Dự báo của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để phân tích một xã hội hiện thực là xã hội tư bản. Hai ông đã tìm ra quy luật phát sinh, phát triển, diệt vong của nó, từ đó dự báo về sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn – hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Sau này, đến giai đoạn Lênin, dựa trên sự kế thừa tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen cũng như trên cơ sở tổng kết thực tiễn cách mạng những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, V.I.Lênin tiếp tục đưa ra những dự báo về tính tất yếu của quá trình thay thế hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế – xã hội cao hơn, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản văn minh; dự báo về những phương hướng phát triển chủ yếu của quá trình tiến lên xã hội mới - xã hội Cộng sản chủ nghĩa; dự báo về những đặc trưng chủ yếu của xã hội tương lai - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Về tính tất yếu của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản: Bằng sự phân tích khoa học xã hội tư bản đương thời, một mặt, C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong việc phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và gắn liền với nó là giai cấp vô sản cách mạng; song mặt khác các ông cũng cho thấy mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, và khi giải quyết mâu thuẫn này sẽ dẫn tới việc thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính sự phát triển của nền đại công nghiệp làm cho nền sản xuất có tính chất xã hội lại mâu thuẩn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội đòi hỏi phải “thủ tiêu mâu thuẫn ấy”, phải “tự giải thoát khỏi cái tính chất tư bản của chúng, đến chỗ thực tế thừa nhận tính chất của chúng là lực lượng sản xuất xã hội” . Điều đó có nghĩa là, phải xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ sỡ hữu có tính chất xã hội – chế độ công hữu. Do đó, sự ra đời một xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản – đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, là một tất yếu khách quan.
- Về những phương hướng phát triển chủ yếu của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nhấn mạnh các điểm sau:
+ Một là, phải thực hiện việc xóa bỏ chế độ tư hữu. Bởi lẽ, theo các ông, việc xóa bỏ chế độ tư hữu là dấu hiệu cơ bản của bất kỳ lý luận cộng sản chủ nghĩa nào. Theo C.Mác, “Phải đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể là nó đã phát triển đến trình độ nào” đương nhiên, các ông cũng lưu ý rằng việc xóa bỏ chế độ tư hữu này cần phải được tiến hành một cách khách quan, dựa trên cơ sở phát triển chín muồi của lực lượng sản xuất chứ không phải là sự xóa bỏ chủ quan, tùy tiện.
+ Hai là, phải thực hiện cách mạng vô sản, thiết lập chuyên chính vô sản. Theo C.Mác, việc tiến hành cách mạng vô sản và thiết lập chuyên chính vô sản chính “là tiền đề đầu tiên của mọi biện pháp cộng sản chủ nghĩa” .
+ Ba là, phải cải tạo và phát triển xã hội theo hướng giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức bất công, tạo điều kiện để mọi người có thể phát triển toàn diện nhân cách của mình.
+ Bốn là, do sự ra đời chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải theo ý muốn chủ quan, mà dựa trên những tiền đề vật chất khách quan do chủ nghĩa tư bản tạo ra, cho nên trong thực tiễn cách mạng, cần phải biết vừa kế thừa, phát triển các thành tựu văn minh đạt được trong lòng xã hội tư bản, vừa xoá bỏ tính chất tư bản của nó.
162 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 613 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Triết học (Phần II), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là các hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.13, tr.15
.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, song bản thân quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động tới sự phát triển của lực lượng sản xuất bởi vì, quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp tới thái độ của người lao động, đến tổ chức và phân công lao động xã hội v.v Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó trở thành động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất, biểu hiện ở sự lạc hậu, lỗi thời hay “tiên tiến”hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì khi đó nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Trong trường hợp quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất này sẽ bị thay thế bởi quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên quá trình thay thế này không diễn ra một cách giản đơn, tự phát mà nó tùy thuộc vào năng lực tự giác của chủ thể con người. Trong xã hội có giai cấp, quá trình này chỉ diễn ra thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
b) Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
- Kết cấu của một cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, trừ xã hội nguyên thủy, bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ, quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị luôn giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, cũng như quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế – xã hội.
