Bước vào những năm cận kề cách mạng Tháng Tám 1945, “cái tôi” cá 
nhân bước qua thời kỳ hăm hở buổi đầu để rơi vào khủng hoảng, thường xuyên 
sống với căn bệnh hoài nghi. Các nhà thơ mới đã thể nghiệm điều này một 
cách sâu sắc. Hành trình số phận của cái tôi cá nhân trong trong Thơ mới, 
cũng không khác hành trình số phận của con người cá nhân trong tiểu thuyết 
TLVĐ nói chung và tiểu thuyết của Khái Hưng nói riêng. Tuy nhiên nếu 
như Thơ mới thể hiện cuộc sống con người cá nhân ở khía cạnh con người 
tâm linh thì văn xuôi TLVĐ nói chung và tiểu thuyết Khái Hưng nói riêng tập 
trung miêu tả bi kịch của con người cá nhân ở khía cạnh con người đời tư
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2257 | Lượt tải: 4
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hành trình số phận con người cá nhân trong tiểu thuyết của Khái Hưng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. q. anh hành trình số phận con ng−ời cá nhân ... Khái H−ng, tr. 10-16 
 10 
hành trình số phận con ng−ời cá nhân 
trong tiểu thuyết của Khái H−ng 
nguyễn quốc anh (a) 
Tóm tắt. Bài viết phân tích sự miêu tả chân thực của tiểu thuyết Khái H−ng về 
hành trình số phận của con ng−ời cá nhân trong lòng xã hội Việt Nam những năm 
30, 40 của thế kỷ XX. Con ng−ời cá nhân từ chỗ hăm hở khẳng định đã dần rơi vào 
tình trạng khủng hoảng, bế tắc, và tất cả những điều đó đã diễn ra một cách có quy 
luật. Thông qua việc thể hiện vấn đề này, Khái H−ng đã tự chứng tỏ khả năng bao 
quát hiện thực sắc sảo cũng nh− nhiệt tâm dùng ngòi bút để can dự vào các vấn đề 
xã hội của mình. 
1. Cùng với Nhất Linh, Khái H−ng 
là nhà văn chủ chốt và có sáng tác dồi 
dào nhất của Tự lực văn đoàn (TLVĐ). 
Ông sáng tác ở nhiều thể loại, nh−ng 
thể loại chính và tiêu biểu nhất là tiểu 
thuyết. Tiểu thuyết của nhà văn thể 
hiện rõ mục đích, tôn chỉ của TLVĐ, đã 
góp phần đáng kể vào tiến trình hiện 
đại hoá văn xuôi Việt Nam giai đoạn 
1932-1945. Trong văn xuôi TLVĐ và 
tiểu thuyết của Khái H−ng, ta nhận 
thấy các nhà văn rất chú ý thể hiện 
cuộc sống của con ng−ời cá nhân. 
Nghiên cứu, đánh giá tiểu thuyết của 
Khái H−ng trên vấn đề hành trình số 
phận con ng−ời cá nhân chúng ta sẽ có 
dịp hiểu sâu hơn tiểu thuyết của Khái 
H−ng cũng nh− tiểu thuyết của TLVĐ 
đồng thời cũng có cái nhìn khách quan 
hơn về dòng văn học th−ờng đ−ợc gọi là 
“lãng mạn” ở giai đoạn 1932-1945, nhất 
là ở khía cạnh phản ánh hiện thực. 
2. Khi nói về hành trình của cái tôi 
cá nhân trong trong phong trào Thơ 
mới, Đỗ Lai Thuý đã khái quát: “Cái tôi 
cá nhân đô thị không phải là nhất 
thành bất biến. Nó cũng nổi trôi và biến 
đổi trên dòng thời gian lịch sử. Chỉ 
trong khoảng m−ời lăm năm, 1930-
1945, d−ờng nh− nó đã đi trọn một đoạn 
đ−ờng. Từ bỡ ngỡ hào hứng buổi đầu, 
cái tôi nhanh chóng đi đến sự khẳng 
định mình một cách quyết liệt trong cô 
đơn, bằng cô đơn, và, cuối cùng, giải 
thoát cô đơn bằng sự trở về trong vòng 
tay êm ấm của cái ta’’ [3, tr. 197]. Nhìn 
rộng ra, vấn đề hành trình của con 
ng−ời cá nhân không phải là vấn đề 
mang tính chất đơn lẻ chỉ đ−ợc thể hiện 
trong nền văn học Việt Nam những 
năm 30 của thế kỷ XX. Sự xuất hiện con 
ng−ời cá nhân là một hiện t−ợng có tính 
phổ biến diễn ra trong phạm vi văn học 
toàn thế giới. Con ng−ời cá nhân là con 
đẻ của xã hội t− sản, nó ra đời khi đã 
hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết 
và số phận của nó thăng trầm theo sự 
biến động không ngừng của điều kiện 
lịch sử xã hội. Tiểu thuyết TLVĐ, đặc 
biệt là tiểu thuyết của Khái H−ng cũng 
đã miêu tả hành trình số phận của con 
ng−ời cá nhân một cách khá chân thực, 
cho phép ta hiểu ra đ−ợc nhiều vấn đề 
của hiện thực xã hội Việt Nam trong 
nửa đầu thế kỷ XX. 
