Thứ hai là tính đa dạng: Thị trường vốn đa dạng, bởi vậy giáo dục đào tạo phải
tương thích với loại thị trường này (loại hình trường lớp, hình thức đào tạo . )
- Tuy nhiên các mô hình nêu trên không hoàn toàn là tuyệt đối về kế hoạch hay
tự do. Tên gọi của loại kiểu mô hình chỉ hàm ý về nguyên tắc cơ bản, khuynh hướng
chỉ đạo của nó. Mô hình kế hoạch trong mô hình tự do trong phát triển giáo dục luôn
thống nhất với chính trị, kinh tế và văn hóa tương ứng. Mỗi quốc gia là một thể hữu cơ
hoàn chỉnh, giáo dục là bộ phận cấu thành của hệ hữu cơ này, có sự ảnh hưởng qua lại
để điều hòa lẫn nhau. Song, do yêu cầu của sản xúât~hiện đại và sự phát triển
KHKT,do sự tăng cường lẫn nhau giữa các nước, sự khác biệt giữa hai loại mô hình
này càng được thu hẹp (hơn 400 năm trước trong "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" Mác
đã chỉ rõ:"Tình trạng bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp của địa phương, của dân tộc
trước kia đã mất đi, bây giờ đã được thay thế bởi sự qua lại lần nhau, dựa vào nhau
trên các phương diện của các danh tộc. Sản xuất vật chất như vậy, sản xuất của tinh
thần cũng như vậy, thành quả của hoạt động tinh thần của các dân tộc đã trở thành thứ
mà mọi người cùng hưởng thụ").
Trên thực tế, hiện nay các nước đều đang kéo dài niên hạn giáo dục bắt buộc, phổ
cập trung học, mở rộng và phát triển giáo dục cao đẳng, đại học, phát triển mạnh giáo
dục nghề nghiệp. Về quản lý, nước tập quyền giáo dục như Liên Xô Pháp đã lần lượt
giảm bớt quyền lực tập trung, giảm bớt kế hoạch, tăng cường tính linh hoạt. Ngược lại,
các nước có sự phân quyền giao dục như Mỹ đã nhấn mạnh tới vai trò của tập trung
thông qua việc đầu tư ngân sách trong việc cơ cấu nhà trường, phát triển mạng lưới, .
Trong chương trình học, các nước đều chuyển theo xu hướng tăng cường kiến thức cơ
sở chuyên ngành, một mặt ở cấp độ cao thì phân hóa chuyên biệt để đào tạo nhân tài.
- Giáo dục Việt Nam hiện náy chủ yếu thuộc mô hình kế hoạch hóa, song đã dần
có tính thích ứng và linh hoạt, trếp thu một số yếu tố của mô hình tự do để phát triển
giáo dục.
- Cần hiểu răng sự khác biệt giữa mô hình kế hoạch và mô hình tự do không chỉ
là sự khác biệt của chế độ giáo dục (bao gồm chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ chi
ngân sách, phân phối, chiêu sinh, chế độ dạy học . ) mà còn là sự khác biệt của hình
thái ý thức. Không nên nhấn mạnh tính chung (sự tự do trong phát triển) mà coi nhẹ ý
thức hệ do ĐCS VN lãnh đạo.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 643 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Triết lí giáo dục (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản, hiện đại, sát với thực tiễn Việt 
Nam, làm cho vốn văn hóa, khoa học và kỹ thuật, khoa học và kỹ thuật giảng dạy ở 
nhà trường có tác dụng thật sự trong việc hình thành thế giới quan khoa học, phát triển 
tư duy khoa học, phát triển năng lực hành động của học sinh). Nội dung giáo dục quán 
triệt nguyên tắc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, coi trọng việc giáo dục lao động, kết hợp 
chặt chẽ giữa lý luận với thực hành, học tapạ với lao động sản xuất. Nội dung giáo dục 
được hoàn thiện theo nguyên tắc toàn diện và cân đối trong nội dung giáo dục phải bao 
hàm giáo dục tư tưởng văn hóa, khoa học kỹ thuật, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể 
chất. 
• Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7 (711 99 1 ) đã đề ra mục trêu cho ngành giáo 
dục đó là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ 
lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng 
tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu CNXH. Nhà trường đào tạo thế hệ 
 37
trẻ theo hướng toàn diện, có năng lực chuyên môn, có ý thức và khả năng tự tạo việc 
làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. 
