vừa có những phẩm chất của người lao động thời kỳ mới như có tổ chức, có kỷ luật, tính sáng tạo cao trong công việc Giáo viên các bậc học là người tham gia trực tiếp và quyết định chất lượng của nguồn nhân lực tương lai. Vì vậy, hơn ai hết chính người giáo viên phải là nguồn nhân lực được đào tạo chuẩn để có thể thực hiện tốt vai trò tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. 1.2.4. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao Nhà sư phạm học người Đức đã viết: “Người thầy giáo tồi là người mang chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân lý”. Để thực hiện công việc dạy học theo tinh thần đó thì giáo viên phải dựa trên những nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn cũng như khoa học giáo dục, có kỹ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, sinh động, thích ứng với từng cá nhân. Cho nên công việc của người giáo viên tuy phải dựa trên nền tảng khoa học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao. Và để thực hiện được chức năng của mình theo yêu cầu của xã hội thì giáo viên còn phải có tính khoa học và tính sáng tạo cao tới mức như là một người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ của quá trình sư phạm. 1.2.5. Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp Lao động của người giáo viên là loại lao động trí óc chuyên nghiệp. Loại lao động này có 2 đặc điểm nổi bật sau: - Có một thời kỳ khởi động (là thời kỳ để lao động đi vào nề nếp). Ở thời kỳ này, hiệu quả lao động thấp hoặc chưa có hiệu quả nhất là khi phải giải quyết những tình huống sư phạm phức tạp và có tính chất quyết định. - Có quán tính trí tuệ. Những diễn biến trong giờ học, những vấn đề học tập chưa được giải quyết đều không mất đi khi giờ học kết thúc. Với hai đặc điểm nổi bật ở trên nên công việc của người giáo viên không đóng khung trong không gian lớp học và thời gian xác định mà nó thể hiện ở khối lượng, chất lượng và tính sáng tạo trong công việc. 2. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN Nhân cách là tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh thần của mỗi người. Ngày nay, việc đánh giá con người cũng căn cứ vào phẩm chất và năng lực (hay còn gọi là đức và tài) của họ. Phẩm chất và năng lực tạo thành thể thống nhất trong nhân cách con người cụ thể. Hai yếu tố này thống nhất và tác động qua lại với nhau, nhưng cũng có thể phân biệt tương đối để xem xét, đánh giá. Con người với loại hình hoạt động chuyên biệt khác nhau, nghề nghiệp khác nhau thì phẩm chất và năng lực của họ có nội dung, tính chất và yêu cầu khác nhau. Người giáo viên có một số phẩm chất nhân cách chính sau: - Thế giới quan khoa học. - Lý tưởng nghề nghiệp. - Lòng tin và yêu mến người học. - Lòng yêu nghề. - Đạo đức - lối sống. Năng lực sư phạm của giáo viên gồm: - Năng lực hiểu học sinh. - Năng lực khoa học (tầm hiểu biết). - Năng lực tổ chức. - Năng lực ngôn ngữ. - Năng lực giao tiếp. - Năng lực xử lý các tình huống sư phạm. 3. MỘT SỐ PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN 3.1. Thế giới quan khoa học Trong phẩm chất nhân cách của người giáo viên, yếu tố trước tiên là thế giới quan khoa học. Đây là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó không những quyết định niềm tin chính trị, mà còn quyết định toàn bộ hành vi cũng như ảnh hưởng của giáo viên tới người học. Thế giới quan của người giáo viên là thế giới quan duy vật biện chúng bao hàm những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó chi phối thái độ và cách thức hoạt động của giáo viên đối với việc lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học - giáo dục, việc kết hợp giáo dục và nhiệm vụ chính trị xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống cũng như cách nhìn nhận và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của người. Thế giới quan khoa học không phải là bản tính tự nhiên của nhà giáo, nó được hình thành trong quá trình học tập của họ và dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau. Đó là quá trình học tập trong trường phổ thông, trường sư phạm và tự học suốt đời; học trong trường học và học trong trường đời; trong quá trình học các môn khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là Triết học. Có thể nói, thế giới quan khoa học là kim chỉ nan giúp nhà giáo đi đúng hướng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động giảng dạy và giáo dục của người giáo viên. Điều này có thể thấy rõ trong điều 16, Luật Giáo dục: “Không truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo trong các trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân”. 