Điều kiện cư trú, văn hóa và sự hình thành lối sống nông
thôn.
Điều kiện cư trú, văn hóa ở nông thôn đã qui định cách ứng xử
của con người với môi trường tự nhiên xung quanh. Điều kiện cư trú
của người dân nông thôn thường xuyên bị tác động và chi phối bởi
môi trường tự nhiên. Với công cụ lao động thô sơ, năng lượng dựa
vào sức cơ bắp, sức của súc vật nên con người dựa vào thiên nhiên,
thích nghi với thiên nhiên hơn là cải tạo nó. Khi xã hội phát triển đã
làm thay đổi những điều kiện kinh tế – xã hội ở nông thôn. Thoạt tiên
là sự gia tăng dân số và cùng với nó là sự gia tăng nhu cầu về mọi
mặt của con người vượt quá khả năng đáp ứng sẵn có của tự nhiên.
Trước tình hình đó buộc con người ở nông thôn phải can thiệp vào
môi trường tự nhiên xung quanh. Ở vùng đồng bằng, người ta phải
tận dụng triệt để đất đai, các yếu tố kỹ thuật, hóa học. Được đưa vào
sử dụng trong quá trình sản xuất để nâng cao năng suất cây trồng;
không gian cư trú được mở rộng hoặc nâng cao mật độ, Ở những
nơi đất rộng, người dân mới di chuyển đến cũng phải tìm ra cách
ứng xử mới với thiên nhiên. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, cách thức
trồng lúa nước là thích hợp với kiểu cư trú cho cụm đông người. Do
vậy, ở nông thôn miền núi, nếu mật độ dân cư tăng lên đột ngột thì
hoặc là phải tổ chức trồng lúa nước, hoặc phải du canh, đốt rẫy để
có lương thực sinh sống, vì nguồn lương thực không được chu cấp
từ bên ngoài. Việc trồng lúa nước ở vùng cao, hay đốt nương làm
rẫy có qui mô lớn, không phải là cách ứng xử vốn có của người nông
thôn vùng cao.
60 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 573 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Xã hội học lối sống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Haø Vaên
Taùc
25
1.1. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt .
Địa hình Việt Nam bị cắt ngang bởi nhiều dòng sông và đồi núi, có
khí hậu nhiệt đới gió mùa, lắm nắng, nhiều mưa. Trong khi đó nghề
chính là trồng lúa nước – nghề phụ thuộc rất cao vào thời vụ. Vì thế,
nếu không cần cù, chịu khó,thích ứng thì khó tồn tại phát triển được.
Cộng vào đó còn bao nhiêu yếu tố bất trắc thường xuyên xảy ra như:
hạn hán, bão lụt, sâu bệnh. Người ta thống kê trong lịch sử, qua hơn
800 năm của thời trung đại, kể từ Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long
lập nên nhà Lý (1010) đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta
(1858) đã có 106 năm xảy ra lụt lội lớn, 84 năm có hạn hán, 11 năm
có sâu bệnh nặng, 2 năm có mưa đá lớn, 29 năm có động đất, 19
năm có dịch bệnh trầm trọng, 69 năm xảy ra mất mùa, đói kém; chỉ
có 21 năm được mùa.
1.2. Kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc, kỹ thuật lạc hậu, mùa
vụ phụ thuộc thiên nhiên, năng suất thấp.
Với nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, trình độ sản xuất thủ
công, chủ yếu sử dụng sức mạnh cơ bắp và sức kéo súc vật thì đại
đa số chỉ làm đủ ăn trong năm mà thôi. Các nghề phụ khác là không
đáng kể. Do vậy, mức sống nhìn chung rất thấp, ảnh hưởng lớn đến
lối sống.
1.3. Cơ cấu tổ chức làng xã với những thiết chế và những
mối quan hệ bền chặt, được định vị trong khung cảnh của nhà
nước quân chủ quan liêu.
