Mưa mô phỏng tích lũy sau 24, 48, 72, và 96 giờ tích phân được chỉ ra trong Hình 2, với
sự phù hợp rất tốt so với mưa quan trắc bằng vệ tinh TRMM (hình vẽ không đưa ra). Trong các
ngày này rất nhiều trạm ở Bắc Bộ, nam Trung Bộ, và Nam Bộ quan trắc được lượng mưa hơn
25 mm ngày-1. Có thể quan sát thấy mưa Mei-yu dưới dạng dải rất rõ phát triển cùng với sự
phát triển của front từ miền trung Trung Quốc đến Nhật Bản. Điều đáng nói là hầu khắp lãnh
thổ Việt Nam và khu vực Biển Đông đều xuất hiện mưa lớn với lượng mưa thậm chí còn lớn
hơn lượng mưa Mei-yu trên lãnh thổ Trung Quốc.
10 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1862 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn lưu và mưa trên khu vực Việt Nam thời kỳ front Mei-Yu: Vai trò của dòng xiết trên cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
244
Hoàn lưu và mưa trên khu vực Việt Nam thời kỳ front Mei-yu:
Vai trò của dòng xiết trên cao
Nguyễn Minh Trường1,*, Vũ Thanh Hằng1, Bùi Hoàng Hải1,
Công Thanh1, Lê Thị Thu Hà2
1
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
2
Trung tâm Quốc gia Dự báo Khí tượng Thủy văn, Số 4 Đặng Thái Thân, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 29 tháng 4 năm 2011
Tóm tắt. Sử dụng số liệu tái phân tích NCAR-NCEP cho mô hình RAMS mô phỏng đợt hoạt động
của front Mei-yu từ ngày 10 đến 14 Tháng Sáu năm 2005 cho thấy hệ thống front Mei-yu có khả
năng dẫn đến sự xuất hiện mưa lớn trên khu vực Việt Nam. Kết quả mô phỏng chỉ ra là front phát
triển cùng với sự phát triển của dòng xiết trên cao. Khi giảm vận tốc dòng xiết trên cao ở biên phía
đông và phía tây dẫn đến rãnh lạnh trên cao giảm biên độ rõ rệt trên khu vực Nhật Bản, đồng thời
quan sát thấy các nhiễu động qui mô vừa xuất hiện trong nửa dưới tầng đối lưu liên quan tới biến
đổi qui mô vừa của lượng mưa tích lũy. Điều này cho thấy dòng xiết trên cao đã kích thích và dẫn
đường các nhiễu động qui mô vừa ở các mực thấp như các nghiên cứu quan trắc đã mô tả.
Từ khóa: Front Mei-yu, mưa Mei-yu, dòng xiết trên cao, nhiễu động qui mô vừa.
1. Mở đầu
Trong hoàn lưu gió mùa mùa hè Đông Á có
một hiện tượng rất nổi tiếng được biết đến với
tên gọi front Mei-yu (hay Baiu trong Tiếng
Nhật). Hiện tượng này được các nhà khí tượng
Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, và Nhật Bản
nghiên cứu rất nhiều vì đây là hệ thống thời tiết
có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh tế-xã
hội (high-impact weather system) và cũng là
nhân tố rất quan trọng trong cán cân nước của
các quốc gia nơi nó hình thành. Front Mei-yu
thường được nghiên cứu dưới hai khía cạnh là
mùa Mei-yu và thời tiết gắn với front Mei-yu.
_______
Tác giả liên hệ. ĐT: 0912075253.
E-mail: truongnm@vnu.edu.vn
Ví dụ, Wang và NNK [1] sử dụng mô hình khí
hậu khu vực phân giải cao để mô phỏng mưa
trong mùa Mei-yu từ 26 Tháng Tư đến 31
Tháng Tám năm 1998. Kết quả mô phỏng 4
tháng cho thấy mưa do front Mei-yu trên lưu
vực sông Yangtze (26○-32○N, 110○-122○E)
không phải do đối lưu đóng vai trò chủ yếu,
ngược lại mưa đối lưu có vai trò chi phối trên
miền nam Trung Quốc. Sampe và Xie [2]
nghiên cứu cảnh báo môi trường qui mô lớn
thuận lợi cho mùa Meiyu và chỉ ra mối liên hệ
chặt chẽ giữa bình lưu nóng và chuyển động
thẳng đứng.
