Ngoài cách tiếp cận giáo dục ngôn
ngữ trọn vẹn còn có cách tiếp cận kinh
nghiệm ngôn ngữ, cách tiếp cận văn học.
Cách tiếp cận kinh nghiệm ngôn ngữ sử
dụng phương pháp nói → ghi chép →
đọc, tức là giáo viên cho trẻ nói điều mà
trẻ có kinh nghiệm trước đó, sau đó, cô
ghi chép lại nội dung trẻ nói hoặc có thể
cho trẻ tự viết nội dung trẻ nói bằng hình
vẽ hay hình thức tương tự chữ viết và cho
trẻ đọc lại nội dung ghi chép. Quá trình
này giúp trẻ có hứng thú với hoạt động
đọc, viết.
Tác phẩm văn học là một trong
những tài liệu được sử dụng trong cách
tiếp cận giáo dục trọn vẹn. Theo đó, cách
tiếp cận văn học được ra đời. Sử dụng
văn học nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
là phương pháp hướng dẫn chính theo
cách tiếp cận văn học. Kinh nghiệm của
trẻ có được thông qua tác phẩm văn học
sẽ giúp trẻ học cách hình thành và thể
hiện ý nghĩa. Các nhà nghiên cứu đã
chứng minh rằng ngay từ khi còn nhỏ,
việc bố mẹ thường xuyên đọc sách cho
trẻ nghe sẽ giúp trẻ phát triển năng lực
đọc, viết ở trường phổ thông. Ngoài ra,
thông qua tác phẩm văn học, trẻ em được
tiếp xúc với các lĩnh vực phong phú như
toán, khoa học, xã hội, đạo đức, âm nhạc,
điều này giúp làm giàu kiến thức, kinh
nghiệm cho trẻ.
10 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 483 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của cách tiếp cận giáo dục ngôn ngữ cân bằng trong việc hướng dẫn trẻ làm quen chữ viết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giúp con người truyền tải thông tin với
nhau. Các nghiên cứu về phương pháp
hướng dẫn đọc ở thời kì mầm non đã
được thực hiện từ thế kỉ XIX. Từ đó đến
nay, các nhà giáo dục vẫn không ngừng
tìm kiếm phương pháp hướng dẫn đọc,
viết phù hợp với trẻ mầm non. Trải qua
nhiều năm nghiên cứu, để khắc phục hạn
chế của các cách tiếp cận giáo dục ngôn
ngữ trước đó, từ sau năm 1995, cách tiếp
cận giáo dục ngôn ngữ cân bằng ra đời
được xem là phương pháp hướng dẫn đọc,
viết phù hợp nhất cho trẻ mầm non.
Phương pháp này do Holdway (1979) và
Mooney (1990) đề xuất, được tiến hành
bằng cách kết hợp (electic or
combination) hài hòa các phương pháp
hướng dẫn trẻ làm quen chữ viết.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở hình thành của cách tiếp
cận giáo dục cân bằng
2.1.1. Cách tiếp cận trọng tâm phát âm
(phonetic language approach)
a) Khái niệm và bối cảnh ra đời
Xuất hiện từ thế kỉ XIX, cách tiếp
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Nguyễn Nguyên Hân
_____________________________________________________________________________________________________________
169
cận trọng tâm phát âm nhấn mạnh quá
trình đọc, giải mã chữ viết hơn là đọc,
hiểu. Để trẻ có thể đọc chính xác và trôi
chảy, giáo viên chú trọng việc dạy hệ
thống chữ cái, từ, nhận mặt chữ và phát
âm, nhận thức và sử dụng các yếu tố của
ngôn ngữ nói (phonological awareness)
như âm vị, âm tiết, từ, câu.
Cách tiếp cận trọng tâm phát âm là
phương pháp phát triển ngôn ngữ dựa
trên quan điểm của thuyết hành vi. Trẻ
chịu ảnh hưởng bởi yếu tố môi trường, vì
thế trẻ học các kĩ năng cần thiết của đọc,
viết thông qua con đường bắt chước và
luyện tập có hệ thống được lặp lại thường
xuyên. Các nhà giáo dục ủng hộ thuyết
hành vi cho rằng thông qua việc hướng
dẫn có hệ thống và luyện tập thường
xuyên các kĩ năng cần thiết cho việc đọc,
viết, độ chuẩn bị đọc sẽ được phát triển
nhanh chóng hơn.
b) Phương pháp hướng dẫn
Mục đích của cách tiếp cận này
nhằm phát triển khả năng đọc, giải mã
(decoding), mã hóa (encoding) hơn là
nắm ý nghĩa và chức năng của chữ viết,
chú trọng đọc, viết chính xác hơn là hình
thành thái độ và động cơ đọc, viết.