3. Lúc mới ra đời, con ng−ời cá nhân 
trong tiểu thuyết Khái H−ng hăm hở, 
háo hức khẳng định sức mạnh của 
mình. Con ng−ời cá nhân đối lập với gia 
đình, đoàn thể để phanh phui cái xấu
Nhận bài ngày 25/3/2009. Sửa chữa xong 08/4/2009. 
tr−ờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 2b-2009 
 11 
xa, lỗi thời của lễ giáo phong kiến. Xã 
hội phong kiến với những lễ giáo, hủ tục 
hà khắc đã trói buộc tự do của con 
ng−ời trong hàng chục thế kỷ. Những 
năm 30 của thế kỷ XX, nền văn minh 
ph−ơng Tây đã tràn vào n−ớc ta nh− 
một luồng gió mới. Do ảnh h−ởng của 
văn minh ph−ơng Tây, con ng−ời lúc 
bấy giờ nh− chợt bừng tỉnh ý thức cá 
nhân. Họ thấy vai trò cá nhân của mình 
là rất to lớn đối với sự phát triển của xã 
hội. ý thức đ−ợc sứ mệnh lịch sử của 
mình, con ng−ời cá nhân trong TLVĐ ra 
đời và nắm lấy sứ mệnh cao cả là đấu 
tranh không khoan nh−ợng với lễ giáo, 
hủ tục phong kiến, cởi trói và giải oan 
cho những số phận éo le bị kìm kẹp 
trong hủ tục và đói nghèo. 
Trong những tiểu thuyết đầu tiên 
của Khái H−ng, con ng−ời cá nhân bộc 
lộ nhiều mặt tích cực: họ là những chiến 
sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho tình 
yêu và hạnh phúc gia đình; họ là những 
cô gái mới, có học thức, thông minh, có 
nhan sắc, vì số phận xô đẩy mà phải 
sống trong hoàn cảnh éo le, trở thành 
những nạn nhân trong các gia đình 
phong kiến. Mai trong Nửa chừng xuân 
là một cô gái nh− thế. Trong hoàn cảnh 
cha mẹ mất sớm, Mai một mình quyết 
nuôi em ăn học nên ng−ời, dù có phải 
bán hết tài sản cha mẹ để lại. Rồi cô 
gặp Lộc - một trí thức Tây học có lòng 
tốt - đã đ−a tay cứu chị em nàng thoát 
khỏi thủ đoạn của Hàn Thanh - một 
trọc phú ở nông thôn. Cảm động tr−ớc 
tấm lòng hào hiệp của Lộc, Mai đem 
lòng yêu Lộc và hai ng−ời xây dựng tổ 
ấm riêng. Nh−ng thế lực phong kiến 
không để cho nàng dễ dàng có đ−ợc 
hạnh phúc. Bà án (mẹ Lộc) ng−ời đại 
diện cho nền luân lý cũ đã dùng đến 
những m−u mô nham hiểm, thâm độc 
để chia rẽ đôi thanh niên trẻ. Đứng 
tr−ớc tình thế bi đát, Mai đã kiên quyết 
từ chối làm vợ lẽ của Lộc, thẳng thắn 
nói lên những suy nghĩ của mình về lẽ 
sống. Cuộc sống hạnh phúc của chị em 
Mai với đứa con kháu khỉnh đã chứng 
minh cho những lý lẽ đúng đắn của 
nàng. Cho đến Thoát ly, bộ mặt ghê tởm 
của đại gia đình phong kiến cùng với 
một nền luân lý phản động đã đ−ợc phơi 
bày, khi quyền lực trong gia đình đã rơi 
vào tay ng−ời dì ghẻ tàn ác, nhiều m−u 
ma ch−ớc quỷ. Hồng (đứa con gái mồ côi 
mẹ) tội nghiệp đã trở thành nạn nhân, 
thành con mồi để cho mụ dì ghẻ mặc 
sức đày đoạ, khủng bố tinh thần. Ng−ời 
cha nhu nh−ợc, mất hết quyền lực chỉ 
biết a dua với vợ lẽ để dày vò đứa con 
gái đáng th−ơng của mình. Hình ảnh 
mụ dì ghẻ hiện lên trong truyện chẳng 
khác gì một con yêu tinh với bộ mặt xấu 
xí luôn che đậy bằng cái mặt nạ đạo đức 
giả. Bà căm ghét Hồng, không muốn 
thấy Hồng sung s−ớng trong gia đình 
mình. Bà lồng lộn ghen tức khi Hồng có 
cơ hội thoát ly khỏi gia đình để xây 
dựng hạnh phúc. Bà mừng thầm khi 
nghe tin ng−ời chồng hứa hôn của Hồng 
đang học ở Pháp bỗng d−ng lăn ra chết. 
