Giáo trình Tâm lý học xã hội (Phần 1)

Những vấn đề chung về nhóm lớn

Việc nghiên cứu của Tâm lý học xã hội về các nhóm lớn gặp phải hàng loạt các khó

khăn. Do vậy, trong truyền thống nghiên cứu tâm lý học nhóm lớn xã hội đã có một số

phận tương đối phức tạp và kì lạ. Một mặt Tâm lý học xã hội bắt đầu chính từ việc nghiên

cứu các nhóm lớn xã hội, nhưng trong nửa đầu thế kỉ thứ XX, Tâm lý học xã hội thực

nghiệm phát triển mạnh mẽ và sự tập trung chính lại là nghiên cứu nhóm nhỏ. Vấn đề

nhóm lớn lại trở thành “đứa con ghẻ” chủ yếu vì có sự suy yếu của mối quan tâm tới các

nghiên cứu lý luận trong Tâm lý học xã hội, cũng như vì tính phức tạp của việc nghiên cứu

các nhóm lớn bằng phương pháp thực nghiệm.

Có thể khẳng định một cách tự tin rằng vấn đề nhóm lớn đang được sinh ra lần thứ hai.

Về bản chất, nếu Tâm lý học xã hội không có phần về tâm lý học nhóm lớn thì nói chung

không thể trở thành Tâm lý học xã hội theo đúng nghĩa của từ này. Theo khẳng định của

G.Điligenxki, việc xem xét tâm lý của nhóm lớn không phải là một trong số các vấn đề

của Tâm lý học xã hội mà là vấn đề quan trọng nhất của nó.