Thông qua sự hướng dẫn có hệ
thống và được rèn luyện thường xuyên,
các kĩ năng cần thiết cho việc đọc, viết
được thuần thục. Giáo viên dạy trẻ theo
chương trình được chuẩn hóa không lưu
ý đến đặc trưng hay kinh nghiệm của
người học.
Cách tiếp cận này cho rằng kĩ năng
nghe và nói dù không được học theo hình
thức đặc biệt nào cũng có thể lĩnh hội
một cách tự do trong cuộc sống. Tuy
nhiên, kĩ năng đọc và viết cần phải được
hướng dẫn bài bản, hệ thống.
Giáo viên dành nhiều thời gian cho
trẻ luyện tập các kĩ năng cần thiết chuẩn
bị cho việc học chữ, như: nhận biết sự
khác nhau và giống nhau về hình dáng,
kích thước của chữ viết, khả năng định
hướng trong không gian, khả năng phối
hợp tay và mắt... Ngoài ra, giáo viên còn
chú trọng sử dụng bài tập-trò chơi có hệ
thống nhằm giúp trẻ nhận biết từ và chữ,
đọc to từ và chữ, nhận biết mặt chữ, tên
chữ, biết phát âm chữ cái, hiểu quy tắc
ghép vần để đọc...
Nguyên tắc hướng dẫn của cách
tiếp cận này được bắt đầu từ đơn vị nhỏ
đến đơn vị lớn: âm vị→chữ
cái→từ→câu→câu chuyện. Tuy nhiên,
giáo viên không nhất thiết phải hướng
dẫn bắt đầu từ âm vị, mà đầu tiên, giáo
viên có thể hướng dẫn trẻ nhận thức chữ
cái, từ quen thuộc, phân biệt từ, chữ cái
cho đến khi trẻ thuần thục, giáo viên mới
hướng dẫn trẻ nhận biết và phát âm âm vị.
Cách tiếp cận trọng tâm phát âm
tuy có hiệu quả trong việc hướng dẫn trẻ
đọc, giải mã, mã hóa từ hay chữ, nhưng
do việc học của trẻ được tiến hành theo
hình thức luyện tập thường xuyên, bên
cạnh đó, tài liệu học không mang lại
hứng thú cho trẻ có thể dẫn đến việc trẻ
mất hứng thú với chữ viết. Để khắc phục
điều này, các nhà nghiên cứu đã tìm ra
cách tiếp cận mới về sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ, đó là cách tiếp cận ngôn ngữ
trọn vẹn. Nếu so với cách tiếp cận trọng
tâm phát âm chủ yếu chú ý đến trình độ
đọc, viết của trẻ theo tiêu chuẩn đặt ra thì
cách tiếp cận ngôn ngữ trọn vẹn lại đặt
Tư liệu tham khảo Số 11(77) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
170
mối quan tâm lớn hơn ở việc trẻ có hiểu
được ý nghĩa của chữ viết hay không và
trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp như thế
nào.
2.1.2. Cách tiếp cận giáo dục ngôn ngữ
trọn vẹn (whole language approach)
a) Khái niệm và bối cảnh ra đời
Cách tiếp cận ngôn ngữ trọn vẹn
được ra đời vào năm 1960 và phổ biến
rộng rãi vào những năm 80. Cách tiếp
cận này được coi là phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mang tính cụ thể,
hoạt động học tập xuất phát từ tình huống
có ý nghĩa đối với trẻ thay cho phương
pháp phát triển ngôn ngữ mang tính trừu
tượng, hình thức, phi tình huống trước đó.
Điều này đem lại sự thay đổi lớn đối với
sự phát triển kĩ năng tiền đọc, viết của trẻ
và phương pháp hướng dẫn của giáo viên.
Các nhà giáo dục gọi cách tiếp cận
này là cách tiếp cận ngôn ngữ trọn vẹn vì
ba lí do sau đây: (i) Đơn vị cơ bản của
ngôn ngữ là “ý nghĩa”, (ii) Không dạy
tách rời bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết
mà dạy tổng thể cả bốn kĩ năng, (iii) Để
trẻ phát triển toàn diện, lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ phải được dạy tích hợp
với tất cả các lĩnh vực khác bao gồm: lĩnh
vực phát triển thể lực, lĩnh vực phát triển
nhận thức, lĩnh vực phát triển tình cảm xã
hội, lĩnh vực phát triển thẩm mĩ.