Bà lấy cái việc cạo răng trắng của Hồng 
ra làm đầu đề cho câu chuyện của 
mình. Bà đã giăng cho Hồng một cái 
bẫy nguy hiểm và sung s−ớng ngồi chờ 
đứa con gái ngây thơ b−ớc vào cái bẫy 
giăng sẵn của mình. Bà mỉm c−ời tự 
nhủ: “Con bé này sắp chết rồi, bà sẽ cho 
chết hẳn”. Phải sống trong cái gia đình 
khủng khiếp ấy, Hồng luôn gặp ác 
mộng và luôn khao khát thoát đ−ợc 
khỏi gia đình ấy càng nhanh càng tốt. 
“Nàng chỉ t−ởng tới một điều. Thoát ly 
gia đình dù có phải hy sinh danh dự 
cũng cam. Huống hồ lại chỉ hy sinh 
danh dự cho ng−ời mình yêu!”. Hồng bỏ 
nhà ra đi với một quyết tâm và một suy 
nghĩ táo bạo: “Hai ng−ời sẽ lấy nhau dù 
ông phán bằng lòng hay không bằng 
n. q. anh hành trình số phận con ng−ời cá nhân ... Khái H−ng, tr. 10-16 
 12 
lòng cũng mặc kệ. Vả cần phải c−ới xin 
mới lấy nhau đ−ợc? Cốt yêu nhau, yêu 
nhau thành thực là đủ rồi…”. Sự phản 
kháng của Hồng đối với gia đình chính 
là sự phản kháng của cái tôi cá nhân có 
ý thức sâu sắc về cuộc sống tự do, căm 
phẫn cuộc sống tù túng đày đoạ, quyết 
tâm xây dựng cho mình một cuộc sống 
hạnh phúc bên cuộc sống ng−ời mình 
yêu th−ơng. Thoát ly là tiếng nói mạnh 
mẽ, dứt khoát của con ng−ời cá nhân 
“đoạn tuyệt” với hủ tục phong kiến. Cái 
chết của Hồng ở cuối tác phẩm là tiếng 
chuông thức tỉnh cho những ai còn ảo 
t−ởng có thể bắt tay để hoà giải với thế 
lực phong kiến hủ bại. 
4. B−ớc vào những năm cận kề cách 
mạng Tháng Tám 1945, “cái tôi” cá 
nhân b−ớc qua thời kỳ hăm hở buổi đầu 
để rơi vào khủng hoảng, th−ờng xuyên 
sống với căn bệnh hoài nghi. Các nhà 
thơ mới đã thể nghiệm điều này một 
cách sâu sắc. Hành trình số phận của 
cái tôi cá nhân trong trong Thơ mới, 
cũng không khác hành trình số phận 
của con ng−ời cá nhân trong tiểu thuyết 
TLVĐ nói chung và tiểu thuyết của 
Khái H−ng nói riêng. Tuy nhiên nếu 
nh− Thơ mới thể hiện cuộc sống con 
ng−ời cá nhân ở khía cạnh con ng−ời 
tâm linh thì văn xuôi TLVĐ nói chung 
và tiểu thuyết Khái H−ng nói riêng tập 
trung miêu tả bi kịch của con ng−ời cá 
nhân ở khía cạnh con ng−ời đời t−. 
