Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn đánh giá công việc cho giảng viên tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục đích nghiên cứu 1

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1

5. Phương pháp nghiên cứư 2

6. Kết cấu chuyên đề 2

Chương I:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐGTHCV CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG TỔ CHỨC 3

1.1. ĐGTHCV - một nội dung quan trọng của công tác Quản trị 3

1.1.1. Khái niệm, mục đích và sự cần thiết của công tác ĐGTHCV 3

1.1.1.1. Khái niệm 3

1.1.1.2. Mục đích 4

1.1.2. Sự cần thiết ĐGTHCV cho người lao động trong tổ chức 4

1.1.2.1. Lợi ích của ĐGTHCV 4

1.1.2.2. Mối quan hệ giữa ĐGTHCV với công tác Quản trị nhân lực khác 5

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả ĐGTHCV cho người lao động trong tổ chức. 9

1.2.1 .Các tiêu chuẩn đánh giá 9

1.2.1.1.Khái niệm 9

1.2.1.2. Các tiêu chí của tiêu chuẩn thực hiện công việc 10

1.2.1.3.Cơ sở xây dựng tiêu chuẩn thực hiện công việc 12

1.2.1.4.Phương pháp xây dựng tiêu chuẩn thực hiện công việc 14

1.2.1.5.Yêu cầu với hệ thống tiêu chuẩn thực hiện công việc 14

1.3 Các phương pháp ĐGTHCV 15

13.1. Phương pháp thang đo đánh giá đồ hoạ 15

1.3.2.Phương pháp danh mục kiểm tra 16

 