Về khía cạnh thời tiết, Chien và NNK [3] đã
đánh giá kỹ lưỡng kỹ năng dự báo mưa của mô
hình MM5 và cho thấy rằng trong mùa Mei-yu
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
245
1998 có rất nhiều hệ thống đối lưu qui mô vừa
(MCS) phát triển dọc theo front và di chuyển về
phía Đài Loan. Zhang và NNK [4] cũng sử
dụng mô hình MM5 để mô tả các điều kiện cho
sự hình thành các tổ chức qui mô vừa tồn tại
trong MCS, ví dụ như dòng chảy xiết qui mô
vừa mực thấp và trên cao, áp thấp và áp cao qui
mô vừa… Cũng nghiên cứu các cấu trúc bên
trong và sự phát triển của front Mei-yu có thể
kể đến là Chen và NNK [5]. Các tác giả này đã
phân tích cơ chế hình thành dòng xiết mực thấp,
sự tăng cường và rút lui của front Mei-yu gần
Đài Loan. Kết quả chỉ ra rằng xoáy thế được tạo
ra và ẩn nhiệt được giải phóng bởi MCS có vai
trò đáng chú ý và cùng với sự thích ứng tới cân
bằng địa chuyển được cho là những cơ chế chính.
Về vai trò của dòng ẩm, Qian và NNK [6] cho
thấy là dòng ẩm từ vịnh Bengal có vai trò quan
trọng trong lượng mưa Mei-yu năm 1998. Vị trí
của cao áp cận nhiệt tây Thái Bình Dương có
vai trò nhất định khi nó góp phần quyết định
nguồn ẩm từ đâu tới, Biển Đông hay vịnh
Bengal [7].
Cần nhấn mạnh rằng trong rất nhiều trường
hợp, Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi hoàn
lưu cũng như hệ quả thời tiết của front Mei-yu
bởi vì front này sẽ giới hạn qui mô hoạt động và
tầm ảnh hưởng ở phía bắc của các dòng gió tây
nam là dòng mang lượng ẩm rất lớn từ Ấn Độ
Dương thổi qua bán đảo Đông Dương. Đáng
tiếc là hiện tượng này và mức độ ảnh hưởng của
nó hầu như chưa được các nhà khí tượng Việt
Nam quan tâm và nghiên cứu. Vì vậy, trong
nghiên cứu này chúng tôi xem xét một số khía
cạnh của đợt front Mei-yu xảy ra từ ngày 10
đến 14 Tháng Sáu năm 2005.
Mục 2 tiếp theo sẽ mô tả số liệu sử dụng và
cấu hình thực nghiệm để mô phỏng front Mei-
yu sử dụng mô hình RAMS. Một số kết quả và
bình luận được đưa ra trong Mục 3. Cuối cùng
là phần kết luận.
2. Số liệu và cấu hình thực nghiệm
Trong nghiên cứu này, mô hình RAMS
được sử dụng để mô phỏng đợt front Mei-yu
xảy ra từ ngày 10 đến 14 Tháng Sáu năm 2005.
Tâm miền tính đặt tại 35oN - 108oE, sử dụng
phép chiếu cực. Cấu hình miền tính bao gồm
207 x 161 điểm lưới theo phương vĩ tuyến và
kinh tuyến với 30 mực theo phương thẳng
đứng. Khoảng cách giữa các điểm lưới ngang là
45 km. Lớp dưới cùng dày 100 m, độ dày các
lớp tiếp theo bằng độ dày lớp ngay sát bên dưới
nhân với 1,15. Khi độ dày lớp đạt 1200 m, các
lớp tiếp theo đó sẽ được gán bằng 1200 m.
Bước thời gian tích phân là 30 s, các sơ đồ tham
số hóa đối lưu và sơ đồ bức xạ được kích hoạt 5
phút một lần. Sơ đồ tham số hóa đối lưu là sơ
đồ Kain-Fritsch do Truong và NNK [8] cải tiến.