Trong xã hội truyền thống, gia đình là một thiết chế ảnh hưởng
toàn diện đến lối sống cá nhân. Vì nó vừa là nơi tổ chức lao động
sản xuất với tính cách là một đơn vị kinh tế đồng thời cũng là nơi xã
hội hóa cá nhân cơ bản. Cùng với gia đình là các mối quan hệ dòng
họ, thân tộc rất được coi trọng và thực tế nó ảnh hưởng rất mạnh mẽ
đến việc hình thành lối sống cá nhân. Ngoài gia đình, tộc họ thì quan
hệ cộng đồng làng xã với một hệ thống dày đặc các thiết chế tổ chức
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
26
và các luật tục của nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành
lối sống truyền thống.
1.4. Các tín ngưỡng, tôn giáo, đạo đức chủ yếu có ảnh hưởng
đáng kể lối sống truyền thống.
Đó là quan niệm có một vị thần bảo vệ cho cả cộng đồng làng xã,
tín ngưỡng thờ thành hoàng là trục trung tâm của các sinh hoạt văn
hóa, tôn giáo.
Nho giáo là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất và sâu sắc nhất tới
lối sống người Việt Nam, với những quan niệm cơ bản về nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín, trung hiếu
Thờ cúng tổ tiên, đề cao tư tưởng và đạo lý “uống nước nhớ
nguồn” củng cố trật tự gia đình phụ quyền là cơ sở để truyền tải các
giá trị đạo đức, văn hóa, lối sống giữa các thế hệ.
Quan niệm “từ bi” “cứu nhân độ thế” của Đạo phật về “thiên
đường”, thế giới bên kia” của đạo Thiên chúa, các quan niệm về
thần, hồn của các tín ngưỡng và tôn giáo kết hợp lại, tác động lên
lối sống của người Việt Nam.
1.5. Dư luận cộng đồng – một sức ép ngặt nghèo đối với lối
sống người Việt Nam.
Trong xã hội truyền thống Việt Nam, dư luận cộng đồng có tác
dụng kiểm soát hữu hiệu đối với các ứng xử của các thành viên.
1.6. Văn hóa dân gian đóng vai trò quan trọng và là chủ yếu
trong việc hình thành lối sống.
Thơ ca, hò vè, lễ hội, chuyện cổ tích, tiếu lâmcó ảnh hưởng
mạnh đến lối sống người Việt truyền thống hơn là văn hóa bác học,
cung đình.
2.NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA LỐI SỐNG TRUYỀN THỐNG CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
27
2.1. Sống hòa với thiên nhiên.
Vốn ở trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, sản xuất lúa nước
là chủ yếu, khoa học kỹ thuật lạc hậu, thô sơ nên người Việt Nam
truyền thống luôn tìm cách thích nghi, sống hòa hợp với thiên nhiên,
qua đó khai thác những điều kiện tự nhiên làm lợi cho mình. Tuỳ theo
điều kiện đất đai, động thực vật mà người ta tạo ra cách sản xuất,
cách làm, cách ăn, cách ở, cách mặc, lịch trình sinh hoạt cộng đồng
cho phù hợp, cân bằng. “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” là những trật
tự ưu tiên dường như không thay đổi trong lối sống người Việt truyền
thống.
2.2. Quý trọng người lao động và sức lao động, đề cao tinh
thần yêu lao động.
Chính đặc điểm thiên nhiên khắc nghiệt và nền sản xuất nông
nghiệp trồng lúa nước đã buộc con người ở đây phải có sức lao
động, lao động nhiều, siêng năng cần cù cẩn thận mới tồn tại và phát
triển được. Những kẻ lười lao động, “siêng ăn, nhác làm”, “bóc ngắn
cắn dài”, làm ăn dối trá, cẩu thả thường bị lên án mạnh mẽ.
2.3. Chấp nhận và thích nghi với điều kiện nghèo khổ, đề cao
tiết kiệm.