Tuyết trong Đời m−a gió là một 
ng−ời thông minh nhạy cảm, vì thế cô 
không phải không ý thức đ−ợc cuộc sống 
và t−ơng lai của mình. Nh−ng cô gái 
này đã “bị những dục vọng và thú vui 
khoái lạc hàng ngày lôi kéo nh− khúc gỗ 
lềnh bềnh bị dòng n−ớc chảy xuôi lôi 
kéo đi nơi vô định…”. Nên khi Ch−ơng 
đề nghị c−ới Tuyết thì nàng chỉ im lặng 
và suy nghĩ, “nàng biết rằng sự c−ới 
. 
xin, sự lấy nhau theo lễ nghi không đủ 
sức mạnh giữ nổi ở trong bổn phận một 
ng−ời đàn bà quá tự do, sống đời phóng 
đãng nh− nàng”; “Nàng nh− hiểu lờ mờ 
rằng, trừ những khoái lạc hằng ngày ra, 
nàng không còn nên hy vọng những 
hạnh phúc đâu đâu. Gia đình? Một 
ng−ời nh− nàng không có quyền t−ởng 
đến gia đình. Sự mơ −ớc của nàng đã 
quá muộn”. Để thoát khỏi cuộc sống 
thực tại, Tuyết đã có lúc nghĩ đến việc 
cùng Ch−ơng đến sống ở một nơi hẻo 
lánh để h−ởng một cuộc sống êm đềm, 
l−ơng thiện. Nh−ng rồi Tuyết lại sợ cái 
cảnh nghèo đói, nheo nhóc, bận bịu về 
bầy con đông đúc. Cô cáu bẳn tự hỏi: 
“Một ng−ời đã lầm lỗi một lần thì không 
thể sung s−ớng đ−ợc nữa chăng?”. Khi 
nghĩ về sự cải hoá của mình, Tuyết 
phân tích: “Thì ng−ời ta nh− thế cả đã 
sao? Chán vạn gái giang hồ trở nên 
những bà tr−ởng giả”. Tuyết khinh bỉ 
những kẻ giả dối, những bọn đạo đức 
quê mùa. Tuyết mỉm c−ời tự nhủ: “Chà! 
Một liều ba bảy cũng liều, cầm nh− con 
trẻ chơi diều đứt dây!”. Tuyết muốn rời 
bỏ ngay nhà Ch−ơng mà đi, lăn lộn với 
cuộc đời m−a gió. “Tiếng gọi ở chốn xa 
xăm huyền bí nh− lại đến làm rung 
động tâm hồn phiêu l−u của nàng”. Cái 
bi kịch của Tuyết là không thể sống 
đ−ợc trong một gia đình quá êm đềm, 
đơn điệu gợi sự nhạt nhẽo buồn chán 
mặc dầu biết rằng phó thân cho cuộc 
đời m−a gió cũng chỉ để đày đoạ tấm 
thân, nh−ng “Thà liều thân với một đời 
m−a gió, khổ sở, đê tiện nàng cho còn 
hơn là sống mãi với cái đời lừa dối, bên 
cạnh một ng−ời mà nàng đã cạn tình 
yêu và trong gia đình bình tĩnh, êm ấm 
nó luôn nhắc nàng nhớ rằng địa vị của 
nàng không phải ở đây”. Trong cuộc gặp 
gỡ lần cuối với Ch−ơng khi Tuyết đã tàn 
tạ và Ch−ơng vẫn mở rộng lòng th−ơng 
tha thứ, Tuyết tự thấy xấu hổ tủi nhục, 
tr−ờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 2b-2009 
 13 
thấy mình không xứng đáng với lòng tốt 
của Ch−ơng. Tuyết vẫn phải ra đi dấn 
thân vào đời m−a gió. Tác giả đã miêu 
tả hành động đó với niềm xót xa cho 
một cô gái đã trót sống một đời phóng 
đãng truỵ lạc. Theo Hà Minh Đức: “Khi 
miêu tả Tuyết, Khái H−ng và Nhất 
Linh đã tỏ ra từng trải khi thể hiện 
những mặt phức tạp của một nhân vật 
nữ có tính cách nổi loạn theo h−ớng suy 
đồi của xã hội hiện đại. Kết thúc tác 
phẩm Đời m−a gió, các tác giả đã dự 