doc78 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn đánh giá công việc cho giảng viên tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản thân rõ ràng Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học và sau đại học gọi là giảng viên” Còn theo từ điển bách khoa Việt Nam trang 116: “ Giảng viên là tên gọi chung những người làm công tác giảng dạy ở các trường đại học cao đẳng, ở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ” Theo nghĩa chung nhất ta có thể hiểu giảng viên là người tham gia công tác giáo dục đào tạo ở bậc cao nhất của nền giáo dục nước nhà. Đối tượng của giảng viên là các sinh viên , học viên cao học, nghiên cứu sinh, những ngưòi tri thức tạo ra đội ngũ NLĐ của nền kinh tế mới - nền kinh tế tri thức. 1.6.1.2.Phân loại Theo ngạch viên chức: Căn cứ tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch công chức bậc đại học ban hành kèm theo quyết định số 538/TCCB – BCTL ngày 18/12/1995 của Ban tổ chức – Cán bộ chính phủ , được phân chia như sau: Giảng viên: là viên chức chuyên môn đảm nhiệm việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên nghành đào tạo của trường Đại học hoặc cao đẳng đó Giảng viên chính: là viên chức chuyên môn đảm nhiệm vai trò chủ chốt trong việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng và sau đại học thuộc một chuyên ngành đào tạo của trường Đại học hoặc cao đẳng Giảng viên cao cấp: là công chức chuyên môn cao nhất đảm nhiệm vai trò chủ trì, tổ chức chỉ đạo thực hiện giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học và sau đại học, chuyên trách giảng dạy về một chuyên ngành đào tạo ở trường đại học Tại các ngạch khác nhau lại đòi hỏi người giảng viên có trình độ khả năng hiểu biết cao hơn và cung với đó là nghĩa vụ mà giảng viên đó phải thực hiện cũng cao hơn. Bên cạnh đó phải xét đến thâm niên công tác của giảng viên và kết quả đóng góp trong quá trình làm việc tại trường: Để thi lên ngạch giảng viên chính thì người giảng viên cần phải có thâm niên ở ngạch giảng viên ít nhất 9 năm và phải có đề án , công trình sáng tạo được cấp khoa hoặc cấp trường công nhận Còn để thi lên ngạch giảng viên cao cấp thì người giảng viên phải có thâm niên ở ngạch giảng viên chính ít nhất 6 năm và phải có tối thiểu ba công trình hoặc đề án khoa học sáng tạo được hội đồng khoa học trường đại học hoặc ngành công nhận và đưa vào áp dụng hiệu quả Theo học vị: Hiện nay có 4 bậc học vị là Cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ và tiến sĩ khoa học Theo học hàm( chức danh) Giảng viên: có thể đạt được hai chức danh: giáo sư và phó giáo sư Việc bổ nhiệm các chức danh này được nhà nước quy định cụ thể về tiêu chuẩn cũng như quy trình bổ nhiệm Theo hình thức tuyển dụng - Giảng viên trong biên chế - Giảng viên theo hợp đồng không xác định thời hạn, thời hạn 1 năm, tập sự 1.6.1.3.Sự cần thiết hoàn thiện tiêu chuẩn ĐGTHCV cho giảng viên Giảng viên đại học có vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn lực con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay. Giảng viên là lực lượng trực tiếp tham gia mục tiêu giáo dục đào tạo, từng bước nâng cao chất lượng dân trí, phát triển nhân tài cho đất nước. Bên cạnh đó giảng viên trong trường đại học xét về chức năng cũng là người lao động như những NLĐ khác cần thực hiện công tác ĐGTHCV để nâng cao hiệu qủa làm việc cũng như thực hiện các công tác QTNL khác. Song khi xét đến dặc thù của công tác giảng dạy, đối tượng của giảng viên cũng như những tiềm năng của giảng viên có thể tạo ra trong tương lai thì việc hoàn thiện công tác ĐGTHCV nói chung cũng như tiêu chuẩn ĐGTHCV nói riêng càng được đặt ra bức thiết. Hiện nay trong các trường đại học việc xây dựng chương trình ĐGTHCV , cụ thể vấn đề em nghiên cứu ở đây là xây dựng tiêu chuẩn thực hiện công việc vẫn chưa được quan tâm đúng mức nên chưa phát huy được hết tính hiệu quả cũng như ý nghĩa của một chương trình ĐGTHCV Tiêu chuẩn thực hiện công việc hiện nay cho giảng viên được xây dựng chủ yếu các tiêu chuẩn về thực hiện giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chấp hành kỉ luật lao động. Các tiêu chuẩn được xây dựng thật sự chưa đáp ứng được các yêu cầu đối với tiêu chuẩn thực hiện công việc còn chung chung, khó đo lường. ..từ đó gây khó khăn cho việc đánh giá cũng như sử dụng kết quả đánh giá. Tóm lại , hoàn thiện tiêu chuẩn thực hiện công việc - yếu tố cơ bản của hệ thống ĐGTHCV thực sự cần thiết. Hệ thống tiêu chuẩn thực hiện công việc được xây dựng hợp lý, rõ ràng… sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của công tác ĐGTHCV cho giảng viên. Thông qua công tác này sẽ đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý của các trường đại học Chương 2 THỰC TRẠNG TIÊU CHUẨN ĐGTHCV CHO GIẢNG VIÊN TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN 2.1 Khái quát về hoạt động và những đặc thù của công tác giảng dạy trong trường ĐHKTQD 2.1.1 Khái quát chung về trường ĐHKTQD 2.1.1.1. Giới thiệu chung - Tên trường: Trường đại học Kinh tế Quốc dân - Tên giao dịch quốc tế: National Economics University - Tên viết tắt: ĐHKTQD. (tên viết tắt bằng tiếng Anh – NEU) - Bộ chủ quản: Bộ giáo dục và đào tạo - Địa chỉ trường; 207 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội - Website: - Loại hình trường: Công lập - Năm thành lập trường( theo quyết định thành lập trường) : 25/01/1956 2.1.1. 