Hàng ngày người Việt truyền thống quen sống cuộc sống đạm
bạc với thực phẩm là rau và đạm thực vật là chủ yếu. Tuy quen sống,
chịu đựng với sự nghèo khó nhưng lại luôn tìm cách để cải thiện
khắc phục một phần những khó khăn thiếu thốn đó. Luôn lo toan tính
toán và biết cách tính toán, “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” là những
phẩm chất rất được đề cao. Sống tiết kiệm, đề cao tiết kiệm là một
đặc trưng đáng quí. Họ lấy sự dành dụm, hà tiện làm biện pháp chủ
yếu để tích lũy của cải, thực hiện phương châm “buôn tàu buôn ghe
không bằng ăn dè từng bữa” để làm giàu là rất phổ biến. Cũng có khi
sự tiết kiệm thái quá thành hà tiện, sống khắc khổ trong khi để cho
vốn (tiền, vàng, bạc) không được dùng để tái sản xuất mở rộng, nâng
cao mức sống.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
28
2.4 Đề cao kinh nghiệm, tuổi tác và người già.
Do nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, trình độ lao động thủ công
là chủ yếu- một nền kinh tế tự cấp, tự túc dựa trên qui mô đơn vị gia
đình là phổ biến cho nên kinh nghiệm luôn được coi là vốn quí để
giúp con người thích ứng, thành công trong mọi mặt của sản xuất và
sinh hoạt, giao tiếp. Do đề cao kinh nghiệm nên kính già và trọng lão,
vì người già thường có nhiều kinh nghiệm. “Ông bảy mươi phải học
ông bảy mốt” là vì vậy. Đề cao kinh nghiệm là cần thiết nhưng tuyệt
đối hóa nó trở thành kinh nghiệm chủ nghĩa thì không tốt,vì như thế
sẽ dẫn đến bảo thủ, cản trở sự phát triển của tư tưởng khoa học tiến
bộ.
2.5 Đề cao tính cộng đồng.
Những biểu hiện cụ thể của tính cộng đồng đó là sự quan tâm
giúp đỡ người khác, coi trọng tình làng xóm, đề cao tinh thần đoàn
kết và cố kết làng xã. “sống có trước có sau”, hòa thuận với xóm làng
“thương người như thể thương thân” là những tiêu chuẩn đạo đức
rất được coi trọng, nó được coi là lương tâm, lẽ sống, bổn phận cao
cả, thiêng liêng. Tính cộng đồng còn biểu hiện ở sự quan tâm đến
công việc công ích, tích cực đóng góp xây dựng làng xã, hoàn thành
các nghĩa vụ với làng nước, như làm thủy lợi, xây dựng các công
trình công cộng, bảo vệ an ninh, đóng góp tiền bạc, công sức tu bổ
đình chùa miếu mạo, phục vụ thờ cúng thành hoàngTừ ý thức vì
cộng đồng, họ tham gia đóng góp không tính toán thiệt hơn.
Tính cộng đồng còn được biểu hiện ở sự chú trọng giữ gìn vị thế
và nhân cách cá nhân và nhân cách cộng đồng. Thường các làng xã
xưa đều có hương ước qui định ràng buộc các cá nhân, qui định sự
phụ thuộc của các cá nhân đối với tập thể cộng đồng làng xã. Tài
năng, cá tính, quyền tự do của mỗi người nói chung không được coi
trọng mà phải hướng vào cộng đồng, phục vụ cộng đồng. Ngoài
phạm vi đó đều bị coi là kẻ lập dị, “chơi nổi”, bôi xấu thanh danh của
làngDo vậy các cá nhân bấy giờ, nhất là “kẻ sĩ” thường trọng nhân
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
29
cách thanh danh gắn với cộng đồng hơn là trọng tài năng và giàu có.
Giữ thanh danh, tạo tiếng thơm cho gia đình, dòng họ, xóm làng luôn
là niềm tự hào sống, là trách nhiệm thường trực của mỗi người Việt
Nam trong xã hội truyền thống.
2.6. Coi trọng và đề cao cái tâm, chữ tín và đạo hiếu, lễ nghĩa.
Do cuộc sống định cư ổn định từ đời này sang đời khác, đối mặt
thường xuyên hàng ngày với nhau, quá hiểu biết quen thuộc nhau
cho nên mọi giao tiếp ứng xử giữa cá nhân với cá nhân hay cá nhân
với tổ chức đều trên cơ sở lòng tin với nhau, hầu hết không có
những giao kèo, khế ươc. Vì chủ yếu giao tiếp dựa vào chữ tín nên
cái tâm, cái tình cảm, tục lệ đóng vai trò chi phối phổ biến chứ ít theo
khế ước, pháp luật. Có khi vì quá đề cao tình cảm, tục lệ dẫn đến coi
thường pháp luật, phá vỡ công lệ, “phép vua thua lệ làng”.