Mô hình được ban đầu hóa sử dụng số liệu
tái phân tích NCAR-NCEP của NOAA
(National Oceanic and Atmospheric
Administration). Bộ số liệu này bao gồm nhiệt
độ khí quyển, độ ẩm tương đối, độ cao địa thế
vị, trường gió kinh hướng và vĩ hướng được
cho trên 17 mặt đẳng áp với độ phân giải ngang
2,5
o
x 2,5
o. Các điều kiện biên trong quá trình
tích phân được cập nhật 6 h một lần cũng sử
dụng các trường tái phân tích này. Nhiệt độ mặt
nước biển sử dụng cho ban đầu hóa mô hình là
nhiệt độ mặt biển trung bình tuần với độ phân
giải 1o x 1o.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Sự phát triển của front Mei-yu
Trên Hình 1 đưa ra kết quả mô phỏng
trường nhiệt độ thế ảo và vector gió mực 700
hPa cho các ngày 10-13 Tháng Sáu năm 2005
lúc 1200 UTC. Theo đó, trong ngày đầu một
thấp nóng quan sát thấy ở rìa đông nam cao
nguyên Tibet và một front Mei-yu kéo dài từ
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
246
miền trung Trung Quốc đến Nhật Bản (Hình
1a). Trong hai ngày tiếp theo, thấp nóng phát
triển cùng với một rãnh lạnh di chuyển về phía
đông dẫn đến sự phát triển của front trên Nhật
Bản (Hình 1b,c). Điều đáng nói là thấp nóng
ảnh hưởng rõ rệt đến miền bắc Việt Nam nhưng
nó chưa bao giờ được các nhà khí tượng Việt
Nam nhắc đến với tư cách là một cấu thành
trong hệ thống front Mei-yu. Trong ngày cuối,
một rãnh tái thiết lập ở phía bắc Trung Quốc và
một chu kỳ phát triển mới bắt đầu (Hình 1d).
Hình 1. Nhiệt độ thế ảo và vector gió mực 700 hPa lúc 1200 UTC các ngày 10 (a), 11 (b), 12 (c),
và 13 (d) theo mô phỏng của mô hình RAMS. Đường đẳng trị cách nhau 1,5oK.
Trong các ngày này gió tây ôn đới thịnh
hành ở phía bắc front Mei-yu, trong khi đó gió
tây đến tây nam nhiệt đới (dòng xiết mực thấp)
phát triển và thổi qua khu vực Việt Nam, là
nguồn cung cấp ẩm quan trọng cho front. Ngoài
ra, một dòng gió tây ở rìa nam cao nguyên
Tibet thổi qua Myanma đến Việt Nam, được
cho là có khả năng mang theo các nhiễu động
qui mô vừa, cũng được quan sát thấy. Trên mực
300 hPa, rãnh lạnh khơi sâu hơn nhiều tạo ra
dòng xiết trên cao thổi từ phía bắc cao nguyên
Tibet đến Nhật Bản và các đoạn front rất mạnh,
kéo dài, phát triển cùng với sự phát triển của
dòng xiết trên cao (hình vẽ không đưa ra).
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
247
3.2. Mưa Mei-yu
Mưa mô phỏng tích lũy sau 24, 48, 72, và
96 giờ tích phân được chỉ ra trong Hình 2, với
sự phù hợp rất tốt so với mưa quan trắc bằng vệ
tinh TRMM (hình vẽ không đưa ra). Trong các
ngày này rất nhiều trạm ở Bắc Bộ, nam Trung
Bộ, và Nam Bộ quan trắc được lượng mưa hơn
25 mm ngày
-1
. Có thể quan sát thấy mưa Mei-
yu dưới dạng dải rất rõ phát triển cùng với sự
phát triển của front từ miền trung Trung Quốc
đến Nhật Bản. Điều đáng nói là hầu khắp lãnh
thổ Việt Nam và khu vực Biển Đông đều xuất
hiện mưa lớn với lượng mưa thậm chí còn lớn
hơn lượng mưa Mei-yu trên lãnh thổ Trung
Quốc. Một dải mưa lớn tồn tại trên khu vực
giữa Biển Đông gắn với dòng xiết mực thấp
như đã nói ở trên. Điều này có ý nghĩa trong
thực tiễn là nếu các trung tâm dự báo của Trung
Quốc và Nhật Bản cảnh báo/dự báo sự xuất
hiện của front Mei-yu/Baiu thì các nhà khí
tượng Việt Nam cần lưu ý vì rất có khả năng sẽ
xuất hiện mưa lớn diện rộng trên toàn lãnh thổ
Việt Nam. Tuy nhiên, theo hiểu biết của chúng
tôi, thì chưa bao giờ các nhà khí tượng Việt
Nam cảnh báo mưa lớn có gắn với “front Mei-
yu”. Một điều thú vị khác là mặc dù mưa lớn
quan trắc thấy trên một lãnh thổ rộng lớn của
Đông Á và Đông Nam Á nhưng trên khu vực
Ấn Độ lại hầu như không xuất hiện mưa lớn
diện rộng. Điều này một lần nữa minh chứng là
gió mùa Đông Á không phải là sự phát triển
đơn giản về phía đông của gió mùa Ấn Độ [9].