2. Sự hình thành và phát triển trường Đầu năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định mở khoá bồi dưỡng cán bộ Kinh tế - tài chính đầu tiên tại Châu Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang. Đây chính là cơ sở đầu tiên để xây dựng và phát triển trường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cho công cuộc xây dựng đất nước sau này Ngày 25-1-1956, trường Kinh tế tài chính được thành lập theo nghị định số 678/TTg và 679/TTg của Thủ tướng Chính phủ và được đặt trong hệ thống các trường Đại học nhân dân Việt Nam do thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Hiệu trưởng danh dự, ông Nguyễn Văn Tạo- Bộ trưởng Bộ Lao động làm Hiệu trưởng. Đó chính là tiền thân của Đại học Kinh tế quốc dân ngày nay. Trải qua 50 năm trường đẵ không ngừng có bước phát triển vượt bậc trở thành trương đầu ngành trong khối kinh tế - ngày 22-10-1985 theo quyết định của Bộ đại học và THCN đổi tên trường thành trường ĐHKTQD- xác định trường là trường trọng điểm quốc gia. Quá trình hình thành và phát triển của trường ĐHKTQD trải qua 4 giai đoạn với tên gọi và nhiệm vụ khác nhau. Trường Đại học kinh tế tài chính- những bước đi ban đầu ( 1956 – 1964) Đại học Kinh tế kế hoạch với sự nghiệp thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ( 1965- 1985) Đại học kinh tế quốc dân – Đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới ( 1986- 2001) Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - bước phát triển mới những năm đầu của thế kỷ 21 ( 2001- 2006) Chặng dường nửa thế kỉ trôi qua , ghi nhận sự nỗ lực của thày và trò trường ĐHKTQD thể hiện qua sự phát triển về mọi mặt . Từ một ngôi trường tại khoá đầu tiên , chỉ có 149 cán bộ công nhân viên, trong đó có 30 giảng viên với 7 bộ môn giảng dạy 950 học viên. Đến năm học 1964 -1965 số sinh viên của trường đã tăng lên 4114 người, có 8 khoa và 12 chuyên ngành với 478 CBCNV, trong đó có 208 giảng viên. Và đến ngày nay trường có 19 khoa đào tạo chuyên ngành, 2 bộ môn có đào tạo chuyên ngành, 2 khoa quản lý đào tạo và 1 trung tâm có đào tạo chuyên ngành 3 viện và một số trung tâm trực thuộc trường. Có 9 phòng ban và 7 đơn vị phục vụ và 1144 cán bộ công nhân viên. Năm học 2005 – 2006 trường có quy mô đào tạo là gần 30000 học viên Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) là một trong những hoạt động đi đầu có tính sáng tạo trong nhà trường. Đây là hoạt động được đánh giá là một trong những thế mạnh của trường. Trong giai đoạn 2001-2005, hoạt động NCKH của trường đã có bước tiến lớn mạnh cả về lượng và chất. Trung bình mỗi năm trường thực hiện khoảng 50 đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và tương đương. Hoạt động NCKH không chỉ thu hút được trên 90% giảng viên có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên tham gia mà còn có một lực lượng đông đảo sinh viên tham gia NCKH. Hàng năm có bình quân 120 báo cáo khoa học sinh viên cấp khoa, 35 sinh viên có báo cáo khoa học dự hội thảo khoa học cấp trường và được đăng trong kỷ yếu khoa học sinh viên. Hàng năm trường đều có sinh viên đạt giải thưởng NCKH cấp bộ Hoạt động Hợp tác quốc tế giúp nâng cao vị thế và uy tín của trường cả trong và ngoài nước, cả thế và lực của ta đều mạnh hơn trước. Hiện nay trường đã có quan hệ với hơn 100 trường đại học, viện nghiên cứu thuộc 30 nước và tổ chức quốc tế. Giai đoạn 2001 – 2005 trường đã cử 157 cán bộ giảng viên, đi đào tạo ở nước ngoài hầu hết theo học ở các nước tiên tiến như Anh, Australia, Nhật, Hoa Kỳ…Bên cạnh đó trường còn thực hiện 11 chương trình liên kết đào tạo quốc tế trên tổng số 20 chương trình hợp tác quốc tế Công tác xây dựng cơ sở vật chất của trường về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và học tập trong nhà trường. Những thành tích trong các hoạt động và nghiên cứu của trường trong suốt 50 năm qua đã được nhà nước ghi nhận qua nhiều phần thưởng cao quý: 4 lần nhận huân chương lao động vào các năm 1961, 1972( hạng ba), 1978 (hạng nhì), 1983 (hạng nhất). Đã ba lần trường được Nhà nước tặng thưởng Huân chương độc lập