- Cơ sở hạ tầng của một xã hội luôn được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xả hội đó. Nếu xét sự tồn tại của quan hệ sản xuất trong một phương thức sản xuất thì nó chính là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu xét quan hệ sản xuất trong tổng thể các quan hệ xã hội khác thì nó lại trở thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức cơ sở hiện thực, trên đó hình thành một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ các quan điểm: chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáocùng với những thiết chế xã hội tưong ứng như: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ chức xã hội khác được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Kết cấu của kiến trúc thượng bao gồm nhiều yếu tố, trong đó, mỗi yếu tố đều có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng. Trong quan hệ với cơ sở hạ tầng, một mặt, tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều hình thành và phát triển trên cơ sở hạ tầng song mặt khác, mỗi một yếu tố lại có một quan hệ cụ thể với cơ sở hạ tầng này. Những yếu tố như chính trị, pháp quyền có quan hệ trực tiếp, còn các yếu tố như: triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ có quan hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng.
- Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng luôn mang tính giai cấp, thể hiện một cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng giữa các giai cấp đối kháng mà trong đó đặc trưng là sự thống trị về mặt chính trị – tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong kiến trúc thượng tầng, nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất. Bởi vì, nó không chỉ tiêu biểu cho chế độ chính trị của xã hội cụ thể mà hơn nữa, nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới có thể thực hiện được sự thống trị của mình đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh tế – xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau, trong đó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; song kiến trúc thượng tầng cũng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng biểu hiện:
+ Thứ nhất, mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Trong đó, tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì cũng giữ địa vị thống trị về mặt chính trị và tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét tới cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng là biểu hiện của sự đối kháng trong kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, bị cơ sơ sở hạ tầng quyết định.
+ Thứ hai, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay thế giữa các hình thái kinh tế – xã hội mà còn diễn ra trong từng hình thái kinh tế – xã hội. Mặt khác, trong một hình thái kinh tế – xã hội, có những yếu tố thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng, nhưng cũng có yếu tố thay đổi chậm hơn. Đặc biệt, trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi căn bản kiến trúc thượng tầng phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
- Bản thân kiến trúc thượng tầng lại có tính độc lập tương đối trong sự vận động, phát triển và có sự tác động trở lại cơ sỏ hạ tầng. Trong sự tác động này, mọi yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều tác đống đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên sự tác động của chúng là khác nhau. Đặc biệt, trong xã hội có giai cấp, nhà nước là nhân tố tác động mạnh nhất đến cơ sở hạ tầng, bởi vì nó chính là bộ máy quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế. Dù sự tác động của các yếu tố kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra với những xu hướng khác nhau; nhưng chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng thống trị là duy trì, bảo vệ và củng cố cơ sở hạ tầng sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu cơ sở hạ tầng. Do vậy, sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng cũng diễn ra theo hai hướng:
+ Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan thì nó trở thành động lực thúc đẩy kinh tế phát triển;
+ Nếu kiến trúc thượng tầng không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, thì nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế, cũng như kìm hãm tiến bộ xã hội. Tuy nhiên , trong trường hợp này, do tính quyết định cuối cùng vẫn thuộc về cơ sở hạ tầng, cho nên, sớm muộn, bằng cách này hay cách khác cũng xuất hiện sự thay thế kiến trúc thượng lạc hậu đó bằng một kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
c) Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
Dựa trên cơ sở phát hiện ra các quy luật xã hội cơ bản chi phối quá trình phát triển xã hội, cũng như trên cơ sở tổng kết sự phát triển của lịch sử trong thực tế, C.Mác đi tới kết luận khái quát: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên” C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.23, tr.21.
. Phân tích tư tưởng trên của C.Mác, chúng ta có thể rút ra một số nhận định:
- Thứ nhất, khẳng định trên của C.Mác cho thấy, sự phát triển của lịch sử nhân loại, cũng tức là sự phát triển của hình thái kinh tế – xã hội, là một quá trình khách quan, tuân theo những quy luật khách quan của nó chứ không hề phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Bản thân V.I.Lênin cũng chỉ rõ: “Mác coi sự vận động xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chịu sự chi phối của những quy luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người mà trái lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người” V.I.Lênin: Toàn tập, t.1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.200.
; và “lịch sử – tự nhiên nghĩa là quá trình lịch sử nhưng mang tính tự nhiên, tiếp tục lịch sử của giới tự nhiên, vận động theo quy luật và xét cho cùng thì không theo ý muốn con người” V.I.Lênin: Toàn tập, t.1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.538.
.
+ Trong sự vận động, phát triển của mình, các hình thái kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi quy luật phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật riêng, đặc thù. Các quy luật vận động phát triển phổ biến của xã hội là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao.
+ Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển và thay thế lẫn nhau từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. V.I.Lênin viết: “chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” Sđd, tr.163.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao, đó là con đường phát triền chung của nhân loại.