Trong đời sống gia đình Việt Nam, luân lý đạo đức ứng xử giữa
ông bà cha mẹ con cái anh em ruột thịt với nhau được cô đúc thành
các khái niệm hiếu và đe. Hiếu và để là một giá trị xã hội, một nhân
cách quan trọng bậc nhất (“Trai thời chữ hiếu làm đầu”). Bất hiếu là
điều hổ thẹn nhất và bị dư luận lên án gay gắt nhất. Một học giả
Pháp đến Việt Nam đã nhận xét : Có thể người ta không tìm thấy ở
bất cứ dân tộc nào trên trái đất này một sự gắn bó hoàn hảo trong
gia đình, một tình sâu sắc như ở dân tộc An Nam.
Nếu trong gia đình, dòng họ, hiếu để là tình cảm, đạo đức quan
trọng nhất thì ở ngoài gia đình người Việt đề cao lễ, nghĩa và lòng
nhân đức mà cụ thể là tính trung thực, thủy chung, nhường nhịn,
hiền hòa vị tha, nhân nghĩa
2.8. Tính “ảo” và thực tế hay tính hai mặt.
Do nghề nghiệp và cơ sở kinh tế diễn ra trong điều kiện thiên
nhiên khắc nghiệt với nhiều yếu tố thất thường xảy ra nên con người
phải đối mặt với “cái ăn” hàng ngày, hàng vụ, hàng năm vừa hi vọng
mơ tưởng đến những điều cao xa, tốt đẹp về sau. Chính cuộc sống
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
30
theo nhịp điệu của mùa vụ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố
thực tế trước mắt và tính ảo ảnh xa xôi trong suy tưởng của họ.
Mặt khác, về tư tưởng và tôn giáo trong xã hội phong kiến Việt
Nam, Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống. Về mặt giáo ly, nho giáo
rất thực dụng, nó dạy con người những điều thực tế, không cao siêu.
Song về mặt tư duy logic, Nho giáo lại cực kỳ duy lý – một thứ logic
dựa trên lập luận, làm cho con người thích lập luận.
Hơn nữa, trong xã hội làng xã cổ truyền, việc phân chia đẳng cấp
theo hệ thống ngôi thứ nghiêm ngặt đã làm nảy sinh óc địa vị trong
mỗi con người. Và để có và giữ được địa vị, quyền lợi của mình họ
thường phải dùng lập luận, gọt dũa lập luận. Logic trong tay người
Việt Nam truyền thống vừa là một công cụ để nhận thức vừa là một
công cụ để bảo vệ quyền lợi. Bởi thế, trong tư duy của họ có hai mặt
: Một mặt, chấp nhận mô hình, công thức nên nặng về duy lý, lý sự
và khi có được một vị thế, chức quyền thì đầu óc duy lý làm cho họ
trở thành con người rất nguyên tắc, biến họ thành người hách dịch,
cửa quyền và quan liêu, độc đoán. Mặt thứ hai, ngược lại, lại rất
không có nguyên tắc, bỏ quên nguyên tắc. Khi mà công thức, mô
hình mà họ tuân thủ trước đó không còn hiệu nghiệm thì họ tìm mọi
cách giải quyết lấy được. Lúc đó họ nặng về tình cảm, dùng tình cảm
để giải quyết công việc nên rất dễ nảy sinh móc ngoặc, làm liều, vi
phạm pháp luật.
Không những thế, người Việt còn chịu ảnh hưởng nhiều của Nho
giáo , Phật giáo và có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ thành
hoàngnhững tín ngưỡng mà mục đích thờ phụng vừa mang tính
thực tế, vừa mang tính ảo cũng rất sâu đậm trong người Việt.