vào các năm 1986(hạng ba), 1991( hạng nhì) , 1996(hạng nhất). Đặc biệt năm 2000 Trường đã vinh dự được nhận danh hiệu “Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới” và năm 2001 là Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều bằng khen cao quý khác với các cá nhân và tập thể trong trường Trường ĐHKTQD luôn là đơn vị dẫn đầu trong khối các trường đại học về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh có chất lượng cao trong cả nước. Tập thể cán bộ , giảng viên, công nhân viên đang nỗ lực phấn đấu đến năm 2015 trở thành trường tiên tiến hiện đại ngang tầm với các trường tiên tiến trong khu vực và tiếp cận với các trường tiên tiến trên thế giới. 2.1.1.3. Đặc điểm và chức năng - nhiệm vụ của trường Đặc điểm Trường ĐHKTQD mang đặc điểm cơ bản của một đơn vị đơn vị hành chính sự nghiệp, Bộ chủ quản là Bộ giáo dục đào tạo- là trường công lập, cụ thể là Trường là đơn vị hành chính sự nghiệp nên hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà hướng tới sự phát triển xã hội. Bởi nhiệm vụ chính của trường là công tác đào tạo, thông qua đó trường tạo ra đội ngũ những NLĐ tri thức hoạt động trên lĩnh vực kinh tế góp phần phát triển đất nước. Nói đến công tác đào tạo là nói đến sự nghiệp trồng người, vì sự nghiệp phát triển con người . Hoạt động dưới sự quản lý của Bộ chủ quản là Bộ giáo dục- đào tạo. Do đó các hoạt động của trường đều thực hiện trên cơ sở quy định của BGD- ĐT. Hiện nay trường được Nhà nước công nhận là đơn vị hành chính sự nghiệp có thu nên trong các hoạt động trường được quyền tự quyết một số lĩnh vực dựa trên khả năng của trường. Trường ĐHKTQD là trường thuộc khối kinh tế , nơi đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà quản trị kinh doanh có chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế đất nước hiện nay Là trường trọng điểm đầu ngành điều này được khẳng định đồng thời với quyết định đổi tên chính thức là trường ĐHKTQD trong quyết định 1443/QĐKH ghi rõ trường ĐHKTQD là trường trọng điểm của cả nước. Hiện nay trường được nhà nước chọn là 1 trong 12 trường trọng điểm quốc gia để tập trung đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu Trường có bề dày lịch sử có thể nói là nhất của hệ thống giáo dục đại học cả nước. Trường là cái nôi của nhiều trường đại học trong khối kinh tế, đồng thời cũng là nguồn cung cấp cán bộ giảng dạy cho các trường Đại học và cao đẳng thuộc khối kinh tế Chức năng nhiệm vụ - Đào tạo - bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh bậc cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ - Nghiên cứu khoa học – kinh tế phục vụ đào tạo, hoạch định chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước, của các ngành, địa phương và hoạt động kinh doanh - Tư vấn, chuyển giao công nghệ quản lý và quản trị kinh doanh 2.1.1.4. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của trường Từ khi thành lập đến nay trường ĐHKTQD đã qua 3 lần đổi tên và 8 lần điều chỉnh về cơ cấu tổ chức Hiện nay trường ĐHKTQD được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của trường ( Sơ đồ 1) Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của trường Hiện Hiện nay trường có 21 khoa, 7 bộ môn, 4 trung tâm và 3 viện. 19 khoa đào tạo chuyên ngành, 2 khoa quản lý đào tạo là khoa quản lý đào tạo quốc tế và khoa Đại học tại chức. 2 bộ môn có đào tạo chuyên ngành la : bộ môn bảo hiểm và bộ môn kinh tế đầu tư, 1 trung tâm có dào tạo chuyên ngành là trung tâm đào tạo địa chính và kinh doanh bất động sản. Bộ phận quản lý cao nhất của nhà trường là Ban giám hiệu. Ban giám hiệu gồm có 1 hiệu trưởng và 5 phó hiệu trưởng. Hiệu trưởng - ngừơi có quyền hạn cao nhất trong trường, quản lý trường theo chế độ một thủ trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng BGD & ĐT về toàn bộ hoạt động của trường . Các phó hiệu trưởng là người giúp hiệu trưởng , thay mặt Hiệu trưởng trực tiếp điều hành các hoạt động được Hiệu trưởng giao- là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước hiệu trưởng về kết quả các mảng công việc được giao Dưới BGH là các phòng ban chức năng, các khoa và tương đương. Để thấy rõ hơn về cơ cấu tổ chức của nhà trường qua sơ đồ 2 Sơ đồ 2: Khái quát về tổ chức bộ máy của trường Hiệu trưởng 5 Hiệu phó Phòng ban chức năng (9) Khoa quản lý (2) Khoa viện, TT có cngành đào tạo (21) Bộ môn có chuyên ngành đào tạo (2) Các bộ môn thuộc khoa, viện , ttâm Bộ mônn Bộ mônn Bộ mônn Bộ mônn Bộ mônn Đơn vị phục vụ (7) Hiện nay trong toàn trường có 12 đơn vị chức năng, quản lý. Bao gồm 9 phòng ban chức năng (phòng Hành chính tổng hợp, tổ chức cán bộ , Kế hoạch- tài chính.., 2 khoa quản lý và Trung tâm đào tạo từ xa. Khối các đơn vị đào tạo có 21 đơn vị có đào tạo chuