MỤC LỤC
Trang
Phần I: NHŨNG VẤN ĐỀCƠBẢN CỦA XÃ HỘI HỌC . 2
I. Đối tượng, nhiệm vụnghiên cứu của xã hội học . 2
II. Các hình thức biểu hiện cơbản của cấu trúc XH:. 4
III. Đặc điểm của cấu trúc XH:. 5
IV. Các hình thức biểu hiện cơbản của cấu trúc xã hội:. 6
V. Con người xã hội . 13
Phần II: Xã hội học giáo dục . 22
I. Quan niệm của xã hội học vềgiáo dục. 22
II. Đối tượng nghiên cứu của XHHGD. 24
III. Nhiệm vụnghiên cứu của XHHGD. 25
IV. Nội dung nghiên cứu cơbản của XHH giáo dục. 26
V. Một sốquan điểm vềmối quan hệgiữa GD với XH và công bằng XH. 30
VI. Một sốvấn đềXH vềGD ởnước ta hiện nay. 32
VII. Xã hội hoá giáo dục . 34
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8345 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Xã hội học giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân đặt trước họ phải có khả năng nhận biết, nắm vững, cải
biến những quan hệ có tính quy luật này để bản thân có thể tồn tại và phát triển.
Hướng dẫn thế hệ trẻ có được khả năng hội nhập một cách chủ động với những quy
luật xã hội được thực hiện trong quá trình GD, và chính những sản phẩm do GD tạo
nên (những nhân cách sống) lại đến lượt mình phục vụ cho sự tồn vong và phát triển.
Jacques Delors (l996) đã viết "ý kiến ngày càng phổ biến cho rằng sự đóng góp của
GD cho XH loài người là thiết yếu và CD cũng là một trong những công cụ mạnh nhất
mà ó trong tay để nhào nặn nên tương lai" (Giáo dục cho ngày mai- tài liệu tổng kết
nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập UNESKO- người đưa tin UNESKO, Tháng
4/1996).
- Theo quan niệm của XHH, XHH giáo dục là một chuyên ngành trong XHH, có
mục đích tìm hiểu ảnh hưởng và những mối quan hệ qua lại mang tính quy luật giữa
hoạt động GD với những lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống XH như chính trị,
kinh tế, văn hoá, khoa học v.v... Tuy nhiên với đặc thù riêng của mình, XHH GD đãi
nhiệm vụ trọng tâm vào việc nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa con người với con
người trong phạm vi hoạt động GD, theo nghĩa là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh
22
nghiệm XH lịch sử đã được tích tụ trong tiến trình lịch sử chứa đựng trong các lĩnh
vực của đời sống XH thể hiện trong các giá trị văn hoá của loài người, với các dạng
thức hình loại và bộ phận khác nhau của nền văn hoá đó.
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng XH đặc thù với ba chức năng thống nhất:
chức năng lý luận, chức năng xây dựng - cải tạo, chức năng dự báo, trong đó, chức
năng xây dựng - cải tạo được thể hiện như một chức năng chính yếu của hoạt động
GD, còn các chức năng khác là những chức năng kèm theo và là sự chuyển hoá từ hoạt
động thực tiễn của GD sang hoạt động tư duy lý luận.
Hoạt động GD thực hiện chức năng xây dựng và cải tạo thông qua cơ chế XH
đặc biệt, đó là quá trình XH hình thành và phát triển cá nhân con người (thường được
coi như là quá trình xã hội hoá cá nhân). Quá trình này diễn ra trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống XH như cơ sở vật chất - kỹ thuật - công nghệ, các mối quan hệ XH, sự
tác động của hoàn cảnh môi trường tự nhiên.
Để "tái sản xuất" những phẩm chất và năng lực của con người nhằm tạo nên các
nguồn lực đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của tiến bộ XH, không một giai đoạn
nào của sự phát triển lịch sử XH lại không dựa vào GD, không thực hiện chức năng
xây dựng- cải tạo của mình nhờ hoạt động GD.
Trong XH hiện đại, những vấn đề trọng yếu mà GD phải tham gia giải quyết,
theo UNESSKO đó là:
- Phải thực hiện ba chức năng then chốt phù hợp với đặc thù của hoạt động GD:
chức năng kinh tế- sản xuất; chức năng chính trị- XH; chức năng tư tưởng và văn hoá.
Những chức năng này, ngay từ những năm giữa thế kỷ XX, trong Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ 3 năm 1960 đã ghi rõ: "GD là công cụ của chuyên chính vô sản là một bộ
phận quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá, nhà trường là pháo đài của
CNXH..."
- GD phải ngày càng có khả năng thích ứng với những chiều hướng mới của sự
phát triển XH ;
- GD phải được phát triển cân đối và đa dạng;
- GD phải truyền bá các giá trị tạo nên sự hội nhập, sự chung sống, sự hiểu biết
lẫn nhau giữa con người và con người.
Hoạt động GD chỉ là một bộ phận hợp thành của quá trình XH, song nó được coi
là bộ phận quan trọng nhất, hiệu quả nhất trong việc tạo nên con người XH, bởi đặc
trưng tự giác có tổ chức, kế hoạch và mục đích trong quá trình vận động của hoạt động
GD.
- Hệ thống GD là một chỉnh thể thống nhất của những tiểu hệ thống bao gồm từ
giáo dục mầm non; GD phổ thông; GD chuyên nghiệp- đại học; GD chính quy, GD tại
chức; GD bán công và dân lập; GD sau đại học; GD từ xa; GD nhà trường và XH v.v...
23
Cơ cấu của hệ thống GD trong sự tồn tại của mình là sự liên kết hữu cơ, có hệ
thống và đồng bộ các cấp học, bậc học, từ thấp đến cao để hình thành những nhân cách
ở các cấp độ. Quá trình đào tạo lại bao gồm nhiều giai đoạn có mục tiêu và kế hoạch
cụ thể ứng với một trình độ nhất định về kiến thức khoa học, kỹ năng thực hành,
những phẩm chất và hiểu biết nghề nghiệp. Mỗi giai đoạn đào tạo, giáo dục vừa chuẩn
bị cho các cá nhân có đủ điều kiện thâm nhập vào các mối quan hệ XH, vừa giúp họ
bằng sự chủ động sáng tạo của chính họ có thể cải biến thực tại phát triển hơn những.
gì mà thế hệ trước đã truyền đạt lại cho họ. Để làm được điều đó, bản thân hoạt động
giáo dục không thể thoát ly khỏi những tiền đề của mục tiêu phát triển kinh tế - XH,
những khả năng cụ thể của đất nước, những quan điểm và mục tiêu chiến lược về phát
triển kinh tế - văn hoá XH và những đòi hỏi được thường xuyên nâng cao dân trí của
toàn dân. Chỉ dựa trên những cơ sở phát' triển của các thiết chế khác nhau trong cấu
trúc XH, GD mới xác định được cho mình phương thức thực hiện các quy luật khách
quan tồn tại trong bản thân hoạt động giáo dục giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp
đào tạo, quản lý giáo dục v.v...
II. Đối tượng nghiên cứu của XHHGD.
Đối tượng nghiên cứu của XHHGD là quá trình hình thành và phát triển của con
người dưới tác động của giáo dục với tư cách là một trong những thiết chế XH cơ bản
nhất trong những điều kiện phát triển của lịch sử XH cụ thể.
Như vậy, đối tượng của XHHGD chính là mối quan hệ mang tính quy luật giữa
quá trình hình thành nhân cách cá nhân với các yếu tố vốn có của sự phát triển. Hiện
tượng GD xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài người và cũng từ đó, GD chịu sự
quy định của các lĩnh vực khác trong đời sống XH, như kinh tế, chính trị, văn hoá v.v...
Mỗi sự thay đổi về quan hệ sản xuất của lực lượng sản xuất, của chế độ chính trị, của
hệ tư tưởng, của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, văn hoá... đều kéo theo nó sự biến đổi
của mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động GD.
