Để trao đổi dữ liệu gói với mạng PDN (Packet Data Network) sau khi GPRS
attach thành công, một MS phải dùng một hay nhiều địa chỉ sử dụng trong PDN,
chẳng hạn địa chỉ IP trong trường hợp mạng ngoài là mạng IP, địa chỉ này được gọi
là địa chỉ PDP (Packet Data Protocol Address). Một PDP context đ ược tạo ra, nó mô
tả đặc điểm của phiên và chứa loại PDP (chẳng hạn IPv4). Địa chỉ PDP được gán
cho MS (ví dụ 129.187.222.10), chất lượng dịch vụ được yêu cầu QoS và địa chỉ của
GGSN mà phục vụ như là điểm truy xuất đến PDN. Context này được lưu trữ trong
MS, SGSN và GGSN. Với một PDP context động, trạm di động “có thể thấy được”
đối với trạm PDN ngoài và có thể gửi hoặc nhận dữ liệu. Việc gắn giữa hai địa chỉ
PDP và IMSI làm cho GGSN chuyển được dữ liệu giữa PDP và MS. Một user có thể
có nhiều PDP context hoạt động đồng thời tại một thời điểm
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2913 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu GPRS/GSM network, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng sống GPRS:
· Intra – PLMN: kết nối các GSNs của cùng một mạng PLMN.
· Inter – PLMN: kết nối các GSNs của các mạng PLMN khác nhau. Cần phải
có sự chấp nhận roaming giữa hai nhà cung cấp mạng để thiết lập mạng này.
SGSN chịu trách nhiệm phân phối gói dữ liệu đến và đi từ trạm di động trong
vùng phục vụ của nó. Nhiệm vụ của nó bao gồm luôn cả quản lý di động, quản lý
định tuyến và truyền gói, quản lý liên kết logic và chức năng nhận thực và tính
cước. Thanh ghi vị trí của SGSN lưu trữ thông tin như vị trí cell, VLR hiện tại và
dữ liệu cá nhân của user (IMSI, địa chỉ sử dụng trong mạng dữ liệu gói) của tất cả
các user GPRS đăng ký với SGSN này.
PLMN1
Packet data network
Inter-PLMN
GPRS backbone
Intra-PLMN
GPRS backbone
Intra-PLMN
GPRS backbone
Border Gateway Border Gateway
GGSNGGSNSGSN
BTS
BTS
BSC
BSC
PLMN2
Router Host
MS
SGSN SGSN
LAN
Hình trên chỉ hai mạng intra – PLMN kết nối với một inter – PLMN. Cổng giao
tiếp giữa PLMN và inter – PLMN được gọi là border gateway. Nó thực hiện chức
năng an toàn để bảo vệ mạng intra – PLMN trước các user không được nhận thực.
Giao tiếp Gn và Gp cũng được định nghĩa giữa các SGSNs. Nó cho phép SGSN
trao đổi hồ sơ của user khi MS di chuyển từ một vùng SGSN này đến vùng SGSN
khác.
Giao tiếp Gi kết nối PLMN với PDN riêng hoặc công cộng, như mạng Internet.
Giao tiếp với IP (IPv4 và IPv6) và mạng X.25.
HLR lưu trữ hồ sơ user, địa chỉ SGSN hiện tại, và địa chỉ PDP cho mỗi user
GPRS trong PLMN. Giao tiếp Gr được dùng để trao đổi thông tin giữa HLR và
SGSN. Ví dụ, SGSN thông báo với HLR về vị trí hiện tại của MS. Khi MS đăng ký
với một SGSN mới, HLR sẽ gửi hồ sơ user cho SGSN này. GGSN dùng đường báo
hiệu giữa GGSN và HLR (giao tiếp Gc) để cập nhật thanh ghi vị trí của nó.
Có thể kết hợp các thủ tục attachment và cập nhật vị trí của GSM và GPRS. Hơn
nữa, bản tin tìm gọi của chuyển mạch kênh GSM có thể thực hiện ngang qua SGSN.
Vì thế, giao tiếp Gs kết nối cơ sở dữ liệu của SGSN và MSC/VLR.