• Bước vào thế kỷ XXI, mục trêu giáo dục được đặt ra trên 4 mặt cơ bản: học để 
biết (nắm được công cụ của sự nhận thức) ; học để làm (tác động lên môi trường sống 
một cách chủ động) ; học để cùng chung sống hòa nhập (tham gia vào các mối quan hệ 
xã hội) ; học đem tồn tại, để phát triển (là con đường chủ yếu để thâm nhập vào 3 mục 
trêu trên). Những mục trêu cơ bản này đặt ra nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu 
trang bị ngày càng nhiều và hiệu quả cho người học các tri thức và kỹ năng sống để có 
thể phát triển phù hợp với nền văn minh trí tuệ với giới hạn về thời gian và không gian 
mà tuổi trẻ được tích lũy hành trang trong học đường. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét cụ 
thể 4 mục trêu cơ bản đó: 
Học để biết: có thể xem mục trêu này vừa là phương trện, vừa là mục đích của 
cuộc sống, nhờ có việc học mà con người hiểu được thế giới xung quanh mình - từ đơn 
giản đến phức tạp, từ quá khứ đến hiện đại để có thể chủ động kế tục sự nghiệp của 
các thế hệ đi trước, vững bước tới tương lai. Nội dung của sự hiểu biết rất phong phú, 
nó đòi hỏi mỗi người phải biết mình, biết đòi hỏi của hiện thực, là cơ sở cho sự rèn 
luyện bản ngã về đạo đức, về tư tưởng, trí tuệ. 
Để hiểu biết, con người phải học thường xuyên, suất đời. Nhà trường sẽ là nơi 
cung cấp cho thế hệ trẻ công cụ, phương pháp để họ có thể trếp tục học tập và phát 
triển suất đời trong mọi hoạt động mà họ tham gia. 
Học để làm: Không chỉ dừng lại ở mức độ tay nghề, kỹ năng nghề đối với một 
nghề nghiệp mà còn là sự hình thành cho họ năng lực thực hành nghề để đáp ứng sự 
biến động của công nghệ, kỹ thuật. Sự gia tăng của hoạt động trí tuệ và hoạt động dịch 
vụ trong sản xuất và trong đời sống xã hội, đòi hỏi người lao động phải được chuẩn bị 
để có được các kỹ năng giao trếp, ứng xử, các phẩm chất nhân văn, kỹ năng thiết lập 
được những quan hệ bền vững các yếu tố về mối quan hệ giữa người và người). 
Sản xuất ở trình độ công nghệ cao hơn đòi hỏi những kỹ năng trí tuệ kết hợp với 
kỹ năng ứng xử, sự phân bổ hài hòa giữa lao động và giải trí lành mạnh để công việc 
đạt hiệu quả. Có thể nói học để làm luôn dựa trên học để biết trong suốt cuộc đời của 
mỗi cá nhân trong xã hội phát triển. 
Học để chung sống: Giáo dục phải giúp cho mỗi con người biết chung sống theo 
huyết tộc, trong cộng đồng làng xóm, trong nước và quốc tế. Muốn vậy phải cung cấp 
cho họ biết rõ vị trí, thứ bậc của bản thân trong các mối quan hệ để hiểu mình, hiểu 
người trong việc hướng tới mục trêu chung. Như vậy, học để chung sống sẽ làm cho 
người không chỉ có ý thức về trách nhiệm, quyền lợi của một công dân mà còn là một 
thành viên tích cực của xã hội. Muốn biết chúng sống, mỗi người phải có tri thức, phải 
có các cảm xúc và sự nhạy cảm để tạo nên các giá trị, thái độ, tín ngưỡng trong các 
mối quan hệ xã hội ; phải có lòng tự trọng về mặt cá nhân và xã hội để biết lắng nghe 
 38
người khác, biết đời sống cộng động. Như vậy, giáo dục để chung sống một mặt nó 
xác định và cổ văn cho một tập hợp các giá trị cơ bản được mọi cá nhân, mọi công 
đồng, mọi dân tộc thừa nhận, song mặt khác nó hình thành cho cá nhân biết thừa nhận 
và tôn trọng sự khác biệt của người khác. 
Học để làm ngư để phát triển: Giáo dục phải góp phần vào sự phát triển toàn 
diện của mỗi cá nhân trên các mặt thể lực và trí tuệ, sự thông minh, tính nhạy cảm, 
khiếu thẩm mỹ, trách nhiệm cá nhân, các giá trị tinh thần và tâm linh. Giáo dục phải 
hình thành tính chủ động, độc lập. Sáng tạo để có thể tự xác định mình phải làm gì 
trong những hoàn cảnh sống riêng biệt - làm được điều này chính là giáo dục đã đem 
lại sự tự do về tư tưởng để họ phát triển tài năng và làm chủ số phận mình. 