Mối quan hệ gắn bó và phụ thuộc này giữa GD và những quá trình Xã khác biểu hiện
như một quy luật về sự phù hợp tất yếu của GD tương ứng với sự biến đổi của lịch sử
XH, mà trước hết là sự biến đổi của phương thức sản xuất, của chính trị và văn hoá.
Mặt khác, với tư cách là một trong những thiết chế cơ bản của XH, GD thực hiện
những chức năng GD của mình trong việc "tái sản xuất" những con người tham gia
vào hoạt động XH, trở thành chủ thể của những thiết chế XH khác. Gơ không chỉ phụ
thuộc một chiều vào Xh, mà trong khi thực hiện những chức năng cụ thể (kinh tế - sản
xuất; chính trị- xã hội, tư tưởng- văn hoá) nó luôn luôn có sự đóng góp của mình vào
sự phát triển XH. Nói cách khác, cùng với quá trình tái sản xuất sức lao động XH, cải
biến cấu trúc XH, xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hoá của xã hội, giáo dục đã đáp
ứng những đòi hỏi của sự phát triển XH. Có thể nói rằng, chính những mối quan hệ
phụ thuộc, chi phối lẫn nhau giữa hoạt động GD và những quá trình XH khác là đối
tượng nghiên cứu của XHGD.
24
GD là một hiện tượng XH đặc thù, song mối quan hệ qua lại của nó với những
hiện tượng khác nhau của Xh không thuần nhất mà ở những chuẩn mức khác biệt cả về
đối tượng tương tác đến mục đích, nội dung, phương pháp và hệ thống tổ chức khi
thực hiện những quan hệ Xh này. Vì thế XHHGD cần xem xét GD ở các cấp độ khác
nhau: cấp độ đại trà (phổ biến) nghiên cứu giáo dục như là một hiện tượng ngẫu nhiên,
có mặt ở mọi nơi, mọi lúc và trên mọi đối tượng (miễn là có sự truyền thụ và lĩnh hội
kinh nghiệm XH); cấp độ có định hướng khu biệt, khi hoạt động giáo dục được diễn ra
nhằm thực hiện những chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị XH, nhờ các hoạt động như tín
ngưỡng, lễ hội, truyền thống v.v... cấp độ chuẩn mực XHHGD nghiên cứu hệ thống
GD trong tính chỉnh thể của nó với sự có mặt của một hoạt động GD có mục đích, có
kế hoạch, có các phương thức hoạt động phù hợp với những đối tượng cụ thể, đó là hệ
thống giáo dục quốc dân, là GD của nhà trường ứng với mỗi thời đại, mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc, mà thể chế chính trị xác định. Nhờ cách tiếp cận này trong khi nghiên cứu
XHHGD, chúng ta có thể phát hiện những quy luật, phát triển, thích ứng của các dạng,
các kiểu GD trong các giai đoạn phát triển của lịch sử - xã hội. Tuy nhiên, với sự biến
động không ngừng của thực tại XH và trong bản thân hoạt động GD, chúng ta chỉ có
thể nhìn thấy tính quy luật trong một tập hợp phổ biến nhất, còn trong đời sống XH, sẽ
xuất hiện không ít những trường hợp ngoại lệ, cá biệt đòi hỏi chúng ta phải có sự quan
tâm, xem xét cặn kẽ.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu của XHHGD.
- Là một bộ phận đặc thù của XHH, XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu mối quan
hệ qua lại giữa con người với con người trong quá trình phát triển và tiến bộ XH, bao
gồm những tác động GD ngẫu nhiên của cộng đồng XH đối với mỗi cá nhân; những
tác động có định hướng của các nhóm và tổ chức XH; những tác động mang tính
chuẩn mực trong các thể chế GD (hệ thống GD quốc dân và những thành phần thuộc
cấu trúc của hệ thống
- XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu mối quan hệ gắn bó giữa hoạt động GD với
tư cách là một thiết chế XH, với những thiết chế cơ bản khác nhau của hệ thống XH.