Hình 2. Mưa mô phỏng tích lũy 24 (a), 48 (b), 72 (c), và 96 (d) giờ, tính từ 0000 UTC ngày 10 tháng sáu năm 2005.
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
248
3.3. Vai trò của dòng xiết trên cao
Trong các nghiên cứu về front và mùa Mei-
yu, các tác giả luôn nhận thấy sự xuất hiện của
dòng xiết trên cao [7]. Để đánh giá vai trò của
dòng xiết trên cao, trong nghiên cứu này vận
tốc gió sẽ được làm giảm bởi
-1
-1
45 0,3 45 , 45 ms
, 45 ms
V V V
V V V
chỉ được áp dụng trên vùng biên phía đông và
phía tây của miền tính. Như vậy chỉ có phần
vận tốc gió lớn hơn 45 m s-1 bị làm giảm một
lượng 70% trong khi hướng gió vẫn được giữ
nguyên, hay nói cách khác là không làm thay
đổi hội tụ/phân kỳ về hướng. Phương trình trên
cũng đảm bảo rằng chỉ có vận tốc gió ở vùng
biên phía đông và phía tây với độ cao tối thiểu
trên mực 500 hPa mới bị làm giảm. Vì vùng
biên phía đông và phía tây nằm rất xa khu vực
front Mei-yu cần quan tâm do vậy giả thiết là
chúng không gây ảnh hưởng vào vùng trung
tâm. Để thuận tiện, mô phỏng này được ký hiệu
là Jmod còn mô phỏng trong các mục trước
được ký hiệu là Ctrl.
Hiệu nhiệt độ thế ảo mực 300 hPa giữa hai
mô phỏng Ctrl và Jmod được chỉ ra trong Hình
3. Có thể thấy là trong ngày đầu tiên khi dòng
xiết trên cao chưa phát triển thì chênh lệch nhiệt
độ không lớn lắm, với vùng “làm lạnh” ở rìa
lạnh và “đốt nóng” ở rìa nóng của front Mei-yu.
Hai ngày tiếp theo, vùng “làm lạnh” phát triển
trên khu vực Nhật Bản (Hình 3b,c). Điều này
cho thấy khi dòng xiết trên cao suy yếu thì biên
độ rãnh lạnh khu vực Đông Á giảm đi, và do đó
các mặt đẳng nhiệt độ thế nghiêng ít hơn. Trong
ngày cuối, khi một rãnh mới được thiết lập trên
khu vực phía bắc lãnh thổ Trung Quốc thì phân
bố vùng “đốt nóng” và “làm lạnh” phức tạp hơn
(Hình 3d). Rất rõ là qui mô dọc front của các
vùng này có thể đạt đến qui mô synốp nhưng
qui mô ngang qua front của chúng nói chung
chỉ là qui mô vừa. Điều này rất đáng chú ý đối
với các nghiên cứu về front và sẽ được đề cập
đến trong một nghiên cứu khác.
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
249
Hình 3. Hiệu nhiệt độ thế ảo mực 300 hPa giữa Ctrl và Jmod lúc 1200 UTC các ngày 10 (a), 11 (b), 12 (c),
và 13 (d) theo mô phỏng của mô hình RAMS. Giá trị dương cho bởi vùng mờ, giá trị âm là đường nét liền.