4 Mã hoá Kênh Trong GPRS
Tùy thuộc vào môi trường vô tuyến, có thể sử dụng một trong bốn kiểu mã hóa
(CS1, CS2, CS3, CS4), GSM chỉ sử dụng CS1. CS1 và CS2 phát hiện và sữa lỗi tốt
với dung lượng thấp, trong bước đầu của GPRS chỉ một trong hai kiểu mã hóa này
được dùng. CS3 và CS4 cung cấp dung lượng cao hơn nhưng khả năng sữa được lỗi
ít hơn.
rate 1/2 convolutional coding
puncturing
456 bits
USF BCS
Radio Block
Caáu truùc khoái voâ tuyeán cuûa CS1 ñeán CS3
block
code no coding
456 bits
USF BCS
Radio Block
Cấu trúc khối vô tuyến của CS4
Trong mã chập sử dụng tỉ lệ mã (R) nhỏ thì từ mã càng dài, việc phát hiện và sữa
lỗi càng dễ dàng hơn nhưng phải truyền nhiều bit hơn làm cho tốc độ bit cao hơn
Trong GSM sử dụng mã chập với R= ½ , còn trong GPRS R có thể thay đổi
được, nên tốc độ cao hơn.
Tốc độ dữ liệu của GPRS
Kiểu
mã
hóa
Tiền mã
hóa
(USF)
Bit
thông
tin
Bit
chẵn
lẻ
Bit
đuôi
Ngõ ra
mã
chập
Bit
punctur
ed
Tỷ lệ
mã
Tốc độ
dữ liệu
CS-1 3 181 40 4 456 0 1/2 9.05
CS-2 6 268 16 4 588 132 2/3 13.4
CS-3 6 312 16 4 676 220 3/4 15.6
CS-4 12 428 16 - 456 - 1 21.4
Ví dụ CS2:
271 bit thông tin (gồm cả 3 bit cờ hướng lên (USF)), 16 bit chẵn lẻ, 3 bit tiền mã
hoá và 4 bit đuôi được thêm vào cuối của khối. Dùng mã chập có đa thức tạo mã
g(1) (D) = 1 + D3 + D4
g(2) (D) = 1 + D + D3 + D4
D là toán tử trễ.
Ở ngõ ra của bộ mã chập, một từ mã v(D) = (v(0)(D),v(1)(D)) chiều dài 588 bit.
Chuỗi bit liên tiếp ở ngõ ra được xác định bằng v(1)(D) = u(D).g(1)(D) và v(2)(D) =
u(D).g(2)(D). sau mã hóa, 132 bit là punctured, dẫn đến từ mã có độ dài là 456 bit.
Và tỷ lệ mã chập là
3
2
456
4316271
=
+++
=R
5 Điều chế số
Trong GSM dùng điều chế bốn mức (GMSK) còn trong GPRS dùng điều chế tám
mức. Điều chế càng nhiều mức thì càng dễ phân biệt lỗi.Nhưng khi số mức lớn thì
BER tăng, chất lượng kém.
Từ đồ thị ta thấy, với cùng mức tín hiệu thu được, BER của điều chế càng nhiều
mức thì càng lớn. Vậy muốn tăng tốc độ truyền (tăng mức) mà BER không tăng thì
phải tăng công suất phát.
Trong GPRS nếu tăng công suất phát ở cả hai hướng thì MS mau hết pin. Để giải
quyết vấn đề này, người ta chỉ tăng công suất phát cho hướng xuống (tăng mức điều
chế) dùng 8PSK, còn hướng lên vẫn giữ nguyên GMSK, dẫn đến phần giải điều chế
trong GSM và GPRS cũng khác nhau.
6 Quản Lý Phiên, Quản Lý Di Động
Trong phần này, chúng ta tìm hiểu xem làm thế nào một trạm di động (MS) đăng
ký
với mạng và được nhận biết bởi mạng ngoài.
1. Các thủ tục attachment và detachment
Trước khi một MS sử dụng dịch vụ của GPRS nó phải đăng ký với một SGSN
của GPRS. Mạng kiểm tra các thông số nhận thực của thuê bao , copy dữ liệu cá
nhân của thuê bao từ HLR đến SGSN và gán cho user một số nhận dạng thuê bao di
động gói tạm thời (P-TMSI). Thủ tục này gọi là GPRS attach. Đối với trạm di động
sử dụng cả chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói thì có thể kết hợp cả hai thủ tục
GPRS/IMSI attach. Việc ngắt kết nối với mạng GPRS gọi là GPRS detach, có thể
thực hiện bởi MS hoặc mạng (SGSN và HLR).