Bốn mục trêu trên đây của giáo dục hiện đại được đặt ở vị trí ngang nhau trong 
sự phát triển của mỗi cá nhân, nó đem đến sự cân bằng về tầm qua trọng của trí tuệ, 
của lý thuyết, của thực tiễn. Hội nghị giáo dục quốc tế về "học để chung sống" (2001) 
đã nhấn mạnh "học để biết", "để làm", "để phát triển", là những mặt chủ yếu cho sự 
phát triển cá nhân, của các cộng đồng hoặc của từng dân tộc. Học để chung sống có 
mộc bản chất khác và có tính toàn cầu hơn: thiếu cột trụ này có thể dẫn tới hệ quả là sẽ 
thủ trêu mọi cố gắng khác nhằm phục vụ giáo dục, phục vụ sức khỏe và sự phát triển, 
nhằm hạn chế các tranh chấp giữa các dân tộc, các cuộc nội chiến, chủ nghĩa khủng bố 
dưới mọi hình thức, sự lãng phí của các nguồn lực, tài chính, tự nhiên, ... 
BÀI 3: MÔ HÌNH GIÁO DỤC 
1. Khái niệm: 
 * Mô hình theo nghĩa hẹp là một hình mẫu ước đoán về một sự vật, một hiện 
tượng trong tương lai. Mô hình là một khái niệm có tính đàn hồi: một phương thúc dạy 
học cũng có thể được coi là một mô hình. 
* Mô hình theo nghĩa rộng bao gồm trong nó những đặc trưng cơ bản, phương 
thức cơ bản của một nền giáo dục của một quốc gia trong một giai đoạn.Mô hình giáo 
dục là căn cứ của GCGD. 
2.Thuyết mô hình giáo dục. 
+ Thuyết này cho rằng mô hình giáo dục chủ yếu là sự phản ánh của kinht ế và 
trình độ KHKT, mô hình GD luôn thích ứng với từng giai đoạn phát triển xã hội. Theo 
đó, xã hội khi có sự biến đổi thì mô hình giáo dục cũng có sự biến đổi tương ứng. 
+ Sự phát triển xã hội phân thành ba giai đoạn: trểu công nghiệp, công nghiệp và 
hậu công nghiệp. Tương ứng với các giai đoạnt rên tồn tại 3 mô hình giáo dục. 
2.1. Mô hình giáo dục thòi kỳ tiều công nghiệp: Giáo dục phục vụ một số ít 
người trong dòng hộ quí tôi địa chỉ và người giàu có. Giáo dục nhà trường là hình thức 
giáo dục duy nhất. 
- Đặc trưng của giáo dục là chính qui và chế độ hóa. 
 39
- Mục đích việc trếp thu giáo dục không ở việc con người học được điều gì ở nhà 
trường mà bản thân việc giáo dục đã là một mục đích, một tượng trưng cho quyền 
được nhận giáo dục và có giáo dục. 
- Nội dung giáo dục không truyền bá cho học sinh bản lĩnh sống, kiến thức thực 
dụng (vì đây là những điều không được bước vào cuộc sống giàu sang quý tộc) 
+ Trong mô hình này, quan hệ thầy trò là quan hệ một chiều: thầy đồ - đồ đệ 
(thầy truyền thụ, trò trếp thu). Giá trị của thầy là giá trị của trò. Học vấn được truyền 
đạt xa rời thực tiễn, chủ yếu là hun~ỉ đúc tinh thần - điều mà giai cấp bóc lột xem như 
đặc quyền, niềm tự hào, là sự phân biệt với tầng lớp bình dân. Loại giáo dục này 
không giáo dục con người biết làm bất cứ việc gì, bởi cái có tác dụng thực sự tạo nên 
giá trị con người là dáng đi, vẻ đứng, lời ăn trếng nói, xã giao ... . chứ không phải là sự 
cống hiến cho xã hội. 
Mô hình giáo dục/à hoàn toàn phù hợp với sự phát triển xã hội đường thời, khi 
kinh nghiệm sản xuất xã hội chủ yếu dựa vào sự truyền đạt giữa thầy và trò mà không 
cần đến nhà trường. 
2.2. Mô hình giáo dục cạnh tranh tương ứng với thời đại công nghiệp hóa. 
Tính cách mạng của công nghiệp hiện đại hóa và cạnh tranh gắt gao trên thị 
trường đặt ra cho giáo dục phải đào tạo cho xã hội: "lớp người mới" được giáo dục, có 
đủ khả năng tham gia vào sản xuất và thương trường. Nội dung học vấn mang tính 
thực dụng bao gồm lôgíc học, số học, hình học, vật lý, lý học, thiên văn học, địa chất 
học, sinh học, xã hội học, sinh lý học, tâm lí học, nghệ thuật. 