3.2. Lý tưởng nghề nghiệp Giáo viên không phải là thợ dạy mà phải là nhà giáo thực thụ. Nếu chỉ là thợ dạy thì trong chừng mực nào đó có thể dùng máy móc, các phương tiện kỹ thuật hiện đại để thay thế, nhưng nhà giáo thực thụ thì chỉ có thể thay thế bằng nhà giáo khác và họ đều đạt chuẩn nhà giáo ở cấp học, bậc học cụ thể. Nhà giáo có những tiêu chuẩn chung, trước hết họ đều là những người có lý tưởng nghề nghiệp. Lý tưởng nhà giáo là lý tưởng về sự nghiệp quốc sách hành đầu, là lý tưởng về sự nghiệp trồng người, là hạt nhân trong nhân cách người giáo viên. Lý tưởng nghề nghiệp của giáo viên nói chung là đem lại hạnh phúc cho người đi học. Nó là cái hồn, là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên. Lý tưởng nghề nghiệp biểu hiện ở niềm say mê nghề nghiệp, tận tuỵ hy sinh vì công việc, cần cù, có trách nhiệm, có lối sống giản dị và thân tình. Lý tưởng nghề nghiệp không có sẵn mà được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động tích cực của người giáo viên. Chính trong quá trình đó, nhận thức về nghề ngày càng được nâng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng được sâu sắc. Vì tác dụng to lớn của lý tưởng nghề nghiệp cho nên mọi việc làm trong trường sư phạm phải nhằm xây dựng lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nếu trường sư phạm không giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh thì cũng như A.X.Makarencô đánh giá là không giáo dục gì hết. 3.3. Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề Yêu quý và tin yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao quý của con người, riêng đối với người giáo viên thì đây là phẩm chất đặc trưng trong nhân cách của họ. Có phẩm chất đặc trưng này, người giáo viên sẽ nhận ra đúng những ưu điểm và hạn chế của người học để từ đó có những biện pháp dạy học và giáo dục phù hợp với các em. Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề gắn bó với nhau và tạo thành động lực hoạt động của người giáo viên. Phẩm chất này một khi đã hình thành ở người giáo viên sẽ thôi thúc họ hành động vì mục tiêu giáo dục học sinh. Họ đầu tư sức lực và thời gian để trau dồi chuyên môn, năng lực sư phạm nhằm đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề tạo niềm vui hạnh phúc nghề nghiệp cho người giáo viên. Lao động sư phạm của người giáo viên không đem lại lợi nhuận cho bản thân người giáo viên nhưng lại có lợi ích lớn hơn nhiều vì đó là loại hình lao động luôn hướng tới chất lượng - hiệu quả giáo dục và sự phát triển nhân cách người học. Chính vì vậy, càng tin yêu học sinh thì người giáo viên càng có lòng yêu nghề và càng yêu mến học sinh, càng yêu nghề thì chính người giáo viên cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc từ công việc, từ nghề nghiệp của mình. Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề của người giáo viên được biểu hiện ở những điểm cơ bản sau: - Say sưa, làm việc hết mình, khi cần sẵn sàng hy sinh cả lợi ích cá nhân cho công việc dạy học và giáo dục. - Có những biện pháp cụ thể để khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện bằng được kế hoạch giáo dục của trường, của lớp mình phụ trách. - Gần gũi, yêu thường học sinh, có sự quan tâm, chăm sóc cụ thể đối với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, những học sinh tật nguyền và tin tưởng vào khả năng và sự tiến bộ của học sinh. - Sống và làm việc theo tinh thần Tất cả vì học sinh thân yêu. Vì học sinh, vì nghề dạy học, người giáo viên luôn học tập tu dưỡng để nâng cao trình độ nghề giáo của mình, đồng thời quan tâm giúp đỡ, hợp tác với đồng nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. 3.4. Đạo đức - lối sống Khác với các ngành nghề khác, nghề dạy học có công cụ hành nghề là nhân cách của người giáo viên, đó là phẩm chất và năng lực, hay là đạo đức - lối sống và năng lực của người giáo viên. Giáo viên tác động đến người học không những bằng những hành động trực tiếp của mình mà còn bằng sự mẫu mực, bằng thái độ và hành vi của chính mình đối với thế giới xung quanh. Để làm được điều đó, giáo viên phải biết lấy các quy luật khách quan làm chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình, mặt khác phải có những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí đó là tinh thần nghĩa vụ; tinh thần mình vì mọi người; tinh thần nhân đạo; lòng tôn trọng con người; thái độ công bằng; tính ngay thẳng, giản dị, khiêm tốn; tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tính tự kiềm chế, biết chiến thắng thói hư tật xấu; kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng của bản thân cho phù hợp với tình huống sư phạm. Trong thời đại mới, một số phẩm