BER
8PS
K 4PS
K 2PS
K
S/N
identification response
8. attach Accept
7h. Location updating Accept
9. attach complete
10. TMSI realocation complete
7d. Cancel Location ACK
7e. Insert subscriber data
7f. Insert subscriber data ACK
7h. Update Location ACK
7c. Cancel Location
7b. Update Location
7a. Location updating request
6e. Insert subscriber data ACK
6d. Insert subscriber data
6f. Update Location ACK
6b. Cancel Location
6c. Cancel Location ACK
6a. Update Location
5. IMEI check
4. authentication
3. identity response
3. identity request
2. identification request
1. attach Request
MS BSS newSGSN oldSGSN SGSN EIR newMSC/VLR HLR oldMSC/VLR
2. Quản lý phiên:
Để trao đổi dữ liệu gói với mạng PDN (Packet Data Network) sau khi GPRS
attach thành công, một MS phải dùng một hay nhiều địa chỉ sử dụng trong PDN,
chẳng hạn địa chỉ IP trong trường hợp mạng ngoài là mạng IP, địa chỉ này được gọi
là địa chỉ PDP (Packet Data Protocol Address). Một PDP context được tạo ra, nó mô
tả đặc điểm của phiên và chứa loại PDP (chẳng hạn IPv4). Địa chỉ PDP được gán
cho MS (ví dụ 129.187.222.10), chất lượng dịch vụ được yêu cầu QoS và địa chỉ của
GGSN mà phục vụ như là điểm truy xuất đến PDN. Context này được lưu trữ trong
MS, SGSN và GGSN. Với một PDP context động, trạm di động “có thể thấy được”
đối với trạm PDN ngoài và có thể gửi hoặc nhận dữ liệu. Việc gắn giữa hai địa chỉ
PDP và IMSI làm cho GGSN chuyển được dữ liệu giữa PDP và MS. Một user có thể
có nhiều PDP context hoạt động đồng thời tại một thời điểm.
Việc cấp phát địa chỉ PDP có thể tĩnh hay động. Trong trường hợp cấp phát tĩnh,
nhà khai thác mạng nhà PLMN của user gán một địa chỉ PDP tạm thời cho user. Ở
trường hợp cấp phát động, một địa chỉ PDP được gán cho user trên một PDP context
đang hoạt động. Địa chỉ PDP có thể được gán bởi nhà khai thác mạng nhà PLMN
của user hoặc nhà khai thác mạng khách. Nhà khai thác mạng nhà sẽ quyết định
chọn khả năng nào. Trong trường hợp gán địa chỉ động, GGSN chịu trách nhiệm cấp
phát địa chỉ PDP.
4. IMSI Detach Indication
5. GPRS Detach indication
3. Delete PDP Context Respone
MS BSS SGSN GGSN MSC/VLR
1. Detach request
2. Delete PDP context request
6. Detach Accept
MS Detach
4. GPRS Detach Indication
3. Delete PDP Context Respone
MS BSS SGSN GGSN MSC/VLR
1. Detach request
2. Delete PDP Context request
5. Detach Accept
Network Detach
GPRS cũng hỗ trợ việc bảo mật thông tin , khi đó user phải đăng ký dịch vụ trả
trước và trong trường hợp này chỉ dùng cấp phát địa chỉ động.
7 Quản lý vị trí
Một MS trong GPRS có ba trạng thái hoạt động: rỗi, chờ và sẵn sàng (trong GSM
chỉ có 2 trạng thái rỗi và sẵn sàng) .
Dữ liệu chỉ được truyền giữa một MS và mạng GPRS khi MS trong trạng thái sẵn
sàng. Ở trạng thái này, SGSN biết được vị trí cell của MS. Còn trong trạng thái chờ
chỉ biết được vùng định tuyến của MS (vùng định tuyến có thể gồm một hay nhiều
cell).
Khi SGSN gửi một gói đến MS đang trong trạng thái chờ, MS phải được tìm gọi.
Bởi vì SGSN biết vùng định tuyến của MS, một bản tin tìm gọi gói được gửi đến
vùng định tuyến đó. Sau khi nhận được bản tin này, MS báovị trí cell đến SGSN để
thiết lập trạng thái sẵn sàng.