Đẳng trị cách nhau 0,75oK.
Để xem xét ảnh hưởng của việc làm giảm
vận tốc dòng xiết trên cao đến các quá trình
trong nửa dưới tầng đối lưu, Hình 4 đưa ra hiệu
nhiệt độ thế ảo mực 700 hPa giữa hai mô phỏng
Ctrl và Jmod. Tại 700 hPa vận tốc gió chắc
chắn không đạt tới 45 m s-1 do vậy các biến đổi
ở đây là do dòng xiết trên cao ảnh hưởng tới.
Trong ngày đầu tiên khi dòng xiết trên cao chưa
phát triển mạnh thì hầu như không có sự khác
biệt đáng kể nào xảy ra (Hình 4a). Tuy nhiên,
trong hai ngày tiếp theo có thể thấy sự xuất hiện
luân phiên theo cả không gian và thời gian của
các khu vực “đốt nóng” và “làm lạnh” qui mô
vừa trong khu vực front Mei-yu và dòng xiết
mực thấp (Hình 4b,c). Mặc dù vậy, hiệu ứng
“đốt nóng” và “làm lạnh” ở 700 hPa có trễ so
với mực 300 hPa (so sánh Hình 3b, 4b; 3c, 4c).
Trong ngày cuối, khi rãnh lạnh tái thiết lập
nhanh chóng ở phía bắc lục địa Trung Quốc thì
phân bố các khu vực “đốt nóng” và “làm lạnh”
là rất rõ với qui mô thậm chí đạt tới qui mô cận
synốp. Như vậy, sự ảnh hưởng của cường độ
dòng xiết trên cao có thể lan xa về phía nam
đến các vĩ độ thấp như Việt Nam trong nửa
dưới tầng đối lưu. Điều này phù hợp với nghiên
cứu cảnh báo của Sampe và Xie [2] dựa trên
các nguồn số liệu tái phân tích là dòng xiết trên
cao có thể kích thích sự hình thành và dẫn
đường các nhiễu động qui mô vừa di chuyển
theo dòng trung bình trong khu vực front Mei-
yu. Mặc dù vậy các nghiên cứu sâu hơn cần
được tiến hành để có thể lý giải được hiện
tượng này.
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
250
Hình 4. Giống Hình 3, ngoại trừ cho mực 700 hPa.
Chênh lệch lượng mưa tích lũy 24, 48, 72,
và 96 giờ giữa mô phỏng Ctrl và Jmod được
đưa ra trong Hình 5. Việc giảm cường độ dòng
xiết trên cao không đơn thuần chỉ làm tăng hoặc
giảm lượng mưa mô phỏng tích lũy mà ngược
lại có thể thấy đồng thời các khu vực tăng và
giảm lượng mưa. Cũng giống như trường nhiệt
độ thế ảo mực 700 hPa, hiệu lượng mưa tích lũy
giữa hai tình huống mô phỏng thể hiện rõ ở qui
mô vừa. Trong hai ngày đầu, chênh lệch là
không nhiều (Hình 5a,b), ngược lại trong hai
ngày cuối chênh lệch lượng mưa mô phỏng tích
lũy là đáng kể (Hình 5c,d). Điều này một lần
nữa minh họa hiệu ứng qui mô vừa của dòng
xiết trên cao. Đáng chú ý là khi giảm cường độ
dòng xiết trên cao lại dẫn đến sự tăng của lượng
mưa trên khu vực trung tâm bán đảo Đông
Dương, nơi dòng xiết mực thấp thổi qua.
Nguyên nhân có thể là do tăng hội tụ ẩm ở khu
vực này.
4. Kết luận
Front Mei-yu/Baiu nói chung và mưa Mei-
yu/Baiu nói riêng là hệ thống thời tiết có ảnh
hưởng lớn đến các hoạt động kinh tế-xã hội và
cũng là nhân tố rất quan trọng trong cán cân
nước của các quốc gia nơi nó hình thành như
Trung Quốc, Hàn Quốc, và Nhật Bản. Do vậy
chúng là hệ thống nổi tiếng trong hoàn lưu gió
mùa mùa hè Châu Á và nhận được rất nhiều sự
đầu tư nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua của
các quốc gia nói trên. Việt Nam là một quốc gia
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
251
nằm gần khu vực hoạt động của front Mei-yu
nhưng câu hỏi liệu thời tiết khu vực Việt Nam
có bị ảnh hưởng bởi hoạt động của hệ thống này
hay không chưa bao giờ được đặt ra nhằm
nghiên cứu một cách thấu đáo.