báo tính phổ biến của loại nhân vật 
này. Xu h−ớng chơi bời truỵ lạc, lấy lạc 
thú làm mục đích của cuộc sống, sống 
hôm nay không cần đến ngày mai, sống 
sung s−ớng cho mình không cần đến 
ng−ời khác, đã thấm nhiễm vào lớp 
thanh niên thời đại. Đám thanh niên tụ 
tập trong cuộc r−ợu đã đề x−ớng lý 
thuyết đó “Xin ai nấy uống cạn với tôi 
cốc r−ợu. Còn nh− câu chuyện cô Tuyết 
nào đó của hai anh đây thì xin hai anh 
xếp mau lại cho. Sống ngày nay nhớ chi 
ngày x−a, t−ởng chi đến ngày mai. Cô 
Tuyết ấy chết đi đã có cô Tuyết khác 
đẹp, xinh t−ơi hơn, phải không các 
em ?” [2, tr. 235]. Không biết rồi sau cái 
chết vô nghĩa của Tuyết, bị kịch ấy sẽ 
đến với ai đây trong đám chơi bời, truỵ 
lạc ấy? Ch−ơng từ một ông giáo đạo 
mạo, sống khuôn khổ, bị ám ảnh bởi 
việc ng−ời yêu phản bội đi lấy chồng, 
chàng sinh ra ghét phụ nữ. Đ−ợc Thu 
con gái bà phủ đem lòng quyến luyến 
nh−ng chàng vẫn hờ hững. Cuộc đời của 
Ch−ơng bỗng xoay chuyển hoàn toàn, từ 
chỗ ghét cay ghét đắng phụ nữ, Ch−ơng 
đổi ra si mê Tuyết, “nghiện Tuyết… 
nghĩa là nghiện cái thú nhục dục cũng 
nh− vài anh em, ban bè nghiện thuốc 
phiện, nghiện đi hát”. Trong đám bạn 
bè đã có ng−ời nhận xét Ch−ơng: 
“Những ng−ời hiền lành, bẽn lẽn, lãnh 
đạm nh− Ch−ơng mà khi đã ham mê 
một cái gì thì tất là nồng nàn ghê gớm”. 
Rồi khi Tuyết bỏ chàng ra đi, linh hồn 
của Ch−ơng cũng đi nốt: “Trong hai 
năm, thỉnh thoảng chàng vẫn tìm sự 
quên ở trong lòng bạn gái một đêm, 
nh−ng tình hững hờ của bọn tục tằn chỉ 
làm cho chàng thêm nhớ tới ng−ời tình 
cũ. Rồi càng ngày càng chán nản, phiền 
muộn, chàng đã quay về cái đời lạnh 
lùng, trơ trọi ngày x−a”. 
Khác với bi kịch của Tuyết trong 
Đời m−a gió, Nam trong Đẹp cùng với 
đám bạn bè ăn chơi phóng đãng lại rơi 
vào một bi kịch khác. Nam là một nghệ 
sĩ say mê, tôn thờ cái “đẹp”, chỉ vì nó là 
đẹp và thực hiện cái triết lý ấy trong đời 
sống của mình. Nam sống giữa đám 
nghệ sĩ xô bồ, kẻ thì lấy nghệ thuật làm 
ph−ơng tiện để làm giàu, kẻ thì chìm 
ngập trong đời th−ờng lam lũ, tẻ nhạt, 
nhỏ nhen, “kẻ thì vô lý t−ởng duy chỉ có 
một lý t−ởng chính đáng và có thể tới 
một cách dễ dàng, đó là lý t−ởng ăn, 
uống, nhảy”. Riêng Nam thì say mê 
nghệ thuật, “vẽ cần cho chàng nh− ăn, 
uống. Có khi hơn. Vì mải vẽ chàng có 
thể quên ăn. Nh−ng không một lạc thú 
gì, không một sức mạnh gì lôi kéo chàng 
đi đâu, một khi chàng đứng tr−ớc một 
cái khung căng vải đặt trên giá, cái 
bảng màu cầm trên tay”. Nam say mê 
vẽ nh− thế nh−ng lại không biết vẽ để 
nhằm mục đích gì ngoài nhu cầu giải 
trí: “Vẽ xong nó là khung vải bôi trơn. 
Đem bán, đem cho hay đem vứt cũng 
thế thôi. Nó nh− một ng−ời con gái. 