Điều đó cũng có nghĩa là XHHGD cần làm sáng tỏ các tính quy luật quan trọng của
GD như: tính quy luật về sự phù hợp tất yếu của GD với trình độ phát triển sức sản
xuất XH và với tính chất của quan hệ sản xuất XH; tính đồng bộ, liên tục về không
gian và thời gian của những tác động GD do những tổ chức, các nhóm XH khác ngoài
nhà trường mang lại (XHHGD).
- XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu vai trò của hoạt động GD với tư cách là một
lĩnh vực XH đảm bảo việc kế thừa, duy trì và phát triển nền văn hoá XH một cách liên
tục, thúc đẩy sự phát triển của XH. Mặc dù chịu ảnh hưởng của các thiết chế Xh khác,
song giáo dục luôn tồn tại một cách khách quan, vừa vận động theo quy luật của XH,
vừa vận động theo quy luật của bản thân hoạt động HD, vừa phát triển song song với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, vừa là động lực và điều kiện duy trì sự tồn tại và
25
phát triển Xh. Sản phẩm của GD đóng góp cho XH những con người XH, những nhân
cách sống. Sản phẩm này có mặt trong các quá trình xã hội khác nhau tạo nên sự phân
hoá, di động, biến chuyển XH một cách năng động, tích cực và sáng tạo. Mỗi cá nhân
tồn tại trong các mối quan hệ XH có được vị thế, vai trò, tác dụng của mình chính là
nhờ quá trình GD đào luyện và thiết lập nên.
- XHHGD nghiên cứu những vấn đề sinh tồn của hoạt động giáo dục (mục đích,
nội dung, phương pháp, HTTC, hệ thống quản lý GD, cơ sở tài chính, vật chất v.v...)
có ảnh hưởng tới chiến lược nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của
đất nước. Những vấn đề chính yếu này của hoạt động HD, một khi được chế định hoá
bởi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ trở thành những yêu cầu, những
nhân tố cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể.
- XHHGD nghiên cứu hiện 0tượng GD, các kiểu GD trong XH làm cơ sở cho
công tác dự báo về các yêu cầu GD phát triển con người theo khuôn mẫu mà XH mong
đợi . Dự báo phát triển kinh tế - xã hội tổng thể có cơ sờ từ những dự báo thành phần,
trong đó có vai trò của dự báo phát triển GD. Một dự báo về văn hoá, về chính trị, về
kinh tế v.v... không thể thiếu những yếu tố về chủ thể và đối tượng phục vụ trong lĩnh
vực đó- con người. Với chức năng đào tạo, giáo dục để hình thành cá nhân - nhân cách
hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống XH, đóng vai trò như là động lực cơ bản
thúc đẩy sự phát triển XH, kết quả dự báo của GD sẽ góp phần đáng kể vào dự báo
quy hoạch phát triển tổng thể và quy hoạch phát triển cho từng bộ phận của hệ thống
XH.
IV. Nội dung nghiên cứu cơ bản của XHH giáo dục
Xã hội học giáo dục nghiên cứu các vấn đề GD trên bình diện tổng thể của các
mối quan hệ XH, ở cấp độ toàn xã hội, có liên quan tới các mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Còn việc nghiên cứu sự vận động bên
trong của bản thân hoạt động GD là phán việc riêng của giáo dục học.
* Yếu tố tự phát và tự giác trong hoạt động giáo dục.
Hoạt động GD tồn tại trong mọi giai đoạn phát triển của lịch sử XH, song hoạt
động giáo dục tổn tại theo hai cơ chế, đó là cơ chế tự phát và cơ chế tự giác.