Hình 5. Giống Hình 3, ngoại trừ cho mưa mô phỏng tích lũy 24 (a), 48 (b), 72 (c), và 96 (d) giờ.
Trong nghiên cứu này, đợt front Mei-yu từ
ngày 10 đến 14 Tháng Sáu năm 2005 được xem
xét. Kết quả mô phỏng cho thấy front Mei-yu
mực 700 hPa được thể hiện dưới dạng một dải
các đường nhiệt độ thế ảo dày xít kéo dài từ
miền trung Trung Quốc đến Nhật Bản. Đồng
thời một thấp nóng tồn tại ở rìa đông nam của
cao nguyên Tibet. Khi thấp nóng này phát triển
thì đoạn front trên lục địa Trung Quốc suy yếu
trong khi một rãnh lạnh khơi sâu trên bờ lục địa
Á-Âu, làm tăng cường độ front ở phía nam
Nhật Bản. Khi rãnh di chuyển về phía đông,
front trên lục địa Trung Quốc có cơ hội tái thiết
lập và mạnh lên. Dòng xiết mực thấp gió tây-
tây nam thổi qua Việt Nam hướng về phía đoạn
front trên khu vực Nhật Bản, là nguồn cung cấp
ẩm cho hệ thống front. Trên mực 300 hPa, dòng
xiết trên cao thổi qua phía bắc cao nguyên Tibet
đến Nhật Bản, đồng thời front Mei-yu được
quan sát thấy phát triển cùng với sự phát triển
của dòng xiết trên cao.
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
252
Kết quả mô phỏng mưa cho thấy là mưa
Mei-yu được tổ chức tốt thành dạng dải kéo dài
từ miền trung Trung Quốc đến Nhật Bản. Cũng
giống như nhiều trường hợp front Mei-yu khác,
một vùng mưa lớn xuất hiện trên thung lũng
sông Yangtze, nơi có đập thủy điện lớn nhất
trên thế giới. Đây chính là một trong những lý
do lớn nhất khiến các nhà khí tượng Trung
Quốc quan tâm đến loại front này. Đáng nhấn
mạnh là trong thời kỳ này mưa lớn diện rộng
xuất hiện trên hầu khắp lãnh thổ Việt Nam,
thậm chí dải mưa lớn trên khu vực trung tâm
Biển Đông, dọc theo dòng xiết mực thấp, có
lượng mưa còn lớn hơn mưa Mei-yu ở trung
tâm Trung Quốc. Dưới góc độ dự báo tác
nghiệp, các nhà khí tượng Việt Nam không thể
không quan tâm đến các dự báo/cảnh báo front
Mei-yu/Baiu của các trung tâm ở Trung Quốc
và Nhật Bản trong mùa gió mùa mùa hè.
Sự suy yếu dòng xiết trên cao thông qua
việc làm giảm vận tốc dòng xiết trên biên phía
đông và phía tây cho thấy sự xuất hiện các khu
vực “làm lạnh” ở rìa lạnh và “đốt nóng” ở rìa
nóng của front trên mực 300 hPa. Vùng “làm
lạnh” mạnh nhất xảy ra trên khu vực Nhật Bản
cho thấy dòng xiết trên cao suy yếu sẽ dẫn tới
việc làm giảm biên độ của rãnh lạnh gần bờ
Đông Á. Các khu vực này có qui mô vĩ hướng
đạt tới qui mô synốp, trong khi theo chiều kinh
hướng chúng chỉ tương đương với qui mô vừa.