Việc truyền gói đến MS đã sẵn sàng được bắt đầu bằng bản tin thông báo với MS
gói dữ liệu đang đến. Dữ liệu được truyền ngay lập tức sau khi gói tìm gọi này đi
qua kênh chỉ bởi bản tin tìm gọi. Mục đích của bản tin tìm gọi này là làm đơn giản
quá trình nhận gói. MS chỉ phải lắng nghe một bản tin tìm gọi, thay vì tất cả các gói
dữ liệu trong các kênh xuống, giảm được nguồn pin một cách đáng kể.
Khi một MS có gói cần truyền đi, phải truy xuất đến kênh lên. Kênh lên được sử
dụng bởi nhiều MS, và việc sử dụng nó được chỉ định bởi một BSS. MS yêu cầu sử
dụng kênh trong bản tin truy xuất ngẫu nhiên gói. BSS cấp một kênh chưa được sử
dụng cho MS và gửi bản tin chấp nhận truy xuất gói cho MS. Dữ liệu sẽ được truyền
trên kênh đã được chọn .
Việc sử dụng trạng thái chờ giảm được lượng tải trong mạng GPRS và nguồn pin
ở MS. Khi MS ở trạng thái chờ, nó không cần thông báo cho SGSN sự thay đổi của
cell - chỉ thông báo khi thay đổi vùng định tuyến. Nhà khai thác quyết định phạm vi
của vùng định tuyến và làm cho số lượng bản tin cập nhật định tuyến thích hợp.
8 Nguyên tắc quản lý nguồn tài nguyên vô tuyến và đa truy xuất
Giống GSM, GPRS sử dụng phương pháp đa truy xuất phân chia theo thời gian
(TDMA) và đa truy xuất phân chia theo tần số (FDMA).
- dãi tần từ 890 - 915Mhz cho truyền dẫn hướng lên (từ MS đến BTS)
- dãi tần từ 935 - 960Mhz cho truyền dẫn hướng xuống (từ BTS đến MS)
Mỗi dãi tần 25Mhz này được chia làm 124 khoảng nhỏ, mỗi khoảng nhỏ có độ
rộng là 200khz. Một khoảng hướng lên hợp với một khoảng hướng xuống tương ứng
gọi là một kênh tần số. Khoảng cách giữa hai tần số trong một kênh là 45Mhz. Một
BTS được cấp phát một số kênh.
Mỗi kênh tần số được chia làm 8 khe thời gian. Một trạm di động GSM dùng một
khe thời gian cho cả hướng lên và hướng xuống. Còn GPRS cho phép mỗi trạm di
động truyền dẫn nhiều khe thời gian trong một khung TDMA.Về lý thuyết thì tốc độ
cực đại trong truyền dữ liệu ở GPRS là 172.2kbps khi user dùng 8 khe thời gian
trong điều kiện tối ưu (thực tế không đạt được). Hơn nữa hướng lên và hướng xuống
được cấp phát không đối xứng, phù hợp với nhu cầu thực tế trong việc truy cập
Internet là thuê bao cần tốc độ cao để tải dữ liệu về … Ví dụ, một thiết bị GPRS có
thể xử lý 4 khe thời gian cho hướng xuống và 2 khe thời gian cho hướng lên. Trong
điều kiện vô tuyến tốt, tốc độ có thể đạt 50kbps ở hướng xuống và 20kbps ở hướng
lên.
Trong GSM, một kênh được cấp phát tạm thời cho một user trong toàn bộ thời
gian cuộc gọi (dù dữ liệu có thực sự được truyền hay không). Ngược lại, trong
GPRS kênh chỉ thực sự được cấp phát khi gói dữ liệu được gửi hoặc nhận, và được
giải phóng ngay khi truyền dẫn xong. Vì thế việc sử dụng tài nguyên rất hiệu quả và
linh động, nhiều user có thể chia sẻ cùng một kênh vật lý.
9 Kênh logic trong GPRS
Dựa trên kênh vật lý, các kênh logic được định nghĩa để thực hiện các chức năng
như báo hiệu, quảng bá, đồng bộ, phân kênh, tìm gọi…
Tương tự GSM, có thể chia làm hai loại: kênh lưu lượng và kênh báo hiệu.
· PDTCH (packet data traffic channel): truyền dữ liệu user. Nó được ấn định
cho một MS. Một MS có thể sử dụng nhiều PDTCH đồng thời.
· PBCCH (packet broadcast control channel): là kênh báo hiệu điểm – đa điểm
một chiều từ BSS đến MS. BSS dùng PBCCH để quảng bá thông tin vể tổ chức
mạng vô tuyến GPRS đến tất cả các MS trong một cell. Ngoài ra, nó còn quảng bá
các thông tin hệ thống về dịch vụ chuyển mạch kênh, để MS của GSM/GPRS không
cần phải lắng nghe kênh BCCH.