Tất cả những cơ sở kinh tế, xã hội, tư tưởng và tôn giáo đó đã
làm cho người Việt trong xã hội truyền thống vừa có đầu óc thực tế,
thực dụng vừa có những dự tính, mơ ước “ảo ảnh, xa vời”. Cũng từ
đó nó biểu hiện thành hai mặt trong lối sống là một mặt thì hay giáo
điều, khi chưa có lợi ích cụ thể trước mắt thì cố bám lấy một cái gì đó
có tính chất giáo điều, linh thiêng làm chuẩn. Còn ngược lại, khi mà
cái linh thiêng, xa vời, giáo điều không còn tác dụng thì nguyên tắc
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
31
không còn được tôn trọng nữa, óc thực tế, thực dụng nổi lên và khi
đó vì quyền lợi trước mắt, họ rất dễ hành động “xé rào” vượt ra ngoài
những qui ước.
Chương 5 :
LỐI SỐNG NÔNG THÔN VÀ ĐÔ THỊ
1. SỰ CÁCH BIỆT GIỮA LỐI SỐNG NÔNG THÔN VÀ ĐÔ THỊ .
Sự phân bố dân cư theo lãnh thổ, sự khác biệt giữa điều kiện
sống ở đô thị (thành thị) và nông thôn và ở ngay trong bản thân
chúng- giữa các loại dân cư đô thị và giữa các loại dân cư nông
thôn- có ảnh hưởng chủ yếu đến mọi hình thức hoạt động sống của
con người.
Cuộc sống của con người trên những lĩnh vực cơ bản như lao
động sản xuất, chính trị – xã hội, sinh hoạt văn hóa diễn ra ở một địa
phương nhất định (đô thị hoặc nông thôn) ở một điểm dân cư này
hay một điểm dân cư khác. Sự hình thành lối sống của dân cư thể
hiện ở đặc điểm sử dụng thời gian làm việc và thời gian nhàn rỗi, tiện
nghi và những điều kiện sinh hoạt hàng ngày, những hình thức khác
nhau trong sự giao tiếp giữa con người với con người, được quyết
định đáng kể bởi kết cấu không gian xã hội.
Sự khác biệt giữa lối sống đô thị và nông thôn mang tính lịch sử
cụ thể. Nó nảy sinh do việc hình thành hai loại dân cư cơ bản : dân
cư đô thị và dân cư nông thôn. Điều này xảy ra từ khi nghề thủ công
tách khỏi chăn nuôi và trồng trọt và tiếp theo là thương nghiệp tách
khỏi sản xuất. Việc hình thành các đô thị như là trung tâm buôn bán
và thủ công nghiệp đã thúc đầy sự phát triển của công nghiệp,
thương nghiệp và văn hóa.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
32
Trong điều kiện có quan hệ đối kháng giai cấp, thì sự đối lập
giữa lối sống nông thôn và đô thị là đặc điểm của mọi chế độ đối
kháng. Dưới chế độ tư bản, sự đối lập giữa lối sống nông thôn và đô
thị đạt tới mức gay gắt nhất. Đô thị là nơi tập trung dân cư, công cụ
sản xuất, tư bản, hưởng thụ và nhu cầu, còn nông thôn thì biểu hiện
tình trạng hoàn toàn trái ngược là có sự biệt lập và phân tán. Mác –
Anghen đã từng nhận xét như vậy và nhận xét đó giờ đây càng được
chứng thực một cách chính xác.
Đặc trưng cho sự lớn mạnh và phát triển của các thành thị dựa
trên nền đại công nghiệp máy móc, mức độ tập trung cao của đời
sống ở đô thị là tình trạng phân tán ở nông thôn. Trong xã hội tư bản,
những thành phố lớn là hiện thân của những mâu thuẫn xã hội cơ
bản, là nơi duy trì sự tồn tại của hai loại lối sống trái ngược nhau : Lối
sống của giai cấp tư sản và lối sống của giai cấp vô sản. Ở đây,
quần chúng lao động nghèo khổ sống chen chúc trong những khu
công nhân, những khu nhà ổ chuột, cách biệt với những khu phố
tráng lệ của những kẻ giàu có. Nguyên tắc phân bố dân cư theo giai
cấp càng làm tăng thêm sự phân cực và nơi cư trú giữa giai cấp
không có của và giai cấp có của.