Cơ sở lí luận của cách tiếp cận ngôn
ngữ trọn vẹn chịu ảnh hưởng bởi triết lí
chủ nghĩa cấp tiến của Dewey - nhấn
mạnh kinh nghiệm, hứng thú của trẻ
trong quá trình học tập, quan điểm học
tập tích cực thông qua kinh nghiệm cảm
giác của Froebel, Pestalozzi và cách tiếp
cận học tập mang tính tự nhiên của
Rousseau, Pestalozzi, Froebel. Cách tiếp
cận này nhận ảnh hưởng lí luận của
Piaget và Vygotsky, cho rằng năng lực
cần thiết cho việc đọc nằm bên trong
người học, năng lực bên trong này thông
qua quá trình người học tương tác với thế
giới bên ngoài sẽ được hình thành, từ đó
cho ra đời khái niệm đọc, viết tự phát
(emergent literacy). Trên cơ sở đó, giáo
viên không nhồi nhét nội dung được lập
trình sẵn cho trẻ mà cung cấp môi trường
và tạo cơ hội tương tác với trẻ để trẻ
được thể hiện năng lực đọc, viết của
mình. Đó cũng chính là nội dung dạy trẻ
học đọc, viết. (Theo [14])
Cách tiếp cận ngôn ngữ trọn vẹn
còn chịu ảnh hưởng Halliday. Ông cho
rằng chức năng và hiệu quả sử dụng của
ngôn ngữ, tình huống sử dụng ngôn ngữ
quan trọng hơn cấu trúc của ngôn ngữ.
Việc người lớn cho trẻ học sử dụng ngôn
ngữ một cách tự do trong sinh hoạt hàng
ngày đem lại hiệu quả lớn đối với quá
trình lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ. Quan
điểm mới của Rosenblatt về học đọc cũng
ảnh hưởng đến cách tiếp cận ngôn ngữ
trọn vẹn. Trước đây, học đọc được hiểu
là quá trình truyền đạt văn bản một chiều
đến người đọc, nhưng theo quan điểm
của Rosenblatt, đọc là quá trình tương tác
giữa người đọc với văn bản (transactional
process) (Theo [14]). Dù cùng một văn
bản nhưng khả năng tiếp nhận ý nghĩa
văn bản của người đọc rất khác nhau tùy
vào kiến thức, sự quan tâm, năng lực tư
duy của người đọc. Quan điểm này đặc
biệt nhấn mạnh vai trò tích cực của người
đọc. Người khai sinh ra cách tiếp cận
ngôn ngữ trọn vẹn là Goodman [7]. Ông
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Nguyễn Nguyên Hân
_____________________________________________________________________________________________________________
171
chính là người tiến hành lựa chọn, điều
chỉnh các nguyên lí học tập ngôn ngữ
phong phú của các nhà nghiên cứu để cho
ra đời cách tiếp cận ngôn ngữ trọn vẹn.
b) Phương pháp hướng dẫn
Cách tiếp cận ngôn ngữ trọng tâm
phát âm và cách tiếp cận ngôn ngữ trọn
vẹn có sự khác biệt trong việc lựa chọn
mục đích giáo dục ngôn ngữ. Mục đích
của cách tiếp cận ngôn ngữ trọng tâm
phát âm là phát triển năng lực giải mã
(đọc) và mã hóa (viết) một cách chính
xác. Mục đích của cách tiếp cận ngôn
ngữ trọn vẹn là khơi gợi động cơ đọc,
viết của trẻ nhằm giúp trẻ nắm vững và
truyền tải ý nghĩa của nội dung được đọc,
không chú ý đến lỗi của trẻ. Cách tiếp
cận trọng tâm phát âm coi trọng việc nắm
cấu trúc của ngôn ngữ, còn cách tiếp cận
ngôn ngữ trọn vẹn coi trọng năng lực sử
dụng ngôn ngữ để giao tiếp hơn.
Ngoài ra, cách tiếp cận trọng tâm
phát âm hướng dẫn đọc, viết riêng lẻ, ưu
tiên dạy học đọc trước học viết, còn cách
tiếp cận ngôn ngữ trọn vẹn không những
hướng dẫn tổng hợp cả bốn kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết mà còn tích hợp nội dung
giáo dục của các lĩnh vực phát triển khác.