- Mô hình giáo dục cạnh tranh phù hợp với yêu cầu của kỹ thuật và thương mại, 
người học phải đạt tới "trêu chuẩn hóa", "pháp luật và trật tự", "trung thực với xã hội". 
- Mô hình giáo dục này được thiết kế để người nhận giáo dục thích ứng được với 
xã hội/.thoa mãn cá nhân được đặt vào hàng thứ yếu. Thi cử đa dạng, trêu chuẩn hóa 
dẫn tới sự bùng nổ phường pháp trắc nghiệm tâm lý, học sinh bị rơi vào lưới trêu 
chuẩn, giỏi được sử dụng, không giỏi bị đào thải, vì thế trong giáo dục cũng có sự cạnh 
tranh)có người thắng và có kẻ bại. 
Cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, giáo dục tăng cường rèn luyện nghề nghiệp sau 
trung học, nền giáo dục thiếu giá trị nhân văn (coi nhẹ các bộ môn KHXH nhân văn). 
2.3. Mô hình giáo dục phục vụ cho thời đại hậu công nghiệp 
- Giáo dục có tính đại chúng hóa và hướng tới phổ cập hóa, nghĩa vụ hóa đã làm 
cho giáo dục trở thành lĩnh vực phục vụ - vì mọi người. Quan hệ thấy trò từ một chiều 
trở thành quan hệ bình đẳng, giá trị đơn nhất trở thành giá trị đa dạng, xã hội hiện đại 
bản thân đã không có nhận thức giá trị thống nhất nên nhận thức giá trị của thầy không 
thể áp đặt cho học sinh. 
(Trong xã hội hiện đại phục vụ là một hiện tương rộng, bởi mỗi người vừa có thể 
 40
đi phục vụ người khác và cũng là đối tượng phục vụ của người khác). Phục vụ hoàn 
toàn là quan hệ công việc, là một quan hệ xã hội phổ biến. Mọi người đều bình đẳng 
về nhân cách. Ở thời hiện đại, không thể so sánh được bề rộng và chiều sâu của đời 
sống xã hội cũng như tốc độ và nhịp điệu đổi mới tri thức, do đó không có sự vật vĩnh 
cửu, bất biến, không có kinh nghiệm trêu chuẩn nào có thể áp dụng cho mọi sự vật). 
Mô hình giáo dục phục vụ lấy giáo dục suất đời là sợi dây chính, lấy giáo dục sơ 
cấp và trung cấp làm nền tảng cơ sở cho giáo dục suất đời. 
+ Nội dung và phương pháp giáo dục suất đời là sợi dây chính, lấy giáo dục sơ 
cấp và trung cấp làm nền tảng cơ sở giáo dục suất đời. 
+ Nội dung không hạn chế trong nhà trường mà tạo ra sự liên tưởng tới mọi gia 
đình (dưới sự trợ giúp của tin học) và theo nguyên tắc "hợp tác", "đối thoại". 
Việt Nam đang trong gia đoạn phát triển công nghiệp, giáo dục được xây dựng 
theo mô hình có lợi cho việc mở rộng phạm vi được giáo dục, nâng cao chất lượng 
giáo dục làm chính. Tuy nhiên ở chừng mực nhất định, ảnh hưởng của xã hội thông 
tin, ở một số khu vực cũng sẽ thể hiện tôn chỉ giáo dục suất đời, phát triển theo hướng 
xã hội hóa học tập. Chính bởi vậy chúng ta đang đứng trước việc xây dựng một một 
hình giáo dục chưa có trong hiện thực phát triển lịch sử vừa mang tính cạnh tranh công 
nghiệp hóa, vừa đượm màu sắc của xã hội thông tin, giáo dục phục vụ). 
- Căn cứ vào đặc tính phát triển kinh tế trong thế kỷ XX, tương ứng với nó, giáo 
dục tồn tại 2 mô hình cơ bản: mô hình kế hoạch hóa và mô hình tự do. 
+ Mô hình kế hoạch hóa: Mô hình này được hình thành trong cơ chế phát triển 
kinh tế có kế hoạch, sản xuất, lưu thông, phân phối đều căn cứ vào kế hoạch,(kế hoạch 
này được huế lập trên cơ sở hiểu biết và dự đoán của một số tổ chức trong cơ quan 
Nhà nước, vì thế cũng có thể phù hợp với thực tê và có thể sai lệch. Đây chính là sự 
phát triển kinh tế theo chủ nghĩa chủ quan- duy ý chí). 