Hoạt động truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm là một trong những mối quan hệ
tương tác giữa con người với con người tồn tại rất đa dạng, phong phú. Nếu dựa trên
phương thức truyền đây và lĩnh hội, chúng ta có thể phân thành hai dạng ứng với hai
cơ chế hoạt đông giáo dục. Dạng thứ nhất, kinh nghiệm được truyền đạt và lĩnh hội
một cách ngẫu nhiên (người cần truyền đạt và người cần lĩnh hội). Hoạt động GD theo
dạng này thường xuất hiện một cách tự nhiên mà không tuân thủ theo một dự kiến đã
được hoạch định. Nó giải quyết những nhu cầu trước mắt của mỗi cá nhân và có thể
cho cả cộng đồng (người cổ xưa đi săn thú kèm theo những đưa trẻ nhỏ - con trai, việc
truyền thụ kinh nghiệm của người lớn cho trẻ nhỏ với mục đích là giúp trẻ có được các
26
tri thức và những kỹ năng, thao tác cần thiết để săn bắt được con thú và tránh được
những nguy hiểm . Những đứa trẻ tiếp thu những kinh nghiệm săn bắt do người lớn
dạy bảo để tồn tại, góp phần làm phong phú thêm của cải cho cộng đồng, và quá đó mà
tích cóp dần hình thành những kinh nghiệm sống cho bản thân).
Hoạt động GD theo cơ chế tự phát có một số đặc trưng cơ bản là:
- Mục đích hoạt động mang tính thực dụng, hướng tới một kết quả cụ thể cho một
công việc, một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ.
- Cách thức hoạt động chủ yếu thông qua việc truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
trực tiếp, đơn lẻ, thiếu tính kế hoạch và hệ thống.
- Kết quả do hoạt động giáo dục theo cơ chế tự phát mang lại là rất hạn chế cả về
số lượng và chất lượng và để đạt được kết quả đó, con người phải tiêu tốn một lượng
thời gian khá lớn.
- Đối tượng giáo dục khi lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo chủ yếu đi
theo con đường bắt chước, học thuộc, điều đó tạo ra những con người thụ động, bảo
thủ, kém tính sáng tạo.
Hoạt động giáo dục thực hiện theo con đường tự phát bắt nguồn từ phương thức
sản xuất lạc hậu của những xã hội trước đây (XH cộng sản nguyên thuỷ, XH chiếm
hữu nô lệ, XH phong kiến). Một nền sản xuất chủ yếu dựa trên sức lực của cơ bắp, lực
lượng sản xuất giản đơn, sản phẩm tạo ra theo con đường đơn chiếc, khối lượng tri lức
khoa học của nhân loại gia tăng thêm và chưa nhiều, hàm lượng trí tuệ chứa đựng
trong mỗi sản phẩm là không đáng kể v.v... Mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng tồn tại thông
qua lao động bằng con đường trực tiếp thâm nhập vào đi tượng, dưới sự chỉ dẫn của
thế hệ đi trước và những cá nhân khác có kinh nghiệm hơn. Có thể nói hoạt động giáo
dục được sản sinh từ những điều kiện sản xuất XH, có sự phù hợp ở mức độ đòi hỏi
của XH đó.
Ngày nay, với sự hiện diện của nền kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức, khoa
học, công nghệ đã tạo ra hệ thống sản xuất xã hội có kỹ thuật và kỹ năng rất phức tạp,
đa dạng đã làm nảy sinh nhu cầu chuẩn bị cho toàn bộ thế hệ trẻ khả năng tham gia
vào sự phát triển đó của sản xuất cũng như giúp họ thích úng nhanh chóng với sự biến
đổi không ngừng, mau lẹ của đời sống xã hội. Để làm được việc này, hoạt động GD
chỉ có thể đi theo con đường tự giác, thông qua việc thiết lập một hệ thống giáo dục,
đa cấp, đa ngành với những mục đích, nội dung, phương pháp và hệ thống tổ chức đào
tạo thích hợp với từng loại do dói tượng, từng khối lượng thời gian. Giáo dục thực thi
chức năng này trong xã hội hiện đại được thừa nhận là tổ chức chủ yếu của quá trình
xã hội hoá cá nhân. Giáo dục không chỉ cung cấp cho thế hệ trẻ hệ thống tri thức, kỹ
năng cần thiết của các loại hình hoạt động hiện có trong Xã với tư cách là bộ máy
trọng yếu nhất trong tạo nguồn nhân lực, giáo dục còn giúp cho thế hệ trẻ có được một
nhân cách hoàn chỉnh về tình cảm, đạo đức về sự hiểu biết các chuẩn mực, giá trị xã
27
hội để họ có thể sống hoà nhập với cộng đồng.