pdf78 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 715 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Tâm lý học xã hội (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c mạnh có tác động lôi kéo họ tới việc thực hiện hành động hay trải nghiệm này khác, dẫn tới kết quả là hiệu quả của cơ chế lây lan càng yếu hơn. (Porsnhiev, 1968). Theo truyền thống đã hình thành trong Tâm lý học xã hội thường xem xét hiện tượng lây lan trong các điều kiện của các hành vi chống đối xã hội và không có tổ chức (các thảm hoạ thiên nhiên khác nhau). Tuy nhiên kiểu hành vi này có thể thể hiện trong các hành động xã hội có ý thức đại chúng, ví dụ trong tiến trình của các cuộc mít tinh khác nhau hay các cuộc biểu tình hoặc trong các tình huống thảm hoạ khác nhau... Như vậy không thể nói rằng trong các điều kiện hiện đại, vấn đề lây lan đã tuyệt đối cũ kĩ. Không có sự trưởng thành nào của tự ý thức gỡ bỏ những hình thức này của sự lây lan tâm lý xuất hiện trong các phong trào xã hội quần chúng đặc biệt trong những thời gian không ổn định của xã hội ví như trong điều kiện tái cơ cấu xã hội mạnh mẽ. Tâm lý học xã hội có trách nhiệm to lớn trước xã hội khi nghiên cứu vấn đề này. Ở đây hiện tại chỉ tồn tại những mô tả và quan sát rời rạc về bản chất, chưa có các nghiên cứu nghiêm túc. Cơ chế lây lan được coi là có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự liên kết số đông cá nhân ở phương diện xúc cảm. Nhờ có chế này, trong đời sống xã hội có hiện tượng “cộng cảm”, là điều kiện thuận lợi cho sự gắn bó giữa các cá nhân trong nhóm và cộng đồng. Cơ chế này được các nhà nghiên cứu giải thích theo các cách khác nhau. Mikhailôvxki cho rằng lây lan được truyền theo nguyên tắc cộng hưởng, tỉ lệ thuận với đám đông và cường độ xúc cảm được truyền đi. G.Allport lại cho rằng lây lan diễn ra theo “phản ứng vòng tròn”. Cá nhân này kích thích cá nhân khác bằng các biểu hiện xúc cảm của mình, đến lượt họ khi thấy biểu hiện của người khác sẽ tăng thêm phần hứng khởi. Các xúc cảm tiêu cực và tích cực đều có thể được lây lan. Do vậy, có thể chủ động tạo ra sự lây lan các xúc cảm tích cực và ngăn chặn sự lây lan các xúc cảm tiêu cực trong nhóm, cộng đồng. 2. Cơ chế đồng nhất hóa - Có nhiều cách quan niệm khác nhau về sự đồng nhất hóa. Có quan điểm coi đồng nhất hóa như một quá trình so sánh, đối chiếu một đối tượng này với đối tượng khác theo một điểm hay tiêu chí nhất định, từ đó khái quát, xác lập sự tương đồng giữa chúng. Ví dụ, khi cá nhân nhận biết các phẩm chất của một số cá nhân khác sẽ tiến hành việc xếp các cá nhân đó theo các kiểu loại khác nhau và sau đó có thể bắt chước, phỏng theo một kiểu nào đó. Như vậy theo cách hiểu này, đồng hóa chính là việc cá nhân lựa chọn và đồng nhất bản thân với các chủ thể khác hay với nhóm nào đó. Cách hiểu chung trong tâm lý học hiện đại cho rằng: đồng nhất hóa là quá trình chủ thể thống nhất bản thân với các cá nhân khác dựa trên các liên hệ cảm xúc, đồng thời nội tâm hóa các chuẩn mực các giá trị của họ. Trong khi đồng nhất hóa, chủ thể nhìn nhận người khác như là sự kéo dài của bản thân, gán cho người khác những đặc điểm, tình cảm, mong muốn của bản thân. Đồng thời cá nhân đặt mình vào vị trí của người khác, dịch chuyển bản thân vào vị trí không gian, phạm vi của người khác và thậm chí đồng nhất hóa ý nghĩ với người khác. Trong Tâm lý học xã hội, đồng nhất hóa được coi là quá trình cá nhân tiếp nhận vai trò xã hội khi gia nhập nhóm. Cá nhân ý thức được vai trò, vị trí của mình trong nhóm và thực hiện tốt vai trò xã hội của mình. Nói cách khác, đồng nhất hóa chính là quá trình