Theo cách tiếp cận trọng tâm phát
âm, trẻ học chuỗi kĩ năng cần thiết cho
việc học đọc, viết theo hoạt động mang
tính chủ đích của giáo viên. Giáo viên
chủ yếu sử dụng tài liệu học chữ cái theo
hệ thống và rèn kĩ năng phát âm, ghép âm,
truyền đạt một chiều nội dung giáo dục
được lựa chọn sẵn cho trẻ trên giờ học. Ở
cách tiếp cận ngôn ngữ trọn vẹn, trẻ được
tiếp cận và tương tác với tài liệu đọc, viết
có ý nghĩa (lời bài hát, tờ quảng cáo, bản
đồ, biểu đồ, sách báo, tạp chí, bảng hiệu,
thực đơn, tác phẩm văn học, sản phẩm
của trẻ...), qua đó, trẻ tự hình thành kiến
thức cho mình.
Bảng 1. So sánh cách tiếp cận trọng tâm phát âm và cách tiếp cận giáo dục trọn vẹn
Cách tiếp cận trọng tâm phát âm Cách tiếp cận giáo dục ngôn ngữ trọn vẹn
Lí luận nền
tảng Thuyết chủ nghĩa hành vi
Thuyết chủ nghĩa tự nhiên, thuyết
chủ nghĩa cấp tiến, thuyết chủ nghĩa
tương tác, ngôn ngữ học theo chức
năng
Mục đích
giáo dục
Giải mã (đọc) và mã hóa (viết)
chính xác
Năng lực đọc, viết
Nắm vững cấu trúc ngôn ngữ
Nắm vững và truyền đạt ý nghĩa
Động cơ đọc, viết
Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp
Học liệu
Tài liệu học hệ thống chữ cái và
nguyên tắc ghép âm
Tài liệu không có ý nghĩa đối với trẻ
Sách tranh, tài liệu đọc, viết trong
môi trường xung quanh có ý nghĩa
với trẻ
Phương pháp
Giáo viên truyền đạt nội dung do
giáo viên lập kế hoạch sẵn cho trẻ
(trẻ học theo nguyên tắc từ ngoài
Trẻ tự hình thành kiến thức (trẻ học
theo nguyên tắc từ trong ra ngoài)
Tư liệu tham khảo Số 11(77) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
172
vào trong)
Nguyên tắc
hướng dẫn
Âm vị → chữ cái → từ → câu →
câu chuyện
Câu chuyện → câu → từ → chữ cái
→ âm vị
Giáo dục
chức năng
ngôn ngữ
Kĩ năng nghe, nói được lĩnh hội một
cách tự do nhưng kĩ năng đọc, viết
cần thiết phải được hướng dẫn có hệ
thống. Kĩ năng đọc, viết được
hướng dẫn một cách riêng lẻ
Bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết
được học một cách tự do. Kĩ năng
đọc, viết được hướng dẫn tích hợp
Mối quan hệ
với các môn
học khác
Thời gian giáo dục ngôn ngữ cho trẻ
được tiến hành riêng biệt
Hướng dẫn tích hợp với tất cả các
bộ môn khác
Ưu điểm
Trẻ có khả năng đọc, giải mã chính
xác
Đạt hiệu quả cao trong việc dạy đọc,
viết cho trẻ dù cho trẻ thiếu kinh
nghiệm đọc viết
Trẻ có hứng thú với việc đọc, viết
Đạt hiệu quả trong việc khơi gợi
động cơ đọc, viết của trẻ, giúp trẻ
hiểu ý nghĩa nội dung đọc
Nguồn: [14]
Ngoài cách tiếp cận giáo dục ngôn
ngữ trọn vẹn còn có cách tiếp cận kinh
nghiệm ngôn ngữ, cách tiếp cận văn học.
Cách tiếp cận kinh nghiệm ngôn ngữ sử
dụng phương pháp nói → ghi chép →
đọc, tức là giáo viên cho trẻ nói điều mà
trẻ có kinh nghiệm trước đó, sau đó, cô
ghi chép lại nội dung trẻ nói hoặc có thể
cho trẻ tự viết nội dung trẻ nói bằng hình
vẽ hay hình thức tương tự chữ viết và cho
trẻ đọc lại nội dung ghi chép. Quá trình
này giúp trẻ có hứng thú với hoạt động
đọc, viết.