Dựa vào kỹ thuật hiện đại, thành thị tư bản chủ nghĩa ngày càng
tăng cường bóc lột quần chúng lao động ở nông thôn. Các tổ chức
độc quyền kiểm soát sản xuất, tiêu thụ và chế biến nông sản, làm
tăng thêm sự mất cân đối về giá cả giữa hàng hóa công nghiệp và
sản phẩm nông nghiệp. Tư bản độc quyền làm cho các tiểu nông bị
phá sản, đẩy nhanh quá trình phân hóa giai cấp ở nông thôn. Một bộ
phận nông dân trở thành những nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa
gắn bó trực tiếp với tư bản tài chính, một số khác thì bổ sung vào
đạo quân công nhân nông nghiệp hoặc chạy ra thành phố.
Cùng với sự phát triển tự phát của đô thị, ưu thế của nó đối với
nông thôn trên các mặt kinh tế, chính trị, tinh thần cũng ngày càng
tăng. Chủ nghĩa đế quốc quan tâm đến việc duy trì tình trạng chênh
lệch trong sự phát triển văn hóa giữa thành thị và nông thôn. Ở đó,
người nông dân bị hạn chế không được tiếp xúc với những giá trị
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
33
khoa học và văn hóa tập trung ở thành thị. Sự khác biệt sâu sắc giữa
nông thôn và thành thị còn thể hiện trong trang bị tiện nghi và sinh
hoạt hằng ngày. Tính bảo thủ nhất định trong nếp sống cũ, sự hạn
chế về các phương tiện liên lạc và giao thông, cùng với tình trạng
phân tán và thưa thớt ở nông thôn, tất cả những cái đó đã làm tăng
tính chất trì trệ, ít di động trong lối sống của người dân nông thôn.
Trong khi đó thì sinh hoạt hàng ngày ở thành thị có những biến
đổi cơ bản; cuộc sống gia đình nằm trong hoàn cảnh tràn ngập của
những trang bị kỹ thuật trong sinh hoạt. Người dân thành phố ngày
càng tách khỏi tự nhiên. Nhịp sống ở thành phố tăng lên, phạm vi
giao tiếp được mở rộng. Đồng thời ảnh hưởng của gia đình và láng
giềng đối với con người giảm đi.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cũng làm cho những mâu
thuẫn nảy sinh trong sự phát triển của đô thị ngày càng thêm gay gắt.
Một mặt nó tạo ra tính đa dạng của các yếu tố cấu thành môi trường
đô thị và trình độ trang bị kỹ thuật cao của môi trường này, làm tăng
lên rõ rệt tình trạng biến động dân cư về mặt lãnh thổ. Mặt khác, ở
các thành phố lớn, điều kiện vệ sinh – xã hội bị xấu đi một cách tệ
hại, tội phạm và các hình thức bệnh hoạn xã hội khác tăng lên.
Sự đối lập, cách biệt giữa thành thị và nông thôn chỉ có thể từng
bước mất đi thông qua một hệ thống chính sách tác động toàn diện
xuất phát từ mục tiêu hạnh phúc nhân dân, trên cơ sở am hiểu sâu
sắc lối sống nông thôn và đô thị hiện nay cũng như những xu hướng
biến đổi của nó trong tương lai.
2. LỐI SỐNG NÔNG THÔN.
2.1. Điều kiện nghề nghiệp và sự hình thành lối sống nghề
nông.
Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là nghề cơ bản và lực
lượng lao động cơ bản ở nông thôn. Hơn nữa, ở nước ta, nghề nông
trồng lúa nước trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới, gió mùa,
nên những người dân nông thôn nói chung, người nông dân nói riêng
trong giao tiếp, ứng xử đã thể hiện đậm nét những ảnh hưởng của
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
34
các yếu tố đó. Hầu hết những người nông dân nông thôn đều rất cần
cù, bền bỉ trong lao động và có nơi, có lúc thể hiện sự thích nghi với
các điều kiện lao động và sinh hoạt rất cao. Nghề nông vốn vất vả,
lao động thủ công, năng suất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào thời tiết,
khí hậu. Tuy vậy, nhưng do điều kiện cư trú và điều kiện sản xuất ở
nông thôn chưa phát triển nên việc mở mang các sản phẩm khác còn
hạn hẹp, lao động sản xuất của họ chủ yếu dồn vào cho nghề nông.