Tương ứng với nền kinh tế kế hoạch hóa, giáo dục cũng phản ánh những tính 
chất tương tự: Kế hoạch giáo dục như đầu tư giáo dục, quản lý giáo dục, điều phối 
nguồn giáo viên, phân phối chiêu sinh, chế định giáo trình, chuyên ngành đào tạo, ... 
đều thực hiện thông qua kế hoạch. 
Thứ hai, giáo dục là đơn nhát, theo kế hoạch cứng, tất cả những qui phạm giáo 
dục, phát triển giáo dục, thời gian, đối tượng giáo dục, hệ thống giáo dục, chế độ chính 
sách giáo dục là không thay đổi, được hạn chế trong phạm trù giáo dục trường học, 
thước đo giá trị của giáo dục là học lực, lên lớp, văn bằng theo chuẩn mực qui định của 
Nhà ngước. 
+ Mô hình tự do: Mô hình này được hình thành dựa trên sự phát triển kinh tế thị 
trường, nền kinh tế này không do kế hoạch mà là do thị trường điều trết quá trình sản 
xuất lưu thông, phân phối, trêu dùng hàng hóa. Giá trị hàng hóa được thể hiện thông 
 41
qua tự do cạnh tranh . 
Tương ứng với nó, giáo dục tạo nguồn nhân lực cũng trở thành một dạng thị 
trường sản xuất hàng hóa đặc biệt - con người, bởi vậy giáo dục đào tạo phải căn cứ 
vào nhu cầu thị trường để không ngừng điều tiết (mục trêu đào tạo, cơ cấu, tỷ lệ nguồn 
nhân lực cần đào tạo,cơ cấu loại hình trường học, chuyên môn, chương trình ... đều có 
kế hoạch động, mềm dẻo. Ở mô hình này nổi lên 2 đặt điểm là: 
Thứ nhất là tính tự do: Tính tự do được biểu hiện trong sự linh hoạt của hệ thống, 
nội dung chương trình, tuyển sinh, ... tính tự trị và tự chủ của phát triển giáo dục. 
Thứ hai là tính đa dạng: Thị trường vốn đa dạng, bởi vậy giáo dục đào tạo phải 
tương thích với loại thị trường này (loại hình trường lớp, hình thức đào tạo . ) 
- Tuy nhiên các mô hình nêu trên không hoàn toàn là tuyệt đối về kế hoạch hay 
tự do. Tên gọi của loại kiểu mô hình chỉ hàm ý về nguyên tắc cơ bản, khuynh hướng 
chỉ đạo của nó. Mô hình kế hoạch trong mô hình tự do trong phát triển giáo dục luôn 
thống nhất với chính trị, kinh tế và văn hóa tương ứng. Mỗi quốc gia là một thể hữu cơ 
hoàn chỉnh, giáo dục là bộ phận cấu thành của hệ hữu cơ này, có sự ảnh hưởng qua lại 
để điều hòa lẫn nhau. Song, do yêu cầu của sản xúât~hiện đại và sự phát triển 
KHKT,do sự tăng cường lẫn nhau giữa các nước, sự khác biệt giữa hai loại mô hình 
này càng được thu hẹp (hơn 400 năm trước trong "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" Mác 
đã chỉ rõ:"Tình trạng bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp của địa phương, của dân tộc 
trước kia đã mất đi, bây giờ đã được thay thế bởi sự qua lại lần nhau, dựa vào nhau 
trên các phương diện của các danh tộc. Sản xuất vật chất như vậy, sản xuất của tinh 
thần cũng như vậy, thành quả của hoạt động tinh thần của các dân tộc đã trở thành thứ 
mà mọi người cùng hưởng thụ"). 
Trên thực tế, hiện nay các nước đều đang kéo dài niên hạn giáo dục bắt buộc, phổ 
cập trung học, mở rộng và phát triển giáo dục cao đẳng, đại học, phát triển mạnh giáo 
dục nghề nghiệp. Về quản lý, nước tập quyền giáo dục như Liên Xô Pháp đã lần lượt 
giảm bớt quyền lực tập trung, giảm bớt kế hoạch, tăng cường tính linh hoạt. Ngược lại, 
các nước có sự phân quyền giao dục như Mỹ đã nhấn mạnh tới vai trò của tập trung 
thông qua việc đầu tư ngân sách trong việc cơ cấu nhà trường, phát triển mạng lưới, ... 
Trong chương trình học, các nước đều chuyển theo xu hướng tăng cường kiến thức cơ 
sở chuyên ngành, một mặt ở cấp độ cao thì phân hóa chuyên biệt để đào tạo nhân tài. 