Tác phẩm văn học là một trong
những tài liệu được sử dụng trong cách
tiếp cận giáo dục trọn vẹn. Theo đó, cách
tiếp cận văn học được ra đời. Sử dụng
văn học nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
là phương pháp hướng dẫn chính theo
cách tiếp cận văn học. Kinh nghiệm của
trẻ có được thông qua tác phẩm văn học
sẽ giúp trẻ học cách hình thành và thể
hiện ý nghĩa. Các nhà nghiên cứu đã
chứng minh rằng ngay từ khi còn nhỏ,
việc bố mẹ thường xuyên đọc sách cho
trẻ nghe sẽ giúp trẻ phát triển năng lực
đọc, viết ở trường phổ thông. Ngoài ra,
thông qua tác phẩm văn học, trẻ em được
tiếp xúc với các lĩnh vực phong phú như
toán, khoa học, xã hội, đạo đức, âm nhạc,
điều này giúp làm giàu kiến thức, kinh
nghiệm cho trẻ.
Tác phẩm văn học được sử dụng
như là một phương tiện hướng dẫn đọc,
viết và các lĩnh vực khác, tuy nhiên,
mục đích lớn nhất của cách tiếp cận văn
học là giúp trẻ hiểu và hứng thú với tác
phẩm văn học. Sự yêu thích sách và thái
độ tích cực đối với sách được hình
thành thông qua sinh hoạt hàng ngày.
Người lớn cho trẻ đọc sách cùng với
người lớn, khi đã quen thuộc với nội
dung của sách, trẻ sẽ kết nối với chữ
viết trong sách, từ đó, trẻ hiểu mối quan
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Nguyễn Nguyên Hân
_____________________________________________________________________________________________________________
173
hệ tương ứng giữa lời nói và chữ viết và
lĩnh hội tự do ý nghĩa của ấn phẩm.
Ngoài ra, nếu như ngôn ngữ nói là ngôn
ngữ mang tính ngữ cảnh vì phải phụ
thuộc vào tình huống của người nói và
người nghe thì chữ viết lại là ngôn ngữ
mang tính phi ngữ cảnh. Trẻ có thể lĩnh
hội ngôn ngữ phi ngữ cảnh nhờ vào kinh
nghiệm đọc sách của mình.
2.1.3. Cách tiếp cận ngôn ngữ cân bằng
(balanced language approach)
a) Khái niệm và bối cảnh ra đời
Vào những năm 1990, các ý kiến
tranh cãi về hiệu quả của cách tiếp cận
giáo dục ngôn ngữ toàn thể xảy ra ngày
càng gay gắt. Họ cho rằng năng lực đọc
của những trẻ được hướng dẫn theo cách
tiếp cận trọn vẹn bị tụt hậu hơn so với
những trẻ khác khi học chữ ở trường phổ
thông. Đọc bao gồm hai quá trình là đọc
và giải mã (decode: chuyển chữ viết sang
âm thanh) và đọc hiểu (comprehension:
nắm ý nghĩa của văn bản). Cách tiếp cận
trọng tâm phát âm hay còn gọi là cách
tiếp cận trọng tâm giải mã (code
emphasis approach) nhấn mạnh quá trình
đọc và giải mã, cách tiếp cận trọng tâm ý
nghĩa nhấn mạnh quá trình đọc hiểu. Nếu
chỉ sử dụng cách tiếp cận trọn vẹn, trẻ sẽ
gặp khó khăn trong việc học chữ ở
trường phổ thông. Để trẻ có thể đọc trôi
chảy và nhận diện từ (word recognition),
trường mầm non cần hướng dẫn trực tiếp
và có hệ thống cho trẻ năng lực nhận thức
âm vần, kiến thức về nguyên âm, phụ âm,
kiến thức về mối quan hệ giữa âm thanh
lời nói và chữ viết. [1], [2], [3]
Các kĩ năng cơ bản của việc đọc
tuy không thể giúp trẻ trở nên đọc tốt
hoàn toàn nhưng nếu không có kĩ năng
cơ bản, trẻ không thể đọc một cách trôi
chảy. Để trẻ có thể đọc tốt, giáo viên
cần hướng dẫn phối hợp phương pháp
hiểu ý nghĩa trong ngữ cảnh trọn vẹn
với các kĩ năng cơ bản cần thiết cho
việc giải mã chữ viết. Để phối hợp cách
tiếp cận trọng tâm phát âm và cách tiếp
cận giáo dục ngôn ngữ trọn vẹn trong
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, cách
tiếp cận cân bằng được ra đời.