cá nhân đồng nhất bản thân với một vai trò xã hội nhất định. Từ các cách hiểu rất rộng và nhiều khía cạnh như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất về cơ chế đồng nhất hóa như sau: Đồng nhất hóa là quá trình cá nhân điều chỉnh bản thân nhằm thích ứng với các vai xã hội hay với các cá nhân khác trong nhóm xã hội trên những phương diện nhất định của đời sống tâm lý. - Vai trò của cơ chế đồng nhất hóa như sau: Cá nhân có thể thực hiện tốt vai trò xã hội của bản thân, từ đó các quan hệ xã hội được vận hành một cách có hiệu quả. Các cá nhân trong nhóm có được những điểm chung: sự đồng nhất về cảm xúc, sự đồng nhất về cách giải quyết nhìn nhận vấn đề. Trong các nhóm lớn xã hội, cơ chế đồng nhất hóa có thể diễn ra một cách ẩn tàng để tạo ra những hiện tượng tâm lý xã hội của nhóm dân tộc, giai cấp như ý thức tự hào dân tộc, nếp suy nghĩ dân tộc, tình cảm dân tộc... Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế đồng nhất hóa sẽ xuất hiện khi các cá nhân trong nhóm xã hội bị đồng nhất hóa quá mức. Các cá nhân sẽ trở nên bị động, đánh mất cái riêng và bản sắc riêng. 3. Cơ chế ám thị Trong quá trình giao tiếp, tương tác giữa các cá nhân, có trường hợp cá nhân chịu sự tác động của cá nhân khác và có hành vi phục tùng yêu cầu của cá nhân khác một cách không ý thức được gọi là hiện tượng ám thị. Để hiểu hơn về ám thị, có thể đặt nó trong mối quan hệ với một hiện tượng khác gọi là thôi miên. Trạng thái bị thôi miên là trạng thái “mất tỉnh táo”, “mất khả năng ý thức” của chủ thể. Một người bị thôi miên sẽ không ý thức được các hành vi của bản thân và rơi vào trạng thái bị người khác điều khiển. Ám thị là mức độ nhẹ hơn so với thôi miên, người bị ám thị không mất ý thức nhưng mất khả năng suy xét, phê phán do vậy dễ bị thuyết phục và dễ bị điều khiển. Ám thị là tác động tâm lý có mục tiêu nhưng vô căn cứ từ một người đến người khác hoặc nhóm, dẫn tới sự thay đổi hành vi ứng xử của cá nhân do phục tùng mệnh lệnh đến từ một uy quyền hợp pháp. Quá trình diễn ra ám thị có một số đặc điểm: Sự chuyển giao thông tin dựa vào việc tiếp nhận thông tin một cách không phê phán. Trong quá trình đó, não chỉ giữ liên hệ với một nguồn kích thích, các nguồn kích thích khác bị ngắt. Ám thị là một kiểu tác động đặc biệt có mục đích, sự tác động phi luận cứ của một người lên người khác hay lên một nhóm. Trong ám thị quá trình truyền thông tin được thực hiện trên cơ sở tri giác chúng một cách không có phê phán. Thông thường toàn bộ thông tin được truyền từ người này sang người khác được phân loại căn cứ vào mức độ tính tích cực trong lập trường của người truyền thông tin, phân biệt trong đó các thông báo, thuyết phục và ám thị. Chính hình thức thông tin thứ ba này liên quan đến sự tri giác không phê phán, cho rằng người tiếp nhận thông tin trong trường hợp ám thị không có khả năng đánh giá chúng một cách phê phán. Một cách tự nhiên, trong các tình huống khác nhau và đối với các nhóm người khác nhau mức độ phi luận cứ, cho phép tiếp nhận không phê phán thông tin trở nên rất khác nhau. Hiện tượng ám thị được nghiên cứu trong Tâm lý học từ trước đây rất lâu trên thực tế: trong thực tiễn y học hay với một số các hình thức dạy học cụ thể. Ám thị như một hiện tượng tâm lý học xã hội có đặc trưng rõ rệt: do vậy có quyền nói về hiện tượng đặc biệt “ám thị xã hội”. Trong các nghiên cứu của Tâm lý học xã hội vẫn duy trì hệ thống thuật ngữ, được sử dụng trong các phần khác nhau của khoa học tâm lý nghiên cứu hiện tượng này: người thực hiện việc ám thị gọi là nhà ám thị, đối tượng của ám thị gọi là “người bị ám thị”. Hiện tượng