· PCCCH (pachet common control channel): kênh báo hiệu hai chiều điểm –
đa điểm vận chuyển thông tin báo hiệu về quản lý truy xuất mạng như việc cấp phát
tài nguyên vô tuyến và tìm gọi. Nó gồm 4 kênh con:
1. PRACH (pachet random access channel): được MS dùng để yêu cầu PDTCH.
2. PAGCH (pachet access grant channel): dùng để cấp phát PDTCH cho MS.
3. PPCH (packet paging channel): BSS dùng để tìm vị trí của một MS (tìm gọi)
trước khi truyền gói hướng xuống.
4. PNCH (pachet notification channel): báo cho MS bản tin PTM đang đến.
· Kênh điều khiển dành riêng là kênh báo hiệu hai hướng điểm – điểm. Nó
chứa kênh PACCH và PTCCH.
1. PACCH (packet associated control channel): luôn luôn được cấp phát kết hợp
với một hay nhiều PDTCH được phân cho một MS. Nó vận chuyển thông tin báo
hiệu đến một trạm MS riêng (ví dụ thông tin điều khiển công suất).
2. PTCCH (packet timing advance control channel): dùng để đồng bộ khung.
Việc phối hợp giữa kênh lôgic chuyển mạch kênh và kênh logic chuyển mạch gói
rất quan trọng. Nếu PCCCH không có sẵn trong một cell, một MS dùng kênh điều
khiển chung (CCCH) của mạng GSM để bắt đầu truyền gói. Hơn nữa, nếu PBCCH
không có sẵn, nó sẽ lắng nghe kênh quảng bá (BCCH) để được thông báo về mạng
vô tuyến.
Hình này mô tả nguyên tắc cấp phát kênh. Một MS yêu cầu truyền dẫn hướng lên
bằng cách gửi một “pachet channel request” trên PRACH hay RACH. Mạng trả lời
trên PDCH hay AGCH tương ứng. Nó báo cho MS kênh PDCH nào có thể dùng
được. Một cờ trạng thái hướng lên (USF) được truyền trên đường xuống để báo cho
MS liệu có kênh lên nào rảnh không.
PRAGCH or AGCH
PRACH or RACH
PACCH
PACCH
Packet channel
request
Packet immediate
assignment
Packet resourse
assignment
Packet resourse
request
GPRS IP Conectivity
1 Tổng quan Kiến trúc kết nối của GPRS
GPRS tận dụng các thành phần của mạng GSM có sẵn, nhưng để hiệu quả trong
việc xây dựng mạng di động trên nền chuyển mạch gói GPRS cần một số thành
phần, giao diện, giao thức mới. Cấu trúc của hệ thống mạng GPRS được xây dựng
song song với mạng GSM có sẵn. Thành phần BTS phân thành đường truyền thoại
và đường truyền dữ liệu. Đường truyền thoại được đưa đến bởi mạng GSM trên nền
ISDN truyền thống, trong khi đó đường truyền dữ liệu được gởi thông qua qua mạng
IP. Có hai thành phần mới trong hệ thống GPRS là SGSN (Serving GPRS Support
Node) và GGSN (Gateway GPRS Support Node). Mạng GPRS chỉ kết nối với mạng
GSM ở phần BSC và ở các đường kết nối báo hiệu (phần Gs, Gr và Gc).
SGSN cũng như GGSN được tóm gọn trong khái niệm tổng quát hơn là GSN
(GPRS Support Node) – thành phần hỗ trợ GPRS.
Hình 1 trình bày các kết nối thông tin trong GPRS, các thành phần trong GSM
như MSC/VLR – BSS và MSC – HLR không được trình bày ở đây.
Hình 1: Kết nối giữa các GSN trong GPRS
Tách rời thành phần mạng lõi trên được 2 thành phần nối với GSN là:
- Mạng quản lý: điều hành, duy trì và tính cước, ...
- Mạng dịch vụ: thành phần cung cấp dịch vụ Internet.
GPRS Internal Backbone là:
- Mạng dùng router giữa các GSN hay kết nối các GSN với nhau khi router là
một thành phần nằm trong GSN.
- Mạng quản lý.