Ng−ời con gái ấy một hôm mình gặp 
mặt, và mình ao −ớc tìm tòi cái lạ, cái 
đẹp. Cái đẹp cái lạ một khi đã thấy, hay 
t−ởng thấy thì còn gì nữa? Sự thực hiện 
ra và mộng ảo tan đi”. Theo đuổi cái đẹp 
nhất thời, Nam cho rằng “Làm gì có cái 
đẹp tuyệt đích…”, “Cái đẹp gì mà không 
thoáng qua…”. Nam nghĩ: “ở đời làm gì 
có việc quan trọng, làm gì có việc thiêng 
n. q. anh hành trình số phận con ng−ời cá nhân ... Khái H−ng, tr. 10-16 
 14 
liêng (…). ở đời chỉ có hiện tại. Biết 
h−ởng hiện tại hơn ng−ời khác, đó là cái 
hơn đời của nghệ sĩ”. Vì quan niệm ấy 
nên Nam không lập gia đình để sống tự 
do h−ởng thụ lạc thú. Nam tự biện hộ 
cho t− t−ởng của mình rằng: “Chúng ta 
vì nghệ thuật mà hy sinh ái tình của 
chúng ta. Ràng buộc một nghệ sĩ vào 
trong một gia đình tức cũng đem một 
cây đa trồng vào chiếc chậu sứ…”. Theo 
Nam, v−ớng mắc vào gia đình với 
những lo toan tầm th−ờng thì không 
còn mơ t−ởng theo đuổi nghệ thuật 
đ−ợc. Nam nghĩ về gia đình Kế: “Nam lơ 
đãng ngắm tranh và cái đời buồn tẻ của 
ng−ời bạn lần lần vẽ ra trên bức tranh 
t−ởng t−ợng. Đó là một đời nghệ sĩ. 
Không, đó chỉ là một đời, một đời tầm 
th−ờng nữa. Có một gia đình đông đúc 
mà ng−ời ta phải làm việc vất vả để 
nuôi sống thì ng−ời ta còn mơ t−ởng, 
theo đuổi nghệ thuật sao đ−ợc”. D−ờng 
nh− Nam đã thấy sợ hãi và hình dung 
ra cái bi kịch của ng−ời nghệ sĩ về gánh 
nặng cơm áo - cái bi kịch mà nhân vật 
Hộ trong Đời thừa và Điền trong Trăng 
sáng của Nam Cao đã từng đau đớn 
nếm trải. Tránh đ−ợc cái bi kịch đó 
nh−ng Nam lại là một kẻ chạy theo cái 
đẹp không có điểm dừng. Khi gặp Lan, 
sắc đẹp và vẻ ngây thơ của Lan đã giúp 
Nam tìm đ−ợc nguồn cảm hứng sáng 
tác “mới mẻ và mênh mông”, “lần này là 
lần đầu chàng nhận thấy thế và hiểu 
rằng hơn hai tháng thiết tha với nghệ 
thuật đó là ảnh h−ởng của cặp mắt mỹ 
nhân”. Nam vốn là một kẻ vốn −a sống 
cuộc sống tự do, nay phải bó buộc vào 
trong cuộc sống gia đình, nghệ thuật 
của chàng bị tiêu mòn. Nam lại phải 
đau đầu vì sự ghen tuông dày vò của 
Lan. Sự khác biệt về lối sống, về quan 
niệm giữa Nam và Lan đã làm cho cuộc 
sống của họ trở nên căng thẳng, bất 
hoà, không cho họ h−ởng một cuộc sống 
yên ổn, hạnh phúc. Trong khi Lan là cô 
gái trong trắng, chỉ nghĩ đến một ng−ời 
đàn ông duy nhất là chồng mình thì 
Nam “đã bao lần chàng làm cái việc ấy 
với biết bao cô gái khác, nào chàng có 
nghĩ tới sự thiêng liêng nh− Lan đâu!”. 
Vì thế khi gặp Trinh (bạn Lan) Nam lại 
tìm đ−ợc nguồn cảm hứng sáng tác mới. 