chống đối lại ám thị gọi là “phản ám thị”. Trong tài liệu ở Nga, lần đầu tiên vấn đề ý nghĩa của ám thị được đặt ra trong tác phẩm của V.M.Becheriev Ám thị và vai trò của nó trong đời sống xã hội (1903). Khi phân tích ám thị như là phương tiện tác động đặc biệt, vấn đề về tương quan giữa ám thị và lây lan được đặt ra và vẫn chưa có câu trả lời thống nhất. Đối với một số tác giả ám thị là một trong các loại lây lan bên cạnh bắt chước, những người khác lại nhấn mạnh sự khác biệt của ám thị với lây lan, có thể khái quát như sau: Trong lây lan diễn ra sự đồng cảm của trạng thái tâm lý đám quần chúng lớn. Ám thị không có “sự bình đẳng” - ngược lại, trong đó không có sự đồng cảm, và đồng nhất xúc cảm. Nhà ám thị không rơi vào trạng thái của người bị ám thị. Quá trình ám thị có tính một chiều mà không phải là sự tăng lên bột phát của trạng thái nhóm ám thị. Nó là sự tác động tích cực của một người đến một người khác hoặc nhóm. Ám thị, thông thường, mang tính ngôn ngữ, trong khi đó, trong lây lan ngoài tác động ngôn ngữ còn sử dụng cả các phương tiện khác (nhịp điệu, cảm thán...). Mặt khác ám thị khác với thuyết phục ở chỗ nó trực tiếp gây ra những trạng thái tâm lý nhất định không cần có lôgic và chứng cứ. Thuyết phục, ngược lại, được xây dựng trên cơ sở sự trợ giúp của các cấu tạo lôgic để đạt tới sự đồng ý của người khác của người tiếp nhận thông tin. Trong ám thị không đạt tới sự đồng ý mà còn phải là tiếp nhận thông tin dưới dạng kết luận có sẵn. Trong khi đó, trường hợp thuyết phục, kết luận cần phải được đưa ra một cách độc lập bởi người tiếp nhận. Do vậy thuyết phục là tác động chủ yếu mang tính trí tuệ còn ám thị tác động chủ yếu mang tính xúc cảm ý chí. Chính vì vậy khi nghiên cứu ám thị đã xác nhận một số quy luật liên quan đến vấn đề: trong những tình huống nào và trong những tình trạng nào hiệu quả ám thị được nâng cao. Những trường hợp ám thị xã hội đã chứng minh sự phụ thuộc của hiệu ứng ám thị vào lứa tuổi: trẻ em nhìn chung dễ bị ám thị hơn người lớn. Cũng đúng như vậy, trong đa số các thường hợp, những người bị ám thị là những người mệt mỏi, yếu về mặt thể chất hơn là những người khỏe mạnh. Nhưng điều quan trọng nhất là ở chỗ ám thị có các nhân tố tâm lý xã hội đặc biệt tác động. Nhiều nghiên cứu cho thấy: điều kiện quyết định tính hiệu quả của ám thị là uy tín của người ám thị, uy tín sẽ tạo ra nhân tố bổ sung đặc biệt của tác động - sự tin tưởng vào nguồn thông tin. “Hiệu ứng niềm tin” này được thể hiện trong quan hệ với nhân cách của người ám thị cũng như trong thái độ đối với nhóm xã hội mà anh ta đại diện. Uy tín của nhà ám thị cả trong trường hợp này và trong trường hợp khác thực hiện chức năng được gọi là “luận cứ gián tiếp” một dạng bù trừ sự thiếu hụt các chứng cứ trực tiếp - là nét đặc trưng của ám thị. Trong ám thị, kết quả phụ thuộc vào cả tính cách cá nhân của người ám thị. Hiện tượng phản ám thị minh chứng cho mức độ chống lại ám thị mà cá nhân riêng biệt có được. Trong thực tế, ám thị xã hội đã nghiên cứu những phương thức, nhờ đó có thể ở một mức độ nhất định cô lập sự “tự vệ tâm lý” này. Tổ hợp các biện pháp như vậy được gọi là “chống phản ám thị” (Porsnhiev.1968). Hiện tượng phản ám thị có thể được sử dụng không chỉ cho việc bảo vệ cá nhân khỏi sự tác động ám thị mà còn cho việc loại bỏ sự tự vệ này. Ví dụ, nếu với tư cách là một phương tiện phản ám thị - sự không tin tưởng vào nhà ám thị, thì bằng cách đưa thêm các thông tin bổ sung về người ám thị có thể đạt tới việc loại bỏ sự không tin tưởng này và tổ hợp các biện pháp đó sẽ là chống phản ám thị. Một cách lôgic, có đề xuất đáp