Nôi dung cơ bản của XHH báo dục
1. Nghiên cứu hệ thống GD với tư cách là một thiết chế XH thực hiện chức năng
xã hội hoá cá nhân.
* Tính tất yếu và vai trò của GD đối với quá trình XHH (xã hội hoá) cá nhân.
(Như đã phân tích- cho dù đó là quá trình GD tự phát hay tự giác)
* Khả năng đáp ứng của GD đối với XH:
+ Tuyển chọn, phân loại và tiếp nhận trẻ em vào các loại hình đào tạo và cùng
với nó là xác định mục đích, nội dung, phương pháp và quá trình XHH tương ứng.
Chuyển giao nguồn lực cho XH (phân luồng HS từ phổ thông và đào tạo nghề ở
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề).
Đáp ứng hai đòi hỏi trên của XH, GD đã thực hiện chức năng công khai của
XHH (bao hàm trong nó các vấn đề như: ai được đi học? học cái gì? học như thế nào?
sự phù hợp giữa giáo dục của nhà trường với nhu cầu của XH, v.v..)
+ Còn chức năng tiềm ẩn của XHH, GD thực thi quyền lực của các tầng lớp
thống trị Xh thông qua các chức năng công khai (bao hàm trong nó các vấn đề như:
GD phục vụ quyền lợi của ai? GD góp phần thúc đẩy sự phát triển của XH như thế
nào?).
Quá trình tìm kiếm các câu trả lời trên đã sản sinh ra các lý thuyết khác nhau (lý
thuyết chức năng và lý thuyết xung đột XH trong GD).
* Nghiên cứu GD và sự phát triển con người XH
+ ở cấp độ tổng quát, XHH GD hướng vào việc nghiên cứu, phát hiện các yêu
cầu GD bồi dưỡng, nhằm hình thành bộ mặt văn hoá- đạo đức của con người, chuẩn bị
cho con người đủ kiến thức - thái độ - kỹ năng để hội nhập nền văn hoá của nước mình
và hoà nhập với đời sống cộng đồng, đời sống quốc tế.
+ XHHGD đặc biệt quan tâm đến các vấn đề như:
GD và sự hình thành vị thế XH của con người trong XH
GD và sự di chuyển, di động trong đời sống XH; vai trò, tác dụng của GD trong
việc phân tầng, phân lớp XH; vai trò của trí thức - một tầng lớp XH đặc biệt.
GD với vai trò hình thành và phát triển nhân cách XH: bao gồm trong đó những
phẩm chất như trình độ văn hoá- đạo đức, kỹ thuật, khả năng thích ứng và hoà nhập
Ngoài ra, XHHGD còn nghiên cứu mối quan hệ giữa GD với các định chế XH; những
cơ hội phổ cập GD và sự hội nhập giữa các nền văn hoá - sự' thích nghi văn hoá qua
đào tạo, giáo dục.
* Nghiên cứu các bất bình đẳng trong GD:
28
Bất bình đẳng GD được thể hiện trong bất bình đẳng giai cấp; đẳng cấp kinh tế
và XH; thành thị và nông thôn; dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, giới tính; nghề nghiệp và
đãi ngộ; truyền thống văn hoá gia đình và cộng đồng;
(Trong các bất bình đẳng nêu trên, bất bình đẳng giai cấp là cất lõi chi phối các
bất bình đẳng khác nhau).
Khi nghiên cứu bất bình đẳng GD, XHH không chỉ nêu ra các hiện tượng XH
này, tác động của GD trong việc lưu truyền và củng cố chúng mà cần thiết phải đề xuất
được các giải pháp hạn chế và khắc phục chúng, góp phần vào việc hoạch định các
chính sách XH về GD cho nhà nước, chính phủ.