Sản xuất nông nghiệp thường diễn ra theo chu kỳ và dàn trải
trên không gian rộng, nên gia đình là đơn vị tổ chức và bảo đảm cho
sản xuất nông nghiệp có ưu trội so với các hình thức tổ chức sản
xuất khác. Vì vậy, hoạt động sản xuất nông nghiệp ở nông thôn cũng
qui định lối sống và cách ứng xử của họ. Quan hệ gia đình, huyết
thống, thân tộc được chú trọng không chỉ trong việc bảo đảm cuộc
sống cả đời mà còn được chú trọng trong tổ chức sản xuất nông
nghiệp và các ngành nghề khác ở nông thôn. Cách thức tổ chức
trong sản xuất này đáp ứng nhu cầu vượt khỏi ranh giới cá thể. Như
vậy, do tác động của các điều kiện sản xuất, do nghề nghiệp, do việc
ứng xử thân thiện, gần gũi, quan tâm lẫn nhau trong phạm vi gia đình
đã tạo ra đặc trưng của lối sống nông thôn. [PTS chung Á- PTS
Nguyễn Đình Tấn.1996.168]
Cũng do điều kiện sản xuất nông nghiệp lúa nước ở vùng nhiệt
đới nóng ẩm, gió mùa, nên người dân phải chống chọi với thiên
nhiên khắc nghiệt để bảo vệ cuộc sống và sản xuất. Do vậy, tính cố
kết cộng đồng, sự hợp tác không chỉ vượt khỏi giới hạn gia đình,
thân tộc mà còn vượt cả giới hạn làng xã. Đồng thời, lối ứng xử còn
đặt cá nhân trong tập thể, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân
đã là thói quen, là khuôn mẫu hành động của cư dân nông thôn.
Trong điều kiện đổi mới kinh tế – xã hội ở nông thôn hiện nay,
những khuôn mẫu ứng xử của người dân nông thôn như trên vẫn
còn có ảnh hưởng nhất định. Tất nhiên nó có cả mặt tích cực lẫn mặt
tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện khi trả lại sản xuất, ruộng đất, đời
sống cho người dân được tự chủ, họ đã biết vận dụng cách ứng xử,
đoàn kết trong gia đình, thân tộc, làng xóm để phát triển sản xuất và
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
35
chăm lo đời sống của mình và cho gia đình mình. Các hình thức hợp
tác hình thành và phát triển trên cơ sở quan hệ gia đình, làng xóm,
nhanh chóng phát huy tác dụng và đóng góp phần tích cực vào phát
triển sản xuất để nâng cao đời sống ở nông thôn. Nhưng những ảnh
hưởng tiêu cực của nó cũng còn không ít như tính năng động, tự chủ
của mỗi cá nhân nhìn chung chưa cao; người dân còn tư tưởng trông
chờ làng nước làm rồi mới làm; hợp tác trong sản xuất trên cơ sở
quan hệ tình cảm, tình nghĩa còn nổi trội hơn quan hệ hợp tác, kinh
doanh; mọi sáng kiến cá nhân hay ý kiến cá nhân chưa được coi
trọng đúng mức; không khí dân chủ, ý tưởng cá nhân được xem xét
đánh giá thỏa đáng.
2.2. Điều kiện cư trú, văn hóa và sự hình thành lối sống nông
thôn.
Điều kiện cư trú, văn hóa ở nông thôn đã qui định cách ứng xử
của con người với môi trường tự nhiên xung quanh. Điều kiện cư trú
của người dân nông thôn thường xuyên bị tác động và chi phối bởi
môi trường tự nhiên. Với công cụ lao động thô sơ, năng lượng dựa
vào sức cơ bắp, sức của súc vật nên con người dựa vào thiên nhiên,
thích nghi với thiên nhiên hơn là cải tạo nó. Khi xã hội phát triển đã
làm thay đổi những điều kiện kinh tế – xã hội ở nông thôn. Thoạt tiên
là sự gia tăng dân số và cùng với nó là sự gia tăng nhu cầu về mọi
mặt của con người vượt quá khả năng đáp ứng sẵn có của tự nhiên.