- Giáo dục Việt Nam hiện náy chủ yếu thuộc mô hình kế hoạch hóa, song đã dần 
có tính thích ứng và linh hoạt, trếp thu một số yếu tố của mô hình tự do để phát triển 
giáo dục. 
- Cần hiểu răng sự khác biệt giữa mô hình kế hoạch và mô hình tự do không chỉ 
là sự khác biệt của chế độ giáo dục (bao gồm chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ chi 
ngân sách, phân phối, chiêu sinh, chế độ dạy học ... ) mà còn là sự khác biệt của hình 
thái ý thức. Không nên nhấn mạnh tính chung (sự tự do trong phát triển) mà coi nhẹ ý 
 42
thức hệ do ĐCS VN lãnh đạo. 
3. Thuyết dao động chu kỳ "đồng hồ quả lắc" và mô hình giáo dục 
Sự phát triển giáo dục của mỗi quốc gia có thể dựa trên những quan điểm khác 
nhau: đa dạng hóa, xã hội hóa giáo dục,nhà nước,thống nhất quản lý giáo dục. 
Nhấn mạnh kiến thức lý luận (học thuật), lấy trường học làm trung tâm và nhấn 
mạnh kiến thúc thực tiễn, lấy xã hội làm trường học. 
Trên thế giới, phát triển giáo dục luôn tồn tại 2 cực: chủ trương giáo dục chính 
qui,coi trọng học thuật và chủ trương giáo dục phi chính qui, coi nhẹ học thuật, coi 
trọng thực tiễn. 
2.1. Mục đích trung tâm của mô thức học thuật của giáo dục là coi trọng học 
thuật, việc học tập được thực hiện ở nhà trường, tất cả hoạt động giáo dục đều có liên 
hệ với nhà trường, trếp nhận giáo dục đồng nghĩa với đi học, hạt nhân của trường học, 
đọc sách, tự nghiên cứu. Trình độ nhận thức được phân cấp thành cấp học, sự chuyển 
đổi cấp học được thực hiện qua thi cử, đánh giá và qua đó chọn lọc để đảm bảo chất 
lượng. Trình độ giáo dục càng cao, chọn lọc càng kỹ lưỡng, cạnh tranh càng gay gắt 
* Mô hình học thuật bị phê phán về đặc điểm yếu nhất của nó là chế độ thủ cựu 
cứng nhắc và thoát ly cuộc sống. Nó hạn chế phạm vi của chương trình học, hạn chế 
việc phát triển kinh nghiệm sống của học sinh 
2.2. Mô hình thực tiễn (cách mạng) cắt giảm vị trí trung tâm trường học, coi 
trường học chỉ là một trong nhiều cơ cấu giáo dục, xã hội có tác dụng tích cực 
trong giáo dục, coi xã hội tà giáo viên 
Mô hình thực tiễn lấy xã hội làm trung tâm, nếu như mô hình học thuật có định 
hướng tới việc chiếm lĩnh kiến thức, còn mô hình thực tiễn lấy định hướng là hành 
động. Chương trình nội dung trong mô hình học thuật được xây dựng bởi các chuyên 
gia, học giả, còn trong mô hình thực tiễn nó được xây dựng bởi nhà chính trị hoặc 
quần chúng có kinh nghiệm. 
2.3. Sự chao đảo, thay thế lẫn nhau giữa 2 mô hình giáo dục là hiện tượng 
phổ biên trong phát triển giáo dục của nhiều nước trên thế giới. 
* Ở Mỹ vào những năm 20 giáo dục phản đối lấy trường học làm trung tâm, lấy 
giáo viên làm trung tâm mà lấy học sinh làm trung tâm, chủ trương lấy xã hội làm 
giảng đường. 
* Sau chiến tranh thế giới thứ 2 đã ban hành "Luật giáo dục quốc phòng "lấy việc 
bồi dưỡng nhân tài có khoa học kỹ thuật cao làm mục trêu, tăng cường chương trình 
học về toán, khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, tăng cường hệ thống tri thức khoa trong 
giảng dạy ở trường học . 
* Sau những năm 60, xã hội Mỹ có nhiều vấn đề (mâu thuẫn chủng tộc, phong 
 43
trào phản chiếu , phong trào thanh niên , phụ nữ ... ) .Họ phê phán trường học, cho 
rằng nhà trường thiếu gánh vác trách nhiệm xã hội. Giáo dục Mỹ lại chuyển sang mô 
hình thực tiễn nhằm nâng cao quyền chủ động, tự giác của học sinh cải cách kết cấu 
chương trình, giới hạn niên cấp bị cắt bỏ, chương trình học truyền thống được thăng 
bằng chương trình "học tập độc lập", "chương trình học xây dựng học sinh". 