Cách tiếp cận trọng tâm
phát âm (phonetic
language approach)
Cách tiếp cận cân bằng
(balanced approach)
Cách tiếp cận giáo dục
ngôn ngữ trọn vẹn
(whole language
approach)
Dạy trẻ làm quen chữ viết
bắt đầu từ việc hướng dẫn
trực tiếp kĩ năng đọc (nhận
thức về nguyên âm, phụ âm,
mối quan hệ tương ứng giữa
âm thanh lời nói và chữ viết)
Dạy trẻ làm quen chữ viết
bằng cách tạo cơ hội cho trẻ
khám phá chữ viết trong tình
huống có ý nghĩa đối với trẻ,
đồng thời hướng dẫn trực tiếp
kĩ năng đọc cần thiết cho trẻ
Dạy trẻ làm quen chữ viết
bắt đầu bằng việc cho trẻ
khám phá chữ viết trong
tình huống có ý nghĩa đối
với trẻ
Tư liệu tham khảo Số 11(77) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
174
Phương pháp này do Holdway
(1979) [8] và Mooney (1990) [10] đề
xuất, được tiến hành bằng cách kết hợp
(electic or combination) hài hòa các
phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen chữ
viết, bao gồm phương pháp trọng tâm
phát âm, phương pháp phát triển ngôn
ngữ theo cách tiếp cận trọn vẹn. Cách
tiếp cận cân bằng đòi hỏi đứa trẻ phải
được trang bị kiến thức phong phú về học
đọc như năng lực nhận diện từ, năng lực
hiểu và phân tích ý nghĩa, hứng thú với
sách. [5]
b) Phương pháp hướng dẫn
Cách tiếp cận cân bằng định hướng
giáo dục theo cá nhân hóa nên vai trò của
giáo viên rất quan trọng. Giáo viên phải
nắm rõ trình độ phát triển ngôn ngữ, tư
duy, hoàn cảnh gia đình để tìm ra phương
pháp phối hợp phù hợp cho cá nhân trẻ.
Nguyên tắc hướng dẫn của cách
tiếp cận cân bằng là từ toàn thể đến bộ
phận. Giáo viên bắt đầu cho trẻ hiểu ý
nghĩa toàn thể trước rồi sau đó mới
hướng dẫn các kĩ năng đọc, viết, thái độ,
hành động sau [4]. Thông qua hoạt động
đọc, viết cùng với tài liệu đọc, viết có ý
nghĩa với trẻ, giáo viên sẽ tiến hành
hướng dẫn trực tiếp và cụ thể kiến thức
âm vần, kĩ năng giải mã từ. [9], [13]
Strickland (1989) và Fowler (1998)
đề xuất phương pháp “toàn thể-bộ phận-
toàn thể). Đầu tiên, giáo viên trình bày tài
liệu đọc và cho trẻ trò chuyện về ý nghĩa
của nó (toàn thể), kế tiếp, cô hướng dẫn
một cách chính xác kĩ năng cơ bản của
việc đọc (bộ phận), sau đó, cô dành thời
gian để trẻ hiểu ý nghĩa một lần nữa (toàn
thể). Tương tự, Jo Jong Suk & Kim Un
Sim (2003) trình bày phương pháp “ý
nghĩa - phát âm - ý nghĩa” như sau: Ở
giai đoạn 1, giáo viên cho trẻ quan sát
câu hay từ đơn giản có kèm theo tranh
minh họa, kế tiếp, cô đọc to từ và yêu cầu
trẻ đọc theo cô. Lúc này, cô hướng sự
chú ý của trẻ đến ý nghĩa của từ (chữ)
hơn là bản thân chữ. Ở giai đoạn 2, cô
vừa duy trì phương pháp trọng tâm ý
nghĩa, đồng thời hướng dẫn trẻ phát âm
từ chính xác. Giai đoạn này giáo viên cần
lưu ý hướng dẫn trẻ nhận mặt chữ cái,
các nét chữ, phân biệt cách phát âm của
âm vị. Ở giai đoạn 3, cô quay lại phương
pháp hướng dẫn trọng tâm ý nghĩa. [14]
Quan điểm cơ bản của Hiệp hội đọc
quốc tế (Intenational Reading
Assocoation) cho rằng nếu giáo viên chỉ
sử dụng 1 hoặc 2 phương pháp hướng
dẫn kĩ năng tiền đọc thì không thể nào
hướng dẫn hiệu quả cho tất cả trẻ được.