Lý giải bi kịch của con ng−ời cá 
nhân trong Đẹp, Phan Cự Đệ cho rằng: 
Khái H−ng cũng không giấu diếm tình 
trạng bế tắc, tuyệt vọng của lớp nghệ sĩ 
sống không có lý t−ởng. Họ “suốt đời 
băn khăn khổ sở muốn quên mà không 
quên đ−ợc”. Họ chìm đắm trong “cái đời 
hắc ám, cái đời nồng nực trong men 
r−ợu và u mê trong khói thuốc phiện” 
để “đi từ chán nản này đến chán nản 
khác và thất vọng cứ ấn mãi chìm vào 
thất vọng”. Đầu đại chiến lần thứ hai, 
Khái H−ng có tham gia những đảng 
phái thân Nhật cho nên ở cuối tác 
phẩm, có lúc tác giả đã muốn đ−a ra 
một lời đề nghị, một ph−ơng h−ớng giải 
quyết tình trạng bế tắc cho lớp văn 
nghệ sĩ lãng mạn đ−ơng thời. Nhân vật 
Ngọc có lẽ phần nào là Khái H−ng, tuy 
Nam cũng là một nhân vật đ−ợc nhà 
văn trìu mến. Ngọc tâm sự với Nam: 
“Một đằng tìm quên có lẽ vì buồn, một 
đằng tìm sống một đời thể chất phong 
phú có lẽ cũng vì buồn. Giá đừng ai 
buồn cả thì sẽ không có tiểu thuyết. Mà 
muốn không buồn thì tất phải có một lý 
t−ởng để theo đuổi. Chính Nam đã đi 
theo con đ−ờng ấy, con đ−ờng đuổi theo 
cái đẹp nên chàng ít băn khoăn và tự 
tin hơn những ng−ời bạn của mình. 
Nh−ng bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc… 
Lớp nghệ sĩ trong tiểu thuyết của Khái 
H−ng chán nản với cuộc đời thực tại, 
sống không có lý t−ởng nên tìm sự quên 
lãng trong nghệ thuật và hoạt động 
nghệ thuật của họ thực ra cũng là một 
sự thoát ly. Nghệ thuật vị nghệ thuật, 
tr−ờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 2b-2009 
 15 
nghệ thuật tách rời sự nghiệp cách 
mạng cao cả của quần chúng, thoát ly 
khỏi những vấn đề nóng hổi đặt ra 
trong cuộc sống thì không thể tránh 
khỏi rơi vào tình trạng bế tắc và suy 
đồi…” [1, tr. 950]. 
Bi kịch của hai cha con Cảnh trong 
Băn khoăn cũng là bi kịch của một sống 
phóng đãng. Cuộc sống ăn chơi truỵ lạc 
của Cảnh có ảnh h−ởng phần nào từ 
ng−ời cha sống buông thả của mình. 
“Thỉnh thoảng ông Thiện (tức Thanh 
Đức) lại đ−a về một ng−ời con gái rồi 
đùa bỡn ầm ĩ với ng−ời ấy ở phòng bên 
cạnh sát t−ờng với phòng các con”. “Cái 
đời sống ấy kéo dài hơn hai năm, một 
đời nhiễu loạn vô gia đình giáo dục, vô 
gia đình luân lý đi song song với một 
đời hoàn toàn có trật tự”. Bi kịch của 
Cảnh là bi kịch của kẻ không tìm thấy ý 
nghĩa đích thực của cuộc sống, sống 
chán nản đắm mình trong truỵ lạc để 
quên hết thực tại đáng hoài nghi chán 
nản. Còn về nhân vật Ch−ơng, đã có lúc 
Ch−ơng hối hận và quyết sửa mình 
nh−ng gặp Hảo - một nhan sắc hấp dẫn, 
mê hoặc - Ch−ơng lại quay về với lối 
sống cũ để rồi giữa hai cha con nảy sinh 
xung đột vì yêu cùng một ng−ời. Để làm 
đẹp lòng ng−ời yêu, để trang trải tình 
phí, Ch−ơng đã bán cái vi la mà cha đã 
mua cho ở Sầm Sơn để sắm ô tô. Kết 
quả chàng bị cha chửi mắng và đuổi ra 
khỏi nhà. Còn Thanh Đức thì mê đắm 
nhan sắc của Hảo. Ông ta đã dùng tiền, 
dùng mọi mánh khoé để chinh phục 
Hảo. Nh−ng cuối cùng “viên đại t−ớng” 
thao l−ợc đã từng đánh bại bao kẻ địch 
trên th−ơng tr−ờng lại thất bại đau đớn 
trên tình tr−ờng. Nghe tin Hảo lấy 
chồng, con ng−ời quyết đoán, bản lĩnh 
nh− Thanh Đức cũng phải: “Chân tay 
rung lên, mặt mày tái mét, miệng lẩm 
bẩm: Lạ! có lẽ nào!”. 