* Nghiên cứu các chính sách xã hội về GD và tác động của các chính sách đó
trong thực tiễn.
Về bản chất, chính sách GD thuộc phạm trù chính sách XH. Trong quản lý XH,
không thể không quán triệt các tư tưởng chiến lược về GD trong đường lối chung, làm
cơ sở cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội, trong đó có GD.
Trong XHH GD cần có các vấn đề so sánh, lựa chọn các chính sách GD ở các
nước thuộc hệ thống XH khác nhau.
(Nhìn chung, các nước phát triển đều xem việc đầu tư cho GD là đầu tư cơ bản
và lâu dài (có tính chiến lược) để tạo nên sức bật cho sự phát triển của XH (tạo nguồn
lực khoa học, kỹ thuật). Ở các nước này, GD đều được xếp ở hàng quốc sách, đầu tư
cho GD là đầu tư cho sự phát triển tạo ra tiền đề và động lực của mọi sự phát triển -
kinh tế, chính trị, văn hoá và tiến bộ XH. Đầu tư cho GD vừa là đầu tư cho phát triển
(kinh tế- xã hội) vừa là đầu tư dạng đặc biệt, nhưng về căn bản vẫn là đầu tư để sản
xuất mở rộng (cho khoa học, công nghệ, cho chất xám).
Trong sự phát triển chung, GD với vai trò đặc biệt của nó luôn phải đi trước một
bước, phải đón đầu các kế hoạch phát triển kinh tế - XH nhằm' chuẩn bị sẵn nhân lực -
cán bộ KHKT, cán bộ quản lý lao động và người lao động...
GD trong XH văn minh, phải đào tạo được một đội ngũ trí thức đủ về số lượng,
đảm bảo về chất lượng.
+ Trong xu thế hội nhập của đời sống quốc tế, XHHGD phải tiếp cận với các xu
thế, các huynh hướng vĩ mô của thế giới về GD.
(Ví dụ trong “chương trình đổi mới GD nhằm mục đích phát triển cho châu Á -
Thái Bình dương" theo APEID đã chỉ ra rằng GD phải: GD cho tất cả mọi người;
chương trình GD phải thích hợp với cá nhân và XH; phát triển những giá trị và những
thái độ thích đáng; phát triển các kỹ năng có tính phương pháp; quan tâm đến các nhu
cầu toàn diện của cá nhân; nối đa hoá tiềm năng của từng trẻ em bất kể tình trạng kinh
tế - XH như thế nào; các phương pháp dạy học phải đặt trọng tâm ở người học; tinh
thông kiến thức và thực hành; định giá sự thực hiện có tính toàn năng (đồng bộ);GD
29
phải sẵn sàng thích ứng kịp thời với sự biến đổi).
+ Khi hoạch định chính sách GD, cần có sự tiên lượng những thay đổi của yêu
cầu XH và KT - nghề nghiệp đối với GD, phải tính đến những tiềm năng hiện có của
GD để thoả mãn những nhu cầu đó.
(Mạng lưới hiện tại và khả năng tương lai; số giáo viên, ngân sách, thiết bị . . . )
+ Tìm hiểu sự biến đổi tích cực và tiêu cực trong quá trình thực thi trong thực
tiễn chính sách giấc dục để từ đó có sự điều chỉnh và thay đổi chính sách.
V. Một số quan điểm về mối quan hệ giữa GD với XH và công bằng XH.
1. Thuyết chức năng
Quan điểm của các nhà XHH chức năng coi sự bất bình đẳng và phân tầng XH
như là đặc trưng tất yếu của XH loài người, nhờ đó XH bảo đảm những địa vị quan
trọng nhất phải do những người có tài năng nhất đảm nhận một cách có ý thức. Theo
họ, hệ thống GD đóng vai trò chủ yếu với ba chức năng sau:
. Là môi trường, phương tiện chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực trong một
quốc gia công nghiệp.