Thay vào đó, giáo viên phải nắm vững
các phương pháp hướng dẫn đọc phong
phú và đặc trưng của người học để tìm ra
phương pháp hướng dẫn đọc phối hợp
phù hợp với người học [11]. Để thực hiện
tốt cách tiếp cận cân bằng, giáo viên
không những phải hiểu rõ ưu – khuyết
điểm của cách tiếp cận trọng tâm phát âm
và cách tiếp cận giáo dục ngôn ngữ trọn
vẹn mà còn phải lưu ý đến hứng thú, nhu
cầu, đặc trưng phát triển của trẻ. Giáo
viên có thể tổ chức trò chơi ngôn ngữ
như: “nói tiếp từ”, “nói từ bắt đầu (kết
thúc) có cùng chữ cái”... có tác dụng giúp
trẻ thể hiện sự quan tâm đến cấu tạo âm
thanh của từ, đồng thời, phát triển nhận
thức về chữ. Đối với trẻ biết rõ các kĩ
năng cần thiết cho việc đọc, viết nhưng
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Nguyễn Nguyên Hân
_____________________________________________________________________________________________________________
175
không có hứng thú với hoạt động đọc,
viết, giáo viên cần phải hướng dẫn trẻ
theo cách tiếp cận giáo dục ngôn ngữ trọn
vẹn. Ngược lại, đối với những trẻ hứng
thú đọc, viết và thường xuyên thực hiện
hoạt động đọc, viết nhưng trẻ phát âm từ
chưa chính xác hay năng lực nhận mặt
chữ còn hạn chế, giáo viên nên tiến hành
hướng dẫn trẻ theo phương pháp có hệ
thống, bài bản. [15]
Cách tiếp cận cân bằng lấy cách
tiếp cận trọn vẹn làm nền tảng để dạy
những kĩ năng cần thiết cho việc học đọc
như khả năng nhận thức âm vần, biết chữ
cái dùng để ghi âm âm vị, biết mối quan
hệ tương ứng 1 đối 1 giữa âm thanh lời
nói và chữ viết. Vì thế, giáo viên có thể
sử dụng hầu hết các phương pháp hướng
dẫn được sử dụng ở cách tiếp cận trọn
vẹn như: đọc to, đọc cùng nhau, đọc một
mình, giáo viên viết cho trẻ, viết cùng với
trẻ, trẻ viết một mình... Không những thế,
giáo viên đọc cho trẻ nghe nhiều ấn phẩm
có khả năng dự đoán, bài thơ, đồng dao
có vần điệu để trẻ chú ý đến vần điệu,
hướng dẫn mối quan hệ tương ứng giữa
âm thanh lời nói và chữ viết cho trẻ hiểu.
2.2. Hoạt động hướng dẫn trẻ làm
quen chữ viết theo cách tiếp cận ngôn
ngữ cân bằng
2.2.1. Hướng dẫn trẻ làm quen chữ viết thông qua tác phẩm văn học
Sách tranh Hoạt động giúp trẻ hiểu ý nghĩa Hoạt động hướng dẫn kĩ năng đọc
Quả bầu tiên
Nói từ, suy luận, giải thích
- Nhớ tên nhân vật
- Nói sự khác biệt về hành động của em
bé và lão nhà giàu
- Tìm hiểu nguyên nhân lão nhà giàu bị
rắn rít cắn chết
Nhận thức âm vần, hiểu mối quan hệ
giữa chữ và âm tiết
- Tìm và đọc từ chỉ tên nhân vật trong
sách
- Tìm từ bắt đầu bằng chữ cái có trong
tên của các nhân vật trong truyện
Ba chú heo
Nói từ, giải quyết vấn đề
- Tìm hiểu vật liệu làm nhà của ba anh em
nhà heo
- Tìm hiểu tính cách của ba chú heo
- Tìm hiểu lí do sói không vào nhà được
nhà của heo út
Nhận thức âm vần, hiểu mối quan hệ
giữa âm vị và chữ cái
- Nghe và nhận biết điểm giống nhau và
khác nhau giữa các từ có cách phát âm
giống nhau
- Ghép thẻ chữ cái rời thành từ và đọc từ
Kuri và Kura
làm bánh
Nói phương án giải quyết phong phú,
đánh giá
- Phương pháp mang quả trứng về nhà của
Kuri và Kura và lí do thất bại
- Làm cách nào để mang chảo, nắp và làm
vỡ trứng
Nói đúng ngữ pháp
- Sáng tác thơ “Tên chúng ta là Kuri và
Kura”
Nhận thức âm, mối quan hệ giữa chữ cái
và âm vị, tên của chữ cái
- Tìm điểm khác nhau trong tên của Ku
Ri va Ku Ra
- Viết phụ âm khác thay cho “k” (ví dụ:
Mori và Mora)
- Tìm từ có âm “i, a”
Tư liệu tham khảo Số 11(77) năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________
176
2.2.2. Hướng dẫn trẻ làm quen chữ viết
trong sinh hoạt hàng ngày
Tạo cơ hội cho trẻ tìm chữ viết
quen thuộc như tên các bạn, biển quảng
cáo, tên bánh kẹo Đầu tiên, cho trẻ
nhìn hình và nói tên bạn, sau đó, cô cho
trẻ chỉ vào từng tiếng để đọc.