Mặc dù dòng xiết trên cao tồn tại ở độ cao ít
nhất là trên mực 500 hPa, nhưng kết quả mô
phỏng cho thấy sự xuất hiện luân phiên theo cả
không gian và thời gian của các nhiễu động qui
mô vừa trong nửa dưới tầng đối lưu. Kết quả là
dẫn tới sự tăng, giảm lượng mưa tích lũy xảy ra
ở qui mô vừa. Điều này minh chứng rõ ràng vai
trò của dòng xiết trên cao trong việc kích thích
và dẫn đường các nhiễu động qui mô vừa đã
được ghi nhận trong các nghiên cứu cảnh báo
trước đây. Mặc dù vậy, nguyên nhân sâu xa của
hiện tượng này sẽ được chúng tôi đề cập đến
trong các nghiên cứu tiếp theo.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được sự hỗ trợ của đề tài
NAFOSTED mã số 105.10-2010.09. Số liệu tái
phân tích NCEP-NCAR được NOAA cung cấp
trên trang Web
ftp://ftp.cdc.noaa.gov/pub/Datasets/ncep.reanal
ysis/. Số liệu nhiệt độ bề mặt biển được lấy từ
ftp://ftp.emc.ncep.noaa.gov/cmb/sst/oisst_v2/.
Tài liệu tham khảo
[1] Wang, Y., O. L. Sen, B. Wang, A highly
resolved regional climate model (IPRC-RegCM)
and its simulation of the 1998 severe
precipitation event over China. Part I: Model
description and verification of simulation. J.
Climate 16 (2003) 1721.
[2] Sampe, T., S-P. Xie, Large-scale dynamics of the
Meiyu-Baiu rainband: Environmental forcing by
the westerly jet. J. Climate 23 (2010) 113.
[3] Chien, F.-C., Y.-H. Kuo, M.-J. Yang,
Precipitation forecast of MM5 in the Taiwan area
during the 1998 Mei-yu season, Wea. Forecasting,
17 (2002) 739.
[4] Zhang, Q.-H., K.-H. Lau, Y.-H. Kuo, S.-J. Chen,
A numerical study of a mesoscale convective
system over the Taiwan strait. Mon. Wea. Rev.,
131 (2003) 1150.
[5] Chen, G. T.-J., C.-C. Wang, and L.-F. Lin, A
diagnostic study of a retreating Mei-yu front and
the accompanying low-level jet formation and
intensification. Mon. Wea. Rev., 134 (2006) 874.
[6] Qian, J.-H., W.-K. Tao, K.-M. Lau, Mechanisms
for torrential rain associated with the Mei-yu
development during SCSMEX 1998. Mon. Wea.
Rev., 132 (2004) 3.
[7] Ninomiya, K., Y. Shibagaki, Multi-scale features
of the Meiyu-Baiu front and associated
precipitation systems. J. Meteor. Soc. Japan 85
(2007) 103.
[8] Truong, N. M., T. T. Tien, R. A. Pielke Sr., C. L.
Castro, G. Leoncini, A modified Kain-Fritsch
scheme and its application for simulation of an
extreme precipitation event in Vietnam. Mon.
Wea. Rev., 137 (2009) 766.
[9] Yihui, D., J. C. L. Chan, The East Asian summer
monsoon: An overview. Meteorol. Atmos. Phys.,
89 (2005) 117.
N.M. Trường và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 244-253
253
Large-scale circulation and precipitation over Vietnam region
during the Mei-yu period: The role of the upper-level jet
Nguyen Minh Truong1, Vu Thanh Hang1, Bui Hoang Hai1,
Cong Thanh1, Le Thi Thu Ha2
1
Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU,
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
2
National Center for Hydro-Meteorological Forecasting, 4 Dang Thai Than, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
Using the NCAR-NCEP reanalysis data to simulate the Mei-yu front occurring from 10 to 14 June
2005, the Regional Atmospheric Modeling System (RAMS) model gives simulations which show that
the Mei-yu front may lead to heavy rainfall over all Vietnam region. It also appears that the
development of the front coincides with the intensification of the upper-level jet. When the upper-level
jet is artificially weakened at the western and eastern boundary regions, the amplification of the cold
trough is remarkably reduced over Japan and mesoscale disturbances are observed in the lower
troposphere, which associate with mesoscale changes in the accumulative rainfall. These demonstrate
that the upper-level jet may excite and steer the mesoscale disturbances at lower levels as suggested by
previous observational studies.
Keywords: Mei-yu front, Mei-yu precipitation, upper-level jet, mesoscale disturbances.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_thuy_van_96__8472.pdf