lại những cố gắng bổ sung đó cá nhân cố gắng tạo ra một loạt những biện pháp tự vệ mới. Nhưng đến nay các nghiên cứu thực tế chưa vượt qua được lớp thứ nhất của chống phản ám thị. Trong phương diện nghiên cứu ứng dụng, ám thị có ý nghĩa lớn đối với các lĩnh vực như tuyên truyền và quảng cáo. Vai trò của ám thị được đưa vào hệ thống các phương tiện tác động tuyên truyền là khác nhau, phụ thuộc vào loại tuyên truyền, mục đích và nội dung của tuyên truyền. Dù nét cơ bản của tuyên truyền là dựa vào lôgic và có ý thức còn phương tiện đang được nói đến chủ yếu là phương tiện thuyết phục. Tất cả những điều đó không loại bỏ sự có mặt của một số nhân tố của ám thị. Phương pháp ám thị thể hiện ở đây như là phương pháp dưới dạng chương trình hóa tâm lý khán giả, tức là liên quan đến các phương pháp tác động điều khiển, điều này đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực quảng cáo. 4. Cơ chế thỏa hiệp Thỏa hiệp là sự nhân nhượng của cá nhân trước áp lực nhóm thể hiện ở việc cá nhân thay đổi cách ứng xử và thái độ của mình cho phù hợp với đa số. Thỏa hiệp là một cơ chế tạo ra sự thống nhất giữa các cá nhân trong nhóm mặc dù còn có sự khác biệt nhất định. Nó đảm bảo cho việc xác định mục đích chung hay ra quyết định chung của nhóm, đồng thời tránh tạo ra sự xung đột trong một khoảng thời gian. Như vậy, với tư cách là một cơ chế tâm lý xã hội giúp giảm bớt xung đột trong một số tình huống, thỏa hiệp có vai trò tích cực nhất định khác với hiểu đơn giản thiên về tiêu cực của hiện tượng này. Trong nhóm xã hội, với các vị trí, lợi ích khác nhau khó có thể có sự thống nhất hoàn toàn. Cơ chế này có thể coi như một sự “tạm dừng” để có thể tiến tới sự thống nhất hơn khi được trao đổi, thảo luận. Có các loại thỏa hiệp như sau: Thỏa hiệp bên ngoài (thỏa hiệp hình thức) là sự tiếp nhận ý kiến nhóm một cách hình thức; Thỏa hiệp bên trong (thỏa hiệp thực tâm) là sự biến đổi thực sự thái độ của cá nhân cho phù hợp với đa số và loại thứ ba là lập trường độc lập, thực chất là dạng phụ thuộc ngược với ý kiến đa số. Có một loạt các yếu tố ảnh hưởng tới sự thỏa hiệp. Các yếu tố đó thuộc hai nhóm cơ bản: các yếu tố cá nhân và các yếu tố tâm lý xã hội. Các yếu tố cá nhân như đặc trưng tâm lý của cá nhân phải chịu áp lực thỏa hiệp, giới tính, lứa tuổi, trí tuệ, trình độ nhận thức. Các cá nhân có tính độc lập có xu hướng ít thỏa hiệp hơn và ngược lại. Nữ giới có khả năng thỏa hiệp cao hơn nam giới. Các yếu tố tâm lý xã hội như: quy mô nhóm, trình độ phát triển của nhóm, tính chất của các mối quan hệ trong nhóm, vị trí của cá nhân, mức độ phụ thuộc lẫn nhau trong nhóm, hoàn cảnh đặc thù như nội dung cần thỏa hiệp, các nhiệm vụ chung. Thỏa hiệp cũng được coi là một cơ chế mang màu sắc văn hóa, bởi lẽ trong một số nền văn hóa, cơ chế thỏa hiệp chi phối một cách phổ biến các quan hệ xã hội, trong nền văn hóa khác cơ chế này lại ít phát huy tác dụng. NHỮNG HƯỚNG ỨNG DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC: Các quy luật nêu trên chi phối mạnh mẽ sự nảy sinh, hình thành và biến đổi của các hiện tượng tâm lý xã hội trong đời sống của con người. Hoạt động dạy học và giáo dục trong các nhà trường về bản chất là hoạt động xã hội. Trong các hoạt động đó, các hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh. Đến lượt nó, các hiện tượng tâm lý xã hội lại chi phối chính hoạt động của các chủ thể: giảng viên và sinh viên. Do vậy, việc nắm vững các quy luật cơ bản nêu trên có thể giúp người giảng viên có được sự chủ động nhất định trong việc tổ chức hoạt động dạy học, giáo dục và trong việc dự đoán các hiện tượng tâm lý xã