GSN luôn có chứa router (bộ định tuyến) hoặc có thể các router độc lập ở giữa
các GSN trong mạng xương sống GPRS. Một thành phần có chức năng chuyển
mạch cho DCE cũng cần phải có giữa các GSN. Hình 2 là ví dụ của mạng xương
sống GPRS; Boder Gateway (BG) - cổng phân cách trong GGSN được dùng với các
GSN trong các mạng PLMN khác nhau.
ATM ATM
ATM Switch
GGSNBG
Switch
SGSNR
WWW MAIL
Ethernet
GGSNBG
NTP DNS EGT Billing
NTP DNS EGT Billing
Management LAN
Hình 2: Mạng xương sống của GPRS
2 Chức năng kết nối IP của GPRS
Chức năng này cung cấp:
- Sự liên lạc giữa các thành phần khác nhau trong hệ thống GPRS bao gồm các
trạm di động MS, SGSN, GGSN, các host, các thành phần cung cấp dịch vụ Internet,
...
- Kết nối với Internet.
Trong thông tin liên lạc dựa trên nền IP tiêu biểu có hai dạng liên lạc khác nhau
là:
- Liên lạc IP trong mạng GPRS dành cho báo hiệu, quản lý, ...
- Liên lạc IP giữa các người dùng
Một ví dụ của chức năng thứ hai là sự liên lạc giữa trạm di động GPRS (GPRS
MS) và ISP. Hệ thống GPRS cung cấp kết nối IP giữa các MS (Mobile Station) và
IH (Internet service Host) sử dụng theo chuẩn GSM. Dữ liệu truyền đi dựa trên giao
thức internet tức là các gói dữ liệu truyền đi từ đầu cuối này đến đầu cuối kia (end-
to-end), cả truyền trên giao diện vô tuyến.Nhìn từ phía người sử dụng, để kết nối với
Internet cần phải có modem, MS đóng vai trò như một modem trong hệ thống thông
tin di động GPRS.
Một điều cần thiết khác trong sự liên lạc theo chuẩn IP là mỗi thiết bị trong mạng
cần có một địa chỉ IP để phân biệt với các thiết bị khác. Đối với hệ thống GPRS,
giao thức IP sử dụng trong kết nối giữa các người dùng và cả trong hệ thống, như
vậy cả MS và các thành phần hệ thống đều cần phải có địa chỉ IP.
GPRS hỗ trợ cả IPv4 và IPv6.
Địa chỉ IP dùng trong GPRS có thể là địa chỉ công cộng (public), địa chỉ riêng
(private), địa chỉ động (dynamic) hay tĩnh (static).
2.1 Địa chỉ IP công cộng và địa chỉ riêng
Địa chỉ IP công cộng là địa chỉ được cung cấp bởi nhà điều hành Internet, địa chỉ
này được quy định riêng biệt trên toàn thế giới, nghĩa là mỗi host có một địa chỉ IP
công cộng riêng. Để giảm số lượng địa chỉ IP, các tổ chức cần sử dụng địa chỉ IP
riêng. Các địa chỉ trong không gian địa chỉ riêng chỉ cần khác nhau đối với tổ chức
sử dụng; như vậy địa chỉ IP riêng có thể sử dụng cho nhiều tổ chức khác nhau. Ví
dụ: Internet Assigned Numbers Authority (IANA) đã dành riêng 3 khối trong không
gian địa chỉ IP cho địa chỉ IP riêng như sau: 10.0.0.0 - 10.255.255.255 (10/8 prefix)
172.16.0.0 - 172.31.255.255 (172.16/12 prefix)
192.168.0.0 - 192.168.255.255 (192.168/16 prefix)
Một GPRS có thể được cấp cho địa chỉ công cộng hay địa chỉ riêng.
2.2 Địa chỉ IP động và địa chỉ tĩnh
Địa chỉ IP động có thể được cấp cho SGSN khách hay cho GGSN của mạng hiện
tại khi thực hiện chức năng chuyển vùng. Việc cấp địa chỉ IP động cho phép nhà
điều hành có thể tái sử dụng địa chỉ IP từ tài nguyên địa chỉ IP điều này làm giảm
tổng số địa chỉ IP dùng trong một PLMN.
Địa chỉ IP tĩnh được cấp cho thuê bao ở HLR. Địa chỉ IP tĩnh được sử dụng khi
truy cập vào mạng bảo mật việc gọi địa chỉ IP như là khoá để kiểm tra quyền truy
cập.