Cho trẻ nhìn tranh trong sách báo,
tạp chí và nói tên sản phẩm, sau đó,
cho trẻ tìm chữ quen thuộc và chữ có
trong tên của mình trong sách báo, tạp
chí.
Giáo viên viết sẵn tên trẻ bằng chữ
rỗng có kích thước to, sau đó, cho trẻ tô
màu tên của mình để trẻ nhận biết tên của
mình và quan tâm đến chữ viết trong tên
của mình. Sau đó, cô cho trẻ tìm chữ cái
trong tên của các bạn giống với chữ cái
trong tên của mình. Sau đó, cô cho trẻ đặt
câu có từ chỉ tên các bạn trong lớp.
Cho trẻ gọi tên các bộ phận trên
khuôn mặt, cô viết lại lời trẻ nói. Sau đó,
cô hướng dẫn trẻ nhận biết chữ cái m
trong các từ và hướng dẫn cách phát âm.
Sau đó, cô cho trẻ đặt câu có từ chỉ tên
các bộ phận trên khuôn mặt.
Cô cho trẻ đọc bài thơ “Tay đẹp”,
hướng dẫn trẻ nhận biết, cách phát âm
chữ cái t và nhận biết các kiểu chữ t
khác nhau trong bài thơ. Sau đó, giáo
viên cho trẻ tìm các từ có chứa âm t.
3. Kết luận
Mục đích cuối cùng của dạy đọc,
viết là trẻ nhận diện nhanh, đọc trôi chảy
từ, có sự tự tin và thái độ tích cực về đọc,
viết, có thể thực hiện đọc, viết một cách
độc lập, tự do. Để thực hiện được điều
này, công tác chuẩn bị cho trẻ học đọc,
viết ở trường mầm non là rất cần thiết.
Ưu điểm của cách tiếp cận ngôn ngữ cân
bằng là giáo viên dạy trẻ làm quen chữ
viết bằng cách tạo cơ hội cho trẻ khám
phá chữ viết trong tình huống có ý nghĩa
đối với trẻ, đồng thời có thể hướng dẫn
trực tiếp kĩ năng đọc, viết cần thiết cho
trẻ. Nhờ sự kết hợp hài hòa các phương
pháp hướng dẫn đọc, viết mà kiến thức
về chữ viết của trẻ được hình thành một
cách tự nhiên, giúp trẻ phát triển toàn
diện các kĩ năng ngôn ngữ để chuẩn bị
cho hoạt động học ở bậc phổ thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Anh
1. Adams, M. J. (1990), Beginning to read: Thinking and learning about print,
Cambridge, MA: MIT Press.
2. Bus, A. G., & Van Ijzendoorn, M. H. (1999), “Phonological awareness and early
reading: A meta-analysis of experimental training studies”, Journal of Educational
Psychology, 91(3), 403-414.
3. Byrne, B., & Fielding-Barnsley, R. (1993), “Evaluation of a program to teach
phonemic awareness to young children: A 1-years follow up”, Journal of
Educational Psychology, 85(1), 104-111.
4. Farris, P. J. (2001), Language arts: process, product, and assessment (3rd ed.). New
York, NY: McGraw-Hill Higher Education.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Nguyễn Nguyên Hân
_____________________________________________________________________________________________________________
177
5. Fitzgerald, J. (1999), “What i
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cua_cach_tiep_can_giao_duc_ngon_ngu_can_bang_trong.pdf