Bàn về tiểu thuyết Băn khoăn, Ngô 
Văn Th− đ−a ra nhận xét: “Rõ ràng 
càng đi sâu vào thế giới cái tôi ta càng 
thấy lạnh. Nó bơ vơ thiếu thốn tình 
ng−ời. Nó giả dối truỵ lạc, vô luân. Tiểu 
thuyết Băn khoăn quả là bức tranh 
sinh động về tình trạng truỵ lạc của lớp 
thanh niên trí thức, kể cả trung niên 
tr−ớc Cách mạng” [4, tr. 140]. Tác phẩm 
cũng thể hiện nỗi băn khoăn của nhà 
văn, ch−a biết phải làm gì tr−ớc tình 
trạng phổ biến đó của thanh niên đ−ơng 
thời. Cái bi kịch khủng hoảng đó của 
con ng−ời cá nhân chỉ đ−ơc giải phóng 
khi cái tôi cá nhân, cá thể nhận ra và 
quay trở về hòa nhập chung vào cái ta 
của cộng đồng, dân tộc để tiếp thêm sức 
mạnh. 
 Ta có thể ví con ng−ời cá nhân nh− 
một đứa trẻ hồn nhiên trong sáng bỡ 
ngỡ tr−ớc cuộc đời. Đến thời kỳ khủng 
hoảng về tâm lý, nó cảm thấy cái tôi của 
nó là lớn nhất. Nó muốn khẳng định 
mình là ng−ời lớn, mà sự khẳng định đó 
có lúc khá kỳ quặc, ngộ nghĩnh. Nó tự 
đối lập mình với gia đình và muốn thoát 
khỏi gia đình để ra đi kiếm tìm tự do, 
tìm kiếm những điều mới lạ. Nh−ng rồi 
mất đi chỗ dựa, mộng −ớc tan tành, nó 
thấy hụt hẫng, bơ vơ, đành phải quay 
trở về đoàn tụ với gia đình trong cái ta 
chung của cộng đồng. 
5. Nghiên cứu, khảo sát hành trình 
số phận của con ng−ời cá nhân trong 
tiểu thuyết Khái H−ng, chúng ta thấy 
đây là một vấn đề có tính quy luật, 
không chỉ xuất hiện trong địa hạt văn 
xuôi mà cả trong thơ, không chỉ ở n−ớc 
ta mà có tính phổ biến trên thế giới. Nó 
là một phần của hiện thực đời sống nảy 
sinh trong xã hội đ−ơng thời. Bên cạnh 
hiện thực đ−ợc phản ánh trong văn học 
hiện thực phê phán, hiện thực đ−ợc 
n. q. anh hành trình số phận con ng−ời cá nhân ... Khái H−ng, tr. 10-16 
 16 
phản ánh trong văn học Cách mạng, ta 
còn thấy sự đa dạng của hiện thực trong 
tiểu thuyết TLVĐ, trong tiểu thuyết 
Khái H−ng. Tất cả góp phần làm nên sự 
đa dạng, muôn màu, muôn vẻ trong đời 
sống văn học Việt Nam những năm 
1930, đầu những năm 1940 của thế kỷ 
XX. 
tài liệu tham khảo 
[1] Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), NXB Giáo dục, Hà Nội, 
1997. 
[2] Hà Minh Đức, Tự lực văn đoàn trào l−u - tác giả, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007. 
[3] Đỗ Lai Thuý, Con mắt thơ, NXB Lao động, Hà Nội, 1992. 
[4] Ngô Văn Th−, Bàn về tiểu thuyết Khái H−ng, NXB Thế giới, Hà Nội, 2006. 
Summary 
The journey of individual human fate in Khai Hung's novels 
The paper analyzed thoroughly the journey of individual human fate in Khai 
Hung’s novels. Individuals who are eager to affirm themselves, have fell into crisis 
and deadlock which happen as a general rule. Through this theme, Khai Hung has 
proved his ability to observe the reality as well as his enthusiasm in writing about 
social issues. 
(a) Cao học 14, chuyên ngành Lý Luận Văn Học, tr−ờng đại học vinh. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
2nguyenquocanh_100504085501_1831.pdf