hội có thể xảy ra để có những cách xử lý khoa học. Từ đó tác động đến sinh viên một cách có hiệu quả. Có thể có các hướng vận dụng như sau: - Khai thác quy luật bắt chước trong việc hình thành nếp sống, lối sống, thái độ, hành vi đúng đắn hay phổ biến những kinh nghiệm tích cực trong giáo dục sinh viên bằng cách xây dựng các hình mẫu, các tấm gương điển hình, những nhóm hạt nhân. Gắn nội dung cần phổ biến với các nhân vật có uy tín, những người cùng thời... có ảnh hưởng đối với sinh viên. Các hình mẫu của sự bắt chước phải có tính hấp dẫn đối với sinh viên. Ngược lại, có thể dự đoán trước các xu hướng bắt chước để ngăn chặn sự phổ biến những hành vi tiêu cực, bằng cách lôi cuốn sinh viên vào các hành vi tích cực hoặc làm gián đoạn các kênh tiếp xúc với hình mẫu. - Khai thác quy luật về sự tác động qua lại một cách triệt để trong việc thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi. Sinh viên luôn tham gia vào các nhóm nhất định. Không phải sự thuyết giáo mà sự tác động qua lại giữa các cá nhân được định hướng có thể làm thay đổi mỗi cá nhân một cách tích cực. Tăng cường giao tiếp, trao đổi thông tin, tiếp xúc giữa sinh viên với nhau, giữa giảng viên với sinh viên để có được sự thấu hiểu lẫn nhau và tạo ra sự đồng thuận trong việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc chung. - Khuyến khích việc tìm hiểu các truyền thống, thành tựu của nhà trường. Động viên sự phát triển một cách sáng tạo của sinh viên trên cơ sở truyền thống, thành tựu của nhà trường. - Sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra các trạng thái tâm lý nhóm, tâm lý tập thể tích cực, ngược lại ngăn chặn các trạng thái tâm lý tiêu cực. Muốn tạo ra sự lây lan cần chú ý tới “mồi xúc cảm”. Các xúc cảm tích cực như sự lạc quan, phấn khởi, sự hăng hái... cần được tạo điều kiện để chúng lây lan làm cho hoạt động của nhóm, tập thể có hiệu quả hơn. Đặc biệt lưu ý đến việc sử dụng cơ chế lây lan để tạo ra sự thống nhất trong các trạng thái xúc cảm, hình thành tình cảm “chúng ta”. - Nhận biết, dự đoán ảnh hưởng của các hiện tượng tâm lý xã hội trong phạm vi vĩ mô đến các nhóm sinh viên. - Trong các hoạt động với sinh viên, muốn sinh viên thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình, một mặt khuyến khích sinh viên nhận thức về các vai trò xã hội của mình: sinh viên - người học, người nghiên cứu, người tiên phong trong các phong trào xã hội... tạo điều kiện để sinh viên đồng nhất hóa thành công, mặt khác khuyến khích sự bộc lộ tính sáng tạo, cái riêng của sinh viên trong công việc. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 1. Vai trò và nội dung của quy luật kế thừa? Phân tích một hiện tượng tâm lý xã hội để làm rõ sự thể hiện của quy luật kế thừa. 2. Vai trò của quy luật bắt chước trong xã hội? Có thể vận dụng quy luật này như thế nào trong dạy học, giáo dục? 3. Các cơ chế lây lan, đồng nhất hóa, ám thị được thể hiện như thế nào trong đời sống xã hội? Hướng vận dụng các cơ chế đó trong dạy học và giáo dục? Chương 3: NHÓM XÃ HỘI I. KHÁT NIỆM NHÓM XÃ HỘI VÀ PHÂN LOẠI NHÓM 1. Khái niệm nhóm Vấn đề các nhóm, trong đó con người liên kết với nhau trong quá trình sống của mình - vấn đề quan trọng nhất không chỉ của Tâm lý học xã hội mà còn của xã hội học. Trong các khoa học xã hội: về nguyên tắc có thể có hai cách sử dụng khái niệm “nhóm”. Cách thứ nhất, trong thống kê thường đề cập đến các nhóm mang tính điều kiện: sự phân nhóm có chủ định con người theo một dấu hiệu chung nào đó cần thiết cho hệ thống phân tích cụ thể. Cách hiểu như vậy phổ biến trong thống kê. Khi cần thiết các nhóm người được phân