Ví dụ ở hình 3 là sơ đồ mạng GPRS kết nối với mạng Internet. Mỗi thiết bị đăng
ký muốn trao đổi dữ liệu với mạng IP cần phải được cấp một địa chỉ IP. Địa chỉ IP
được lấy từ không gian địa chỉ IP của nhà điều hành GPRS. Để hỗ trợ số lượng lớn
địa chỉ IP cho người dùng di động, cần phải cấp địa chỉ IP động, DHCP Server
(Dynamic Host Configuration Protocol) thực hiện công việc này. Trong hình máy
phục vụ tên miền (DNS) được quản lý bởi GPRS hay bởi mạng IP có chức năng ánh
xạ giữa địa chỉ IP và tên các host. Để đảm bảo quyền truy cập vào PLMN, bức
tường lửa (firewall) được sử dụng giữa mạng GPRS riêng và mạng IP bên ngoài.
Với cấu hình trên, GPRS có thể được coi là phần mở rộng của Internet trên tất cả các
đường đến trạm di động hay máy tính di dộng. Như vậy thuê bao di động kết nối
trực tiếp với Internet.
Hình 3: Kết nối GPRS – Internet
2.3 Các phần kết nối IP trong GPRS
Các router độc lập và các router nội trong mạng xương sống GPRS kiểm soát tất
cả các kết nối ở mạng đường trục, các router này dùng địa chỉ IP riêng và có chức
năng lọc gói dữ liệu.
Router có thông tin về địa chỉ IP ở các giao tiếp kết nối IP và nhận dạng được địa
chỉ IP của tất cả các TE trong hệ thống GPRS. Mỗi gói IP có địa chỉ của MS đích
được gởi và xử lý bởi các router của mạng xương sống GPRS và thông qua GSN
đến với MS tương ứng. Bất kỳ một gói IP nào từ MS đều được gởi từ SGSN thông
qua bộ định tuyến của nó và được định tuyến đến internet sử dụng các quy trình định
tuyến IP thông thường.
Với mục đích bảo mật mạng phải có chức năng chặn các liên lạc không cần thiết.
Để đạt được điều này, phần thực hiện chức năng kết nối IP trong GPRS chia thành 3
phần, các phần này được liên kết với nhau bằng router:
- Phần mạng hợp tác (corporate) hay mạng ISP.
- Phần mạng xương sống nội GPRS (GPRS internal backbone), gồm cả mạng
quản lý.
- Phần mạng dịch vụ: là mạng cho các host, cung cấp các dịch vụ Internet cho
người dùng như DNS, e-mail, dich vụ WWW.
Trong đó, phần mạng ISP và mạng xương sống nội GPRS thực hiện các chức
năng cần thiết như định tuyến, quản lý lưu lượng, … cụ thể các chức năng này như
sau:
2.3.1 Mạng hợp tác hay mạng ISP
Mạng ISP là mạng nối với GPRS qua Internet. Mạng ISP có thể truy xuất đến bất
kỳ trạm di động nào.
Giao tiếp giữa mạng ISP và GGSN được duy trì suốt quá trình tạo PDP. Khi một
tin nhắn tạo với PDP đến GGSN, giao thức chứng thực mật mã (PAP) hay giao thức
chứng thực bắt tay (CHAP) được sử dụng thông qua máy chủ RADIUS ở mạng ISP.
Mạng bên ngoài có nhiệm vụ cấp địa chỉ IP cho MS.
Một GPRS MS có thể được cấp cho địa chỉ IP công cộng hay địa chỉ riêng. Để sử
dụng địa chỉ riêng, cần phải định tuyến với IPSec tunnel hay PVC (mạch ảo thường
trực). Nếu GGPS MS dùng địa chỉ riêng thì kết nối đến Internet phải dùng NAT (bộ
dịch địa chỉ mạng) hay một Proxy Sever đặt ở ISP.
Với mạng dùng địa chỉ IP công cộng, có các giao thức định tuyến trên nền IP như
sau:
- RIP (Rounting Information Protocol) v2
- OSPF (Open Shortest Path First) v2
- BGP v4
- Static routing
2.3.2 Mạng xương sống nội GPRS
Mạng này là sự kết nối giữa các GSN. Một GSN thông qua router nối đến mạng
xương sống GPRS và cho phép các host nối tới mạng quản lý. GSN router định
tuyến tất cả các gói IP đến MS tương ứng. GSN router có các chức năng thông
thường và bổ sung thêm một số chức năng trong việc phân phối tải dữ liệu (payload)
và quản lý lưu lượng. Như vậy router có thể xử lý hiệu quả cả lưu lượng IP qua các
thành phần mạng lẫn các giao thức đặc biệt của GPRS. Các router này hỗ trợ định
tuyến tĩnh, cũng như các giao thức định tuyến động như: RIP v2, OPSF v2, và giao
thức kết nối bên ngoài BGP v4.