* Sau thập niên 80, chất lượng giáo dục nhà trường Mỹ xuống cấp, nhiều chương 
trình học thật nông cạn, trêu chuẩn học thuật bị hạ thấp, quản lý giáo dục bị buông 
lỏng, kỷ luật nhà trường bị xáo trộn, ... Nước Mỹ lại khôi phục nền giáo dục học thuật 
phục vụ cho sự phát triển các khoa học đi đầu như hàng không, sinh vật, hải dương 
học, năng lượng , vi tính . Giáo dục được phát triển nghiêng về các mô hình học thuật. 
Có thể nói, nước Mỹ đã trải qua 4 lần dao động theo chu kỳ, mỗi khi mâu thuẫn 
xã hội trở nên gay gắt, chính trị, kinh tế xuất hiện nguy cơ, khi đó họ phai dựa vào giáo 
dục để trung hòa mâu thuẫn - Giáo dục Việt Nam theo mô hình thực tiễn. Còn khi gặp 
phải sự tụt hậu về khoa học, kỹ thuật, đào tạo nhân tài, phát triển khoa học mũi nhọn, 
giáo dục lại được phát triển theo mô hình học thuật. Lịch sử giáo dục Mỹ cũng cho 
thấy, độ dao động của đồng hồ quả lắc giữa 2 cực ngày càng nhỏ, các mô hình ngày 
càng trếp thu ưu điểm của nhau và có xu thế dung hòa, pha trộn. 
* Ở Liên Xô (cũ) nên giáo dục cũng trải qua 4 lần dao động lớn: - Trước năm 20, 
cuộc cải cách phá bỏ nền giáo dục xa hoàng, nền giáo dục phát triển theo mô hình thực 
tiễn (cách mạng), nhấn mạnh vai trò hoạt động của người học , xã hội hóa quá trình 
dạy học ... 
- Sau những năm 30, do nhà trường chưa duy trì được chất lượng dạy học, không 
thích ứng được sự phát triển kinh tế, nền giáo dục được chuyển sang mô hình học thuật 
với việc nâng cao chất lượng dạy học, khôi phục chế độ phương pháp giáo dục truyền 
thống, nhiệm vụ chính của nhà trường là truyền thụ tri thức khoa học. 
- Sau năm 1958 giáo dục Liên Xô được cải cách toàn diện, nhấn mạnh giáo dục 
kết hợp với lao động sản xuất, với đời sống xã hội, xóa bỏ qui phạm giáo dục truyền 
thống, chuyển giáo dục sang mô hình thực tiễn (cách mạng). 
- Sau năm 1984, Liên Xô trếp tục triển khai cải cách giáo dục với sự dung hòa 
giữa 2 loại mô hình giáo dục. 
2.4. Ở Việt Nam, mô hình giáo dục được xây dựng và chuyển đổi dựa trên sự 
phát triển khách quan và sự khác nhau của đời sống xã hội 
- Việt Nam là một quốc gia coi trọng luân lý truyền thống, nội dung giáo dục 
trong xã hội cũ chủ yếu là "tứ thư", "ngũ kinh'!, theo đuổi "hiểu biết mọi vật, chính 
tâm, thành ý" để tu dưỡng bản thân. Kẻ đi học chủ yếu là tầm chương, trích cú hiểu 
biết về luân thường đạo lý để ứng xử chứ không phải trếp thu tri thức hệ thống tri thức 
khoa học chủ yếu bởi sự hiếu kỳ - e dè - đành phải chấp nhận. 