. Phân hoá nghề nghiệp
(Trong sản xuất công nghiệp, có sự phân hoá cao các lĩnh vực nghề nghiệp nên
có những yêu cầu kỹ thuật, kỹ năng và trách nhiệm khác nhau. Từ đó xuất hiện cơ chế
lựa chọn cá nhân theo tài năng của họ và đào tạo cho công việc mà họ sẽ đảm nhận.
Như vậy, GD có thêm chức năng định vị cho con người chuẩn bị tham gia vào sản xuất
XH).
Qua các kỳ thi, điểm số, bồi dưỡng tài năng v.v... GD quyết định (qua chức năng
chọn lọc) sự phân công lao động vào các lĩnh vực nghề nghiệp - sự bất bình đẳng này
không phải là do chính hệ thống GD gây ra, mà là kết quả của sự phân chia về kỹ năng
trong XH và sự cần thiết của việc đãi ngộ khác nhau ứng với mỗi nghề nghiệp.
. Cố kết XH:
GD trường học bằng cách lựa chọn nội dung giảng dạy với các giá trị trung tâm
hay cốt lõi của XH đó để thực hiện chức năng cố kết XH. (Đây là một chương trình
tiêu chuẩn hoá mà tất cả học sinh phải học, qua đó đưa các em vào "di sản văn hoá
chung” bất kể nguồn gốc).
Hiệu quả của việc làm này là để tăng cường sự đồng cảm về những giá trị cơ bản
của XH và để đảm bảo sự tán thành ở mức cơ bản văn hoá chung đó, bất chấp sự đa
dạng về văn hoá truyền thống của học sinh và kinh nghiệm văn hoá của các em.
Khiếm khuyết của thuyết chức năng trong GD là ở chỗ:
- Thiếu triệt để và mang tính áp đặt: sự không phù hợp giữa kiến thức tiếp thu
30
trong nhà trường với, yêu cầu của thực tế sản xuất (bằng cấp chỉ cần thiết cho cá nhân
với tư cách cần cho một nghề nào đó, còn thành thạo trong nghề thì chưa giải quyết
được). Việc chọn lọc, đánh giá, giới thiệu các học sinh thành đạt vào các lĩnh vực nghề
nghiệp là việc làm hệ trọng, liên quan tới công bằng XH.
(Nhiều quan sát XHH cho thấy, trường học là nơi khẳng định thân phận mà học
sinh được hưởng từ gia đình, bố mẹ hơn là tác nhân chọn lọc, không tính đến lịch sử
xuất thân của các em). Việc xác định nền văn hoá cốt lõi cần theo những chuẩn mực
nào, đây là vấn đề cực kì phức tạp, tế nhị trong mỗi quốc gia.
2. Thuyết xung đột giai cấp:
Xung đột giai cấp trong GD đều bắt nguồn từ học thuyết giai cấp và đấu tranh
giai cấp của C.Mác và V.I.Lê nin.
- Các nhà XHH theo thuyết chức năng có tham vọng giải thích quan hệ giữa GD
với XH công nghiệp nói chung đã gửi liền chức năng của GD với sản xuất công nghiệp
(một thứ sản xuất đã bị trừu tượng ra khỏi quan hệ sản xuất tư bản).
Theo họ, GD trực tiếp đối mặt và chịu sự chi phối của kỹ thuật và kỹ năng lao
động không liên quan đến quan hệ tư bản của sản xuất đó.
Các Mác và Lênin giải thích sự xung đột giai cấp trong GD không nhằm vào
xung đột giai cấp nói chung mà nhằm vào nhà trường tư bản, sự xung đột giữa giai cấp
tư sản và giai cấp CN trong GD.
Theo các ông, sự bất bình đẳng và phân công lao động kỹ thuật không phải do
sản xuất CN, kỹ thuật tạo ra mà là do quan hệ tư bản của nền sản xuất đó (như vậy,
GD không chỉ liên hệ với kinh tế mà còn gắn liền với quan hệ sản xuất).
(Hệ thống GD phản ánh tổ chức sản xuất trong XH tư bản, phản ánh những đòi
hỏi riê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giáo trình Xã hội học giáo dục.pdf