Chức năng định tuyến là một phần không thể thiếu đối với mạng GPRS, thực hiện
chức năng này bằng cách sử dụng các router trong GSN. Nếu hai GSN ở các PLMN
khác nhau nối với nhau thì phải sử dụng cổng phân cách – BG (Boder Gateway),
thông thường chức năng này được tích hợp trong GGSN. Một GSN cũng có thể nối
với mạng IP bên ngoài thông qua BG. Các kết nối đến các PLMN khác có thể bằng
đường trực tiếp hay thông qua mạng IP.
3 Định tuyến trong GPRS
Định tuyến là quá trình lấy gói dữ liệu từ một thiết bị và gởi nó thông qua mạng
đến thiết bị của mạng khác. Để có thể định tuyến các gói dữ liệu, router phải có các
thông tin: địa chỉ đích, các router láng giềng, các đường đi đến tất cả các mạng từ xa,
đường đi tối ưu đến mỗi mạng, cách thức duy trì và kiểm tra thông tin định tuyến.
Router không quan tâm đến host mà chỉ quan tâm đến mạng và đường đi tối ưu cho
mỗi mạng.
Xét một ví dụ điển hình của định tuyến gói dữ liệu trong mạng GPRS, trình bày
ở hình 4.
PLMN1
Packet data network
Inter-PLMN
GPRS backbone
Intra-PLMN
GPRS backbone
Intra-PLMN
GPRS backbone
Border Gateway Border Gateway
GGSNGGSNSGSN
BTS
BTS
BSC
BSC
PLMN2
Router Host
MS
SGSN SGSN
LAN
Hình 4: Định tuyến gói dữ liệu trong GPRS
Một trạm di động ở PLMN1 gởi gói dữ liệu IP đến một host nối với mạng IP.
Phần SGSN của MS đóng gói gói dữ liệu từ MS, xem xét phạm vi PDP và định
tuyến chúng qua mạng xương sống GPRS trong cùng một PLMN (Intra-PLMN
GPRS) đến GGSN thích hợp. GGSN bỏ các phần thêm vào bởi SSGN và gởi chúng
ra mạng IP, tại đây sử dụng cơ chế định tuyến IP để chuyển gói đến router của mạng
đích. Sau sùng phân phối gói IP đến host.
Giả sử trạm di động đăng ký ở PLMN2. MS có được địa chỉ IP từ GGSN của
mạng PLMN2. Như vậy, MS có địa chỉ IP ở cùng mạng với địa chỉ IP của GGSN
của mạng PLMN2. Bây giờ host gởi gói dữ liệu IP cho MS. Gói IP sẽ được dẫn đến
GGSN của PLMN2. Nhưng trong HLR chứa thông tin thông báo rằng MS đang ở
PLMN1, như vậy thông tin sẽ được đóng gói và gởi chúng thông qua mạng xương
sống GPRS liên PLMN (Inter-PLMN GPRS Backbone) đến SGSN ở PLMN1. Đến
đây, SGSN tách gói dữ liệu và chuyển chúng tới MS.
Trong GPRS sử dụng hai dạng định tuyến là:
- Định tuyến tĩnh (static routing)
- Định tuyến động (dynamic roting) gồm RIP, OSPF, BGP.
Định tuyến tĩnh
Cấu hình định tuyến phải thông qua người quản trị, người quản trị phải ghi
các thông tin vào bảng định tuyến. Lợi điểm của cách định tuyến này là: sử dụng ít
băng thông trên đường truyền giữa các router, bảo mật. Nhược điểm của cách định
tuyến này là: người quản trị phải hiểu rõ cấu trúc mạng, không phù hợp với mạng
lớn trong việc cập nhật thông tin định tuyến.
Định tuyến động
Đây là quá trình sử dụng các giao thức để tìm và cập nhật bảng định tuyến
trên router, để đảm bảo đường đi tới mỗi mạng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mang_gprs_gsm_8277.pdf