- Thứ hai, sự phát triển của xã hội, mặc dù cũng giống như sự phát triển của giới tự nhiên, biểu hiện ở chỗ, đây là quá trình khách quan, tuân theo quy luật khách quan, chứ không hề phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người; song lại không giống như sự phát triển của tự nhiên, ở chỗ nó luôn diễn ra thông qua hoạt động tự giác, có mục đích, với những lợi ích nhất định của con người. Bởi lẽ, xã hội là xã hội con người. Mọi biến đổi của xã hội đều phải thông qua hoạt động của con người. Sự tồn tại và sự chi phối của các quy luật xã hội cũng liên quan tới các hoạt động của con người. Do đó, nếu hoạt động chủ quan của con người phù hợp với quy luật khách quan, tính tự giác của chủ thể được phát huy thì sự phát triển xã hội sẽ diễn ra nhanh hơn. Ngược lại, nếu hoạt động của con người là tùy tiện, trái với quy luật khách quan thì nó sẽ làm chậm tiến trình phát triển của lịch sử. Đây chính là một sự khác biệt căn bản giữa tồn tại xã hội và tồn tại tự nhiên, giữa sự vận động, phát triển của xã hội với sự vận động, phát triển của tự nhiên.
- Thứ ba, chính vì sự phát triển của xã hội mang tính lịch sử – tự nhiên cho nên, trong sự phát triển của nó, vừa bao hàm tính phổ biến, tính quy luật chung, lại vừa bao hàm tính đặc thù, tính phong phú, đa dạng. Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi dân tộc, như điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống, về văn hoá, về tác động quốc tế Do đó, theo quan điểm của C.Mác, sự phát triển lịch sử – tự nhiên của xã hội, biểu hiện trong sự phát triển của mỗi dân tộc, hoàn toàn có thể biểu hiện dưới hình thức phát triển rút ngắn, hay là khả năng bỏ qua một, hay một vài giai đoạn phát triển nào đó để lên hẳn giai đoạn phát triển cao hơn. Điều đó cũng có nghĩa, trong tính phong phú đa dạng của sự phát triển xã hội, một mặt, trong cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhưng ở các nuớc khác nhau, với điều kiện lịch sử – cụ thể, có thể có những hình thức cụ thể khác nhau; đồng thời, mặt khác, cũng có những dân tộc sẽ lần lượt trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Đương nhiên, sự phát triển rút ngắn, sự bỏ qua đó phải được diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người. Tóm lại, theo quan điểm của triết học Mác, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra theo con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
4. Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
a) Tính khoa học của lý luận hình thái kinh tế – xã hội: Sự ra đời lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một bước chuyển biến cách mạng trong nhận thức về đời sống xã hội. Lý luận đó đưa lại quan điểm duy vật về xã hội, chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt chính trị và tinh thần nói chung. Lý luận đó cũng chỉ ra xã hội là một hệ thống có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt, các lĩnh vực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Đồng thời, lý luận đó cũng chỉ ra động lực bên trong của sự vận động phát triển xã hội; chỉ ra các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội, và do đó chỉ ra sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên .
b) Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
Thứ nhất, do lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung, cho nên, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn xã hội, người ta không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của con người để giải thích về đời sống xã hội, mà ngược lại, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội từ trong sản xuất, từ phương thức sản xuất; đồng thời, mặt khác, để có thể thực hiện được sự thắng lợi của xã hội này đối với xã hội khác, suy đến cùng xã hội đó phải tạo ra được một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, năng suất lao động cao hơn phương thức sản xuất cũ.
Thứ hai, lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội; quan hệ sản xuất lại phải phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Điều đó cho thấy, trong nhận thức, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Trong đó, phân tích quan hệ sản xuất không thể tách rời lực lượng sản xuất; phân tích các quan hệ xã hội không tách rời quan hệ sản xuất; mặt khác, trong thực tiễn, việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành một cách đồng bộ ở tất cả các mặt của đời sống xã hội: từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng, trong đó xây dựng lực lượng sản xuất mới là cái có ý nghĩa quyết định.
Thứ ba, lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra rằng, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Điều đó cho thấy, để nhận thức đúng về đời sống xã hội, về vận động phát triển của xã hội, phải đi sâu nghiên cứu tìm ra được quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội nói chung, của từng xã hội cụ thể nói riêng. Trong thực tiễn, việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới đòi hỏi phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí.