chia theo tiêu chí nào đó. Ví dụ: nhóm người với một trình độ học vấn nhất định, nhóm người bị bệnh tim mạch, nhóm người đang cần có nhà ở... Đôi khi với cách hiểu như vậy thuật ngữ “nhóm” được sử dụng trong cả Tâm lý học. Ví dụ: trong trường hợp phân tích kết quả của các trắc nghiệm của một nhóm nghiệm thể: nhóm này cho các chỉ số này, còn nhóm khác cho chỉ số khác... Cách thứ hai: trong một loạt các khoa học, xã hội nhóm được hiểu như là một thực thể xã hội tồn tại hiện thực: trong đó con người tập hợp lại, được liên kết lại bằng những dấu hiệu nhất định như bằng sự đa dạng của các hoạt động cùng nhau hay bằng những điều kiện đồng nhất nào đó trong những hoàn cảnh sống của họ. Những con người này ý thức được theo một cách nhất định sự thâu thuộc của mình vào cơ cấu này mặc dù mức độ và trình độ ý thức có thể rất khác nhau. Chính trong phạm vi của cách hiệu thứ hai, Tâm lý học xã hội sẽ đề cập tới vấn đề nhóm. Thực hiện các vai trò xã hội khác nhau, con người là thành viên của nhiều nhóm xã hội, con người được hình thành dường như trong sự giao cắt của các nhóm đó, như là một điểm bao hàm trong đó các ảnh hưởng của các nhóm giao cắt nhau. Điều đó có hai hệ quả quan trọng đối với cá nhân: một mặt, xác định vị trí khách quan của cá nhân trong hệ thông hoạt động xã hội, mặt khác ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức cá nhân. Cá nhân được tham gia vào hệ thống các quan điểm, các chuẩn mực của nhiều nhóm. Do vậy một công việc vô cùng có ý nghĩa là xác định “sự tác động tổng lực” của các ảnh hưởng của các nhóm khác nhau đến cá nhân sẽ như thế nào, sự tác động đó sẽ quy định nội dung ý thức của cá nhân ra sao. Nhưng để thực hiện nhiệm vụ này cũng cần phải xem xét nhóm không chỉ đơn giản là một tập hợp mà như là một đơn vị hiện thực của xã hội, nhóm tham gia vào bối cảnh rộng lớn hơn của hoạt động xã hội, với tư cách là nhân tố hội nhập cơ bản và dấu hiệu cơ bản của nhóm xã hội. Sự tham gia chung của các thành viên nhóm trong hoạt động cùng nhau của nhóm quy định sự hình thành chỉnh thể tâm lý giữa họ và như vậy trong điều kiện đó nhóm thực sự trở thành hiện tượng tâm lý xã hội, tức là đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học xã hội. Từ đó có thể chỉ ra các dấu hiệu cơ bản của một nhóm xã hội: có hoạt động chung của nhiều người được quy định bởi các mục đích, nhiệm vụ, quan hệ (cộng đồng về lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực xã hội., chính kiến...), ý thức của các thành viên và của nhóm về sự đồng nhất các dấu hiệu duy trì sự tồn tại và phát triển của nhóm. Với cách lý giải đó “nhóm” có thể được định nghĩa như là “cộng đồng những cá nhân tác động qua lại vì mục đích đã được ý thức, cộng đồng như là chủ thể của hành động” (Sercôvin, 1975. 50). Hay J.P.Chaplin: “Nhóm là sự tập hợp các cá nhân mà ở đó họ có một số đặc điểm chung hoặc cùng theo đuổi một số mục đích giống nhau”. Hoặc “Nhóm là một tập hợp của hai hoặc nhiều người, giữa các thành viên có sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau về hành vi. Nhóm là một đơn vị tồn tại một cách có tổ chức, các thành viên nhóm có cùng chung những lợi ích và các mục đích” John.C. Bringham, R. Schlenker. Như vậy, có nhiều khái niệm về nhóm, nhưng khái niệm sau đây là một khái niệm tương đối phổ quát cho các nhóm xã hội (bao gồm cả nhóm xã hội có quy mô lớn như dân tộc, giai cấp và cả các nhóm nhỏ như một nhóm học tập, kinh doanh): Nhóm xã hội là những cộng đồng người được hình thành trong quá trình phát triển lịch sự xã hội, giữ vị trí nhất định trong hệ thống các quan hệ xã hội, do đó chúng ổn định trong những thời kì phát triển lâu dài trong xã hội (dân tộc, nghề nghiệp, lứa tuổi...). 2. Phân loại nhóm Trong lịch sử Tâm lý học xã hội đã có nhiều cố gắng xây dựng một cách phân loại nhóm, đưa ra các nguyên tắc khác nhau, trên cơ sở đó đã xây dựng các phân loại như: trình độ phát triển văn hóa, loại cấu trúc, nhiệm vụ và chức năng, kiểu tiếp xúc chủ yếu trong nhóm... Thường bổ sung thêm các cơ sở như thời gian tồn tại của nhóm, nguyên tắc hình thành nhóm, các nguyên tắc trở thành thành viên nhóm vào việc phân loại nhóm. Tất cả các phân loại đó đều có quyền tồn tại. Tuy nhiên nét chung của chúng là chỉ xác định hình thức hoạt động sống của nhóm. Nếu thừa nhận nguyên tắc xem xét các nhóm xã hội hiện thực với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội thì ở đây đòi hỏi phải có nguyên tắc phân loại khác. Sự phân loại xã hội học về nhóm tương ứng với vị trí của chúng trong hệ thống các quan hệ xã hội cần phải là cơ sở. Nhưng trước khi đưa ra sự phân loại cần phải đưa vào hệ thống những cách sử dụng khái niệm nhóm đã được nói đến ở trên. Theo cách phân loại của Anđrêeva có thể có sơ đồ như sau: Các nhóm Nhóm ước lệ Nhóm thực hiện Nhóm trong phòng thực nghiệm Nhóm tự nhiên Nhóm lớn Nhóm nhỏ Nhóm tự phát Nhóm phát triển Nhóm tự phát Nhóm phát triển Trước tiên đối với Tâm lý học xã hội, việc phân chia nhóm thành nhóm ước lệ và nhóm hiện thực là có ý nghĩa. Cách phân chia này tập trung việc nghiên cứu vào nhóm hiện thực. Nhưng trong số những nhóm hiện thực đó, tồn tại cả những nhóm có hình hài trong nghiên cứu tâm lý học đại cương - nhóm trong phòng thí nghiệm hiện thực. Khác với chúng là các nhóm tự nhiên hiện thực. Sự phân tích Tâm lý học xã hội có thể có tương ứng với hình thức này khác của nhóm hiện thực. Tuy nhiên các nhóm tự nhiên hiện thực được tách ra trong các phân tích xã hội học có ý nghĩa lớn hơn. Đến lượt nó, các nhóm tự nhiên này lại được chia thành các “nhóm lớn” và “nhóm nhỏ”. Các nhóm nhỏ - trường sinh sống của Tâm lý học xã hội. Vấn đề liên quan đến việc nghiên cứu nhóm lớn phức tạp hơn và đòi hỏi được xem xét riêng biệt. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng nhóm lớn hiện diện trong Tâm lý học xã hội không giống nhau: một số nhóm lớn có được truyền thống nghiên cứu lâu dài (các nhóm lớn xuất hiện không có tổ chức, tự phát, bản thân thuật ngữ “nhóm” được dùng chỉ các nhóm này cũng mang tính tương đối), những nhóm khác - những nhóm tồn tại lâu dài và có tổ chức như giai cấp, dân tộc, ít hiện diện hơn trong tâm lý học với tư cách đối tượng nghiên cứu. II. Cấu trúc của nhóm xã hội 1. Cấu trúc chính thức Khi các cá nhân gia nhập nhóm và nhóm được hình thành, các cá nhân sẽ tương tác qua lại để cùng thực hiện mục đích và hoạt động cùng nhau của nhóm. Mỗi cá nhân có những năng lực riêng, có những nhu cầu và kì vọng riêng. Các yếu tố này được thể hiện và ảnh hưởng đến quá trình tương tác. Nhưng để nhóm có thể tồn tại và thực hiện được hoạt động của nó thì các cá nhân phải nằm trong những mối liên hệ và quan hệ nhất định. Mối quan hệ tương đối ổn định, tương đối bền vững giữa các cá nhân để tạo thành một nhóm toàn vẹn gọi là cấu trúc nhóm. Về nguyên tắc, các cá nhân có thể khác nhau, có thể thay đổi, nhưng các liên hệ đó sẽ tương đối ổn định. Một khi cấu trúc nhóm thay đổi nó sẽ làm nhóm biến đổi về chất và hình thành một loại nhóm khác. Như vậy, các thành phần nằm ở “đầu mối” của mỗi quan hệ đó gọi là các vị trí. Có thể hình dung: các liên hệ giữa các vị trí trong nhóm tạo ra m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_tam_ly_hoc_xa_hoi_phan_1.pdf
Tài liệu liên quan