chất nhân cách dưới đây không những cần thiết đối với giáo viên mà còn cần được hình thành ở người học: - Lý tưởng nghề nghiệp. - Tính trung thực trong cuộc sống và trong hoạt động nghề nghiệp. - Lòng tin, trước hết là tin vào đạo học và tin vào chính mình. 4. NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo hoàn thành có kết quả hoạt động ấy. Vậy năng lực của người giáo viên là tổ hợp (tổng hợp) những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của nghề dạy học, nhằm đảm bảo cho giáo viên thực hiện có kết quả nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục học sinh. Khi bàn về năng lực của người giáo viên, cần chú một số điểm cơ bản sau: - Năng lực của người giáo viên không phải là một thuộc tính riêng lẻ hoặc những thuộc tính rời rạc của cá nhân, mà là tổ hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân. Những thuộc tính đó có quan hệ qua lại, bù trừ cho nhau, kết hợp chặt chẽ với nhau. - Nói tới năng lực của người giáo viên không phải là cách nói chung chung, mà bao giờ cũng xem xét, nhìn nhận nó qua hoạt động cụ thể nào đó (năng lực về một loại hình giảng dạy và giáo dục cụ thể nào đó). Không phải bất cứ một thuộc tính nào của cá nhân cũng phù hợp với yêu cầu của bất kỳ loại hình hoạt động cụ thể được xác định, cho nên khi nói tới người giáo viên có năng lực hay không có năng lực về một hoạt động cụ thể là phải xem xét giữa một bên là yêu cầu của hoạt động và một bên là các thuộc tính cá nhân. - Những thuộc tính cá nhân tạo nên năng lực của người giáo viên bao gồm cả những đặc điểm tâm lý (như các phẩm chất tư duy, các đặc điểm trí nhớ, sự chú, tưởng tượng ...) và những đặc điểm giải phẫu sinh lí (những đặc điểm của hệ thần kinh). Tổng hợp các thuộc tính của cá nhân đó có cấu trúc nhất định và trong quá trình phát triển của năng lực, cấu trúc này ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. - Năng lực của người giáo viên có thể phân chia thành ba mức độ: - Năng lực bình thường. - Năng lực khá. - Năng lực tốt (tài năng)\ (Không đề cập tới năng lực yếu vì đã là giáo viên thì không thể có giáo viên yếu kém về năng lực.) Căn cứ vào chức năng đặc trưng của nghề dạy học, người ta phân năng lưc của nguời giáo viên thành các nhóm cơ bản là nhóm năng lực dạy học, nhóm năng lực giáo dục và nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm. 4.1. Nhóm năng lực dạy học 4.1.1. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học Dạy học là một quá trình thuận nghịch (từ giáo viên tới học sinh và người lại), thống nhất giữa hai hoạt động dạy (của giáo viên) và học (của học sinh). Trong quá trình đó, chức năng của người giáo viên là tổ chức và điều khiển hoạt động của học sinh, chức năng của người học là chiếm lĩnh nền văn hó xã hội. Dạy học chỉ có hiệu quả cao khi quá trình đó thực sự là quá trình điều khiển được. Kết quả của sự điều khiển phụ thuộc rất nhiều vào việc giáo viên hiểu học sinh. Vì vậy, năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục được xem là chỉ số cơ bản của năng lực sư phạm. Năng lực hiểu học sinh là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của người học, có thể hiểu biết tường tận về nhân cách và biết quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của các em trong quá trình dạy học và giáo dục. Năng lực hiểu học sinh được biểu hiện: - Khi chế biến và trình bày tài liệu học tập, giáo viên biết đặt mình vào địa vị người học, xác định được khối lượng, nội dung bài học, mức độ khó khăn và hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh. - Căn cứ vào một loạt dấu hiệu quan sát được trong giờ học, giáo viên có thể hiểu được những biến đổi nhỏ nhất trong tâm hồn học sinh, dự đoán được mức độ hiểu bài và phát hiện được mức độ hiểu sai lệch của chúng. - Giáo viên có thể dự đoán được những thuận lợi và khó khăn thi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương yêu và đi sâu tìm hiểu học sinh, nắm vững môn học mình dạy, am hiểu tâm lý học sinh, tâm lý học sư phạm, có các phẩm chất tâm lý cần thiết như sự tinh ý sư phạm (quan sát), óc tưởng tượng, khả năng phân tích - tổng hợp 4.1.2. Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên Nhiệm vụ cơ bản của giáo viên là phát triển nhân cách người học nhờ một phương tiện đặc biệt là tri thứcmà lời người đã tích luỹ được, nhất là những tri thức khoa học thuộc lĩnh vực giảng dạy của mình. Giáo viên phải nắm vững nội dung, bản chất cũng như con đường nghiên cứu khoa học mà loài người đã đi qua. Chỉ có trong điều kiện ấy, giáo viên mới có thể tổ chức cho người học tái tạo và lấy lại những gì cần thiết cho sự phát triển tâm lý và nhân cách của mình, tạo ra những cơ sở trọng yếu để hình thành phẩm chất và năng lực của con người mới. Vì công việc của người giáo viên đồng thời cũng là công việc nhà nhà giáo dục nên đó là một dạng lao động phong phú và đa dạng. Họ vừa dạy một môn học, lại vừa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ một nhãn quan rộng rãi, những hứng thú và thiên hướng thích hợp. Do đó, giáo viên cần có một tầm hiểu biết rộng, chứa đựng vốn tinh hoa văn hoá của dân tộc, của cuộc sống và của khoa học. Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên được thể hiện ở: - Nắm vững và hiểu biết môn học mình giảng dạy. - Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những phát minh trong khoa học liên quan tới môn dạy, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hững thú lớn lao đối với hoạt động này. - Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình. Để có tri thức và tầm hiểu biết, người giáo viên cần có hai yếu tố cơ bản: - Có nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết (đây là nguồn gốc của tính tích cực và là động lực của việc tự học). - Có những kỹ năng để làm thoả mãn nhu cầu đó (phương pháp tự học). Tri thức và tầm hiểu biết có tác dụng mạnh mẽ để tạo ra uy tín cho người giáo viên. Vì vậy, đây là yếu tố hết sức quan trọng để người thầy giáo thực hiện vai trò của nhà giáo dục. 4.1.3. Năng lực chế biến tài liệu học tập Năng lực chế biến tài liệu học tập là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo viên đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ kinh nghiệm của các em và đảm bảo lôgic sư phạm. Năng lực chế biến tài liệu học tập được thể hiện: - Giáo viên biết đánh giá đúng tài liệu học tập. Việc đánh giá đúng này sẽ giúp giáo viên xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh để vừa đảm bảo yêu cầu chung về kiến thức của chương trình, vừa làm cho tài liệu học tập trở nên vừa sức với sự tiếp thưc của người học. - Giáo viên biết chế biến tài liệu học tập nhằm làm cho nó vừa đảm bảo lôgic của sự phát triển khoa học, vừa phù hợp với lôgic sư phạm và thích hợp với trình độ nhận thức của người học. Để có được năng lực này, giáo viên phải: - Có tri thức và tầm hiểu biết tốt. - Có khả năng phân tích - tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức. - Có óc sáng tạo. Cụ thể: o Giáo viên biết trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp cho học sinh những kiến thức cô đọng, chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, kiến thức bộ môn này với kiến thức bộ môn khác, biết liên hệ vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. o Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng có sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực. o Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cũng là yếu tố góp phần thúc đẩy năng lực chế biến tài liệu học tập. 4.1.4. Nắm vững kỹ thuật dạy học Kết qủa của sự lĩnh hội tri thức và chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc vào caá yếu tố: - Trình độ nhận thức của học sinh. - Nội dung bài giảng. - Phương pháp và cách thức tổ chức hoạt động dạy học. Điều này cho thấy, người giáo viên khi tiến hành hoạt động dạy học phải biết cách dạy và nâng dần trình độ giảng dạy lên mức năng lực. Nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững cách tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của người học qua bài giảng. Điều này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau: - Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho người học có vị trí là người phát minh trong quá trình dạy học. - Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu, làm cho nó trở nên vừa sức đối với người học. - Gây hứng thú, kích thích người học tự tìm tòi, suy nghĩ một cách tích cực và độc lập. - Tạo ra tâm thế có lợi cho việc học tập lĩnh hội kiến thức. Trong quá trình dạy học, việc hình thành năng lực này không dễ dàng, nó là két quả của một quá trình học tập nghiêm túc (cả lý luận cơ bản và lý luận nghiệp vụ) và rèn luyện tay nghề công phu. 4.1.5. Năng lực ngôn ngữ Có thể khẳng định rằng, giáo viên không thể có năng lực dạy học nếu không có năng lực sử dụng ngôn ngữ. Trong dạy học và giáo dục, ngôn ngữ của giáo viên thường hướng vào việc giải quyết một nhiệm vụ nhất định nào đó như truyền đạt kiến thức mới, kiểm tra kiến thức cũ, biểu thị sự đồng tình hay không đồng tình Năng lực ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình cảm của mình bằng lời nói cũng như bằng hành vi cử chỉ, nét mặt và điệu bộ. Năng lực ngôn ngữ của người gi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_tam_ly_hoc_su_pham_phan_2.pdf