Thứ tư, lý luận hình thái kinh tế - xã hội vừa chỉ ra quy luật phát triển chung của nhân loại, vừa chỉ ra mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử - cụ thể mà có con đường phát triển riêng, đặc thù. Điều đó cho thấy, để nhận thức đúng đắn con đường phát triển của mỗi dân tộc, phải kết hợp chặt chẽ giữa việc nghiên cứu những quy luật chung với việc nghiên cứu một cách cụ thể điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc về điều kiện tự nhiên, về truyền thống văn hóa, về quan hệ giai cấp, về điều kiện quốc tế Mặt khác, trong hoạt động thực tiễn, đòi hỏi phải vận dụng một cách sáng tạo những quy luật chung vào những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc để tìm ra con đường đi một cách đúng đắn nhất.
5. Lý luận hình thái kinh tế – xã hội và cách tiếp cận lịch sử nhân loại theo lý thuyết các nền văn minh
Ngày nay, có quan điểm cho rằng cần thay thế lý luận đó bằng cách tiếp cận khác, nhất là cách tiếp cận theo các nền văn minh. Theo cách tiếp cận này, người ta phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành 3 nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp (hay còn gọi là văn minh trí tuệ, văn minh tin học). Đây là cách phân chia được sử dụng khá rộng rãi phổ biến hiện nay. Một trong những đại biểu xuất sắc của cách tiếp cận này là Alvin Toffler, nhà tương lai học nổi tiếng người Mỹ. Alvin Toffler đã phân chia lịch sử phát triển của nhân loại cho đến nay thành 3 làn sóng (hay 3 nền văn minh):
- Làn sóng thứ nhất (bắt đầu từ xã hội nguyên thủy chuyển lên văn minh nông nghiệp): Thời nguyên thủy, con người sống theo thị tộc, bộ lạc và có tính bầy đàn, sinh sống bằng câu cá, săn bắn, hái lượm sau đó chuyển lên văn minh nông nghiệp. Trong nền văn minh này, hình thành nên làng mạc, sống định cư, đi vào sản xuất nông nghiệp, đất đai là cơ sở kinh tế. Đời sống được tổ chức xung quanh làng mạc, sự phân công lao động còn đơn giản. Nền kinh tế khép kín, mỗi cộng đồng tự sản xuất hầu hết các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu riêng của mình.
- Làn sóng thứ hai (văn minh công nghiệp): Nền văn minh này bắt đầu từ những năm 1650 – 1750. Nó được thực hiện thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. Trong nền văn minh này có sự phân công lao động xã hội sâu sắc: chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất. Công nghiệp phát triển và giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế.
- Làn sóng thứ ba (văn minh hậu công nghiệp, bắt đầu ở Mỹ, sau đó đến Anh, Pháp, Đức, Nhật): Nền văn minh này gắn liền với sự ra đời những ngành khoa học mới vào những năm 50 của thế kỷ XX, như cơ học lượng tử, tin học, sinh học phân tử, đại dương học, kỹ thuật hạt nhân, sinh thái học, khoa học về vũ trụ Từ đó, xuất hiện những ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp vũ trụ, xử lý thông tin, công nghệ gen Con người đi vào sử dụng các năng lượng mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng dưới lòng đất
Cách phân chia lịch sử phát triển của xã hội thành 3 nền văn minh mặc dầu có đề cập đến các mặt khác của đời sống xã hội, nhưng chủ yếu tập trung vào sự phát triển của sản xuất, vào trình độ phát triển của kinh tế. Suy đến cùng, cách phân chia này dựa vào ba trình độ phát triển cơ bản của lực lượng sản xuất: thủ công, đại công nghiệp cơ khí và công nghiệp hiện đại do cuộc cách mạng khoa học – công nghệ mang lại. Cách tiếp cận sự phát triển của xã hội theo ba nền văn minh có ý nghĩa trong việc phân chia các thời đại kinh tế, trong việc xem xét trình độ kinh tế của mỗi nước, cũng như các giai đoạn tất yếu phải trải qua trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cách tiếp cận đó còn phiến diện, không nêu ra được cơ sở phân chia các chế độ xã hội, cũng không chỉ ra được mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và quy luật thay thế xã hội này bằng xã hội khác cao hơn. Chính vì vậy nó không thể thay thế được lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
Kể từ khi C.Mác xây dựng nên lý luận hình thái kinh tế - xã hội cho đến nay, loài người đã có nhiều bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng lý luận đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó vẫn là phương pháp luận thật sự khoa học đối với nhận thức và thực tiễn xã hội.
II. NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Dự báo của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để phân tích một xã hội hiện thực là xã hội tư bản. Hai ông đã tìm ra quy luật phát sinh, phát triển, diệt vong của nó, từ đó dự báo về sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn – hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Sau này, đến giai đoạn Lênin, dựa trên sự kế thừa tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen cũng như trên cơ sở tổng kết thực tiễn cách mạng những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, V.I.Lênin tiếp tục đưa ra những dự báo về tính tất yếu của quá trình thay thế hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế – xã hội cao hơn, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản văn minh; dự báo về những phương hướng phát triển chủ yếu của quá trình tiến lên xã hội mới - xã hội Cộng sản chủ nghĩa; dự báo về những đặc trưng chủ yếu của xã hội tương lai - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Về tính tất yếu của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản: Bằng sự phân tích khoa học xã hội tư bản đương thời, một mặt, C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong việc phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và gắn liền với nó là giai cấp vô sản cách mạng; song mặt khác các ông cũng cho thấy mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, và khi giải quyết mâu thuẫn này sẽ dẫn tới việc thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính sự phát triển của nền đại công nghiệp làm cho nền sản xuất có tính chất xã hội lại mâu thuẩn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội đòi hỏi phải “thủ tiêu mâu thuẫn ấy”, phải “tự giải thoát khỏi cái tính chất tư bản của chúng, đến chỗ thực tế thừa nhận tính chất của chúng là lực lượng sản xuất xã hội” C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.20, tr.385.
. Điều đó có nghĩa là, phải xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ sỡ hữu có tính chất xã hội – chế độ công hữu. Do đó, sự ra đời một xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản – đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, là một tất yếu khách quan.
- Về những phương hướng phát triển chủ yếu của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nhấn mạnh các điểm sau:
+ Một là, phải thực hiện việc xóa bỏ chế độ tư hữu. Bởi lẽ, theo các ông, việc xóa bỏ chế độ tư hữu là dấu hiệu cơ bản của bất kỳ lý luận cộng sản chủ nghĩa nào. Theo C.Mác, “Phải đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể là nó đã phát triển đến trình độ nào” C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.646.
đương nhiên, các ông cũng lưu ý rằng việc xóa bỏ chế độ tư hữu này cần phải được tiến hành một cách khách quan, dựa trên cơ sở phát triển chín muồi của lực lượng sản xuất chứ không phải là sự xóa bỏ chủ quan, tùy tiện.
+ Hai là, phải thực hiện cách mạng vô sản, thiết lập chuyên chính vô sản. Theo C.Mác, việc tiến hành cách mạng vô sản và thiết lập chuyên chính vô sản chính “là tiền đề đầu tiên của mọi biện pháp cộng sản chủ nghĩa” Sđd, tr.391.
.
+ Ba là, phải cải tạo và phát triển xã hội theo hướng giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức bất công, tạo điều kiện để mọi người có thể phát triển toàn diện nhân cách của mình.
+ Bốn là, do sự ra đời chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải theo ý muốn chủ quan, mà dựa trên những tiền đề vật chất khách quan do chủ nghĩa tư bản tạo ra, cho nên trong thực tiễn cách mạng, cần phải biết vừa kế thừa, phát triển các thành tựu văn minh đạt được trong lòng xã hội tư bản, vừa xoá bỏ tính chất tư bản của nó.
- Về những đặc trưng chủ yếu của xã hội tương lai - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa: Dựa vào sự tổng kết lịch sử đương thời cũng như dựa vào sự suy luận lôgíc về sự phát triển tất yếu của lịch sử, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nêu ra những đặc trưng tiêu biểu nhất của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như sau:
+ Một là, cơ sở vật chất của xã hội mới phải ở một trình độ phát triển cao. Tương ứng với thời kỳ đó, theo các ông, cơ sở vật chất này sẽ phải là một nền đại công nghiệp cơ khí. Đối với C.Mác, Ph.Ăngghen, chỉ khi nào có được một nền sản xuất dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, thì khi đó mới có thể nói tới sự chuyển biến từ tư bản chủ nghĩa lên cộng sản chủ nghĩa, mới có thể nói đến sự ra đời và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Còn đối với V.I.Lênin, ông chỉ rõ: “nếu không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được” V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, t.36, tr.368.
; và “nếu không có sự cải tạo nền sản xuất thành một nền đại công nghiệp cơ khí, thì công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ còn là một mớ sắc lệnh” V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, t.42, tr.36-37.
. Theo V.I.Lênin, nền đại công nghiệp là cơ sở thực sự, chủ yếu và duy nhất của chủ nghĩa xã hội.
+ Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Đây được xem là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội.
+ Ba là, chủ nghĩa xã hội là xã hội điều tiết một cách có kế hoạch nền sả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_triet_hoc_phan_ii.doc