 44
- Sau cách mạng tháng 8/1945 cho tới cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2(1956) 
trong việc xây dựng một nền giáo dục mới, chúng ta đã chú trọng cả mặt tăng cường 
học thuật và tính thực tiễn trong tổ chức các hoạt động giáo dục, đặc biệt là sau hòa 
bình lập lại(1954) ở miền Bắc cùng với cải cách ruộng đất, đánh đôi giai cấp tư sản 
mại bản, xóa bỏ công thương nghiệp tư bản tư doanh, đấu tranh chống tư tưởng nhân 
văn trong giới văn học nghệ thuật và giáo dục là luồn) sinh khí mới về tính thực tiễn 
trong giáo dục. Các hình thức lao động sản xuất được đưa vào nhà trường, các điển 
hình như lá cờ đầu Bắc Lý, trường thanh niên lao động XHCN Hòa Bình ... đều là 
những tấm gương về gắn giáo dục với việc đào ra lớp người lao động có năng lực 
hành động để phục vụ quê hương. Mô hình giáo dục nghiêng về mô hình thực tiễn hơn 
là học thuật. Thời gian thực hiện mô hình này kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới của đất 
nước 1991 với quan điểm chiến lược : Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng 
nhân tài . Từ đó cho tới nay, vấn đề học thuật trong giáo dục được đề cao, cải cách 
giáo dục đề cập tới vấn đề nâng cao chất lượng của nội dung chương trình, hệ thống 
giáo dục mở rộng việc đào tạo đại học sau đại học, xã hội có xu hướng trọng người có 
bằng cấp thi cử là cửa ải đầy gian nan cho lớp trẻ, cũng từ đó, những tiêu cực trong xã 
hội cũng gia tăng. Những năm cuối cùng của thế kỷ 20, giáo dục gắn liền với nhà 
trường nhiệm vụ chính của học sinh là học tập, cùng với sự xâm nhập của cơ chế thị 
trường, lao động của học sinh được thay thế bằng đồng tiền đóng góp cho cơ sở đào 
tạo...chính điều này tạo nên nguồn lực ngăn cách ở mức độ khác nhau giữa học sinh 
và đời sống xã hội. Cơ cấu đào tạo, nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội đi 
theo mô hình học thuật cũng tạo ra sự mất cân đối: chú trọng đào tạo đại học là coi nhẹ 
đào tạo công nhân - "lắm thầy nhiều thợ", chương trình đào tạo, NCKH nặng tính hàn 
lâm nên hiệu quả thực tiễn không cao, nguồn ngân sách chi cho đào tạo không nhỏ 
nhưng sau khi ra trường nhiều người không có việc làm, gây ra tình trạng lãng phí 
mang tính xã hội. 
- Từ sau Đại hội Đảng X, giáo dục Việt Nam đang có xu thế chuyển sang mô 
hình thực tiễn, chú trọng tới tính hữu dụng của nội dung chương trình, đào tạo ngành 
nghề được chú trọng, thu hút các lực lượng xã hội tham gia đào tạo để đáp ứng nhu 
cầu của chính họ...Sự "chuyển cực " này trong sự phát triển giáo dục Việt Nam là tín 
hiệu đáng mừng trong giai đoạn CNH - HĐH đất nước khi mà nhu cầu nguồn nhân lực 
có trình độ khoa học và đặc biệt là tay nghề được đặt lên như một trêu chuẩn cất lõi để 
đáp ứng đòi hỏi của phát triển sản xuất. Tuy nhiên, nếu phát triển thái quá phần thực 
tiễn mà sao nhãng phần học thuật sẽ là một sai lầm mà việc sửa chữa nó sẽ rất nan giải 
? Để dung hòa giữa 2 mô hình này, một mặt chúng ta mở rộng mạng lưới ở trường cao 
đẳng và THCN, tăng qui mô và số lượng, mặt khác tạo ra hệ thống các trường đại học 
có chất lượng - trường trọng điểm, mở rộng xã hội hóa giáo dục, quyền tự chủ của cơ 
sở đào tạo nhưng có sự tự kiểm định, đánh giá chất lượng nghiêm ngặt, thay đổi hình 
thực thi tuyển, tăng cường quản lý theo luật .... cùng với sự thay đổi cơ chế quản lý 
Nhà nước về giáo dục sẽ làm giảm bớt khoảng cách giữa hai mô hình phát triển giáo 
 45
dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 
Phân tích sự chuyển đổi mô hình giáo dục giúp chúng ta có được cách nhìn và 
cách làm hợp lý và hiệu quả đối với giáo dục trọng những điều kiện của sự phát triển 
kinh tế - xã hội, đó là: 
- Phải có sự phân tích kỹ lưỡng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nước, 
khu vực và thế giới, không chạy theo phong trào quần chúng, đôi khi cả dư luân xã 
hội. 
- Không ham lợi trước mắt dễ dẫn tới vội vàng, phải từng bước, thận trọng thực 
hiện nhằm đạt tới kết quả bền vững. 
- Giáo dục phải dựa vào sức mạnh xã hội, dựa vào thầy giáo, vào lực lượng cán 
bộ khoa học có trình độ. 
- Cần thường xuyên xem xét các mô hình giáo dục trong nước và nước ngoài, 
trước đây để làm ra, từ đó những ưu điểm vận dụn
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 giao_trinh_triet_li_giao_duc_phan_2.pdf giao_trinh_triet_li_giao_duc_phan_2.pdf