Trước tình hình đó buộc con người ở nông thôn phải can thiệp vào
môi trường tự nhiên xung quanh. Ở vùng đồng bằng, người ta phải
tận dụng triệt để đất đai, các yếu tố kỹ thuật, hóa học. Được đưa vào
sử dụng trong quá trình sản xuất để nâng cao năng suất cây trồng;
không gian cư trú được mở rộng hoặc nâng cao mật độ, Ở những
nơi đất rộng, người dân mới di chuyển đến cũng phải tìm ra cách
ứng xử mới với thiên nhiên. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, cách thức
trồng lúa nước là thích hợp với kiểu cư trú cho cụm đông người. Do
vậy, ở nông thôn miền núi, nếu mật độ dân cư tăng lên đột ngột thì
hoặc là phải tổ chức trồng lúa nước, hoặc phải du canh, đốt rẫy để
có lương thực sinh sống, vì nguồn lương thực không được chu cấp
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
36
từ bên ngoài. Việc trồng lúa nước ở vùng cao, hay đốt nương làm
rẫy có qui mô lớn, không phải là cách ứng xử vốn có của người nông
thôn vùng cao.
Ngày nay vấn đề bảo vệ môi trường, phát triển nông nghiệp bền
vững đã được đặt ra ở nông thôn. Lối ứng xử hài hòa với tự nhiên,
lợi dụng các qui luật của tự nhiên, không can thiệp thô bạo vào cảnh
quan tự nhiên đều được nêu lại và vận động thực hiện ở nông thôn
khắp nơi trên thế giới.
Những điều kiện kinh tế – xã hội của cơ chế mới ra đời đã làm
chuyển biến nhiều mặt trong xã hội nông thôn, làm cho lối sống của
dân cư có biến đổi khá nhiều cùng với sự biến đổi chung ấy. Tính
chủ động của cá nhân, của cộng đồng có được nâng lên, những yếu
tố hiện đại của khoa học, kỹ thuật, văn hóa được người dân nông
thôn chú trọng hơn. Nhưng về cơ bản trong lối sống của họ vẫn là
cần cù, dẻo dai, thích nghi cao với các điều kiện xã hội và tự nhiên.
Trong ứng xử với cộng đồng và xã hội, tính tự chủ, tự tin của họ còn
hạn chế. Tính cộng đồng, tính tập thể đã được đề cao, có lúc, có nơi
còn vượt quá yêu cầu thực tế.
Do điều kiện sản xuất cư trú gắn với đất đai ruộng vườn, quần tụ
theo dòng họ, làng xã ổn định từ đời này qua đời khác, cho nên đời
sống văn hóa tinh thần cũng rất ổn định và thuần nhất về tập quán
phong tục tín ngưỡng, ít có sự pha tạp như ở đô thị.
Cũng do điều kiện sản xuất, cư trú như vậy nên quan hệ xã hội
thường hướng nội, có tính đoàn kết xã hội cao và có tính tự tin lớn.
Tuy nhiên mặt trái của điều này là tính cục bộ địa phương, chậm đổi
mới, chậm thích ứng.
3.LỐI SỐNG ĐÔ THỊ.
3.1. Đặc trưng chung của lối sống đô thị.
Đô thị bao gồm các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ là điểm dân
cư tập trung cao với các hoạt động chính không phải là nông nghiệp.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xaõ hoäi hoïc loái soáng Haø Vaên
Taùc
37
Sự hình thành đô thị trong lịch sử là một bước phát triển không
chỉ về mặt tổ chức xã hội mà còn thể hiện trình độ phát triển mới về
chất trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư.
Do đặc điểm sản xuất phi nông nghiệp là chủ yếu (công nghiệp,
thương mại, dịch vụ) cho nên nhìn chung lối sống đô thị có các đặc
trưng sau đây [Chu Khắc. 1985. 67-69] :
- Người dân đô thị có tính cơ động nghề nghiệp và không gian
xã hội cao. Họ dễ thay đổi nghề nghiệp và nơi ở của mình
hơn so với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_xa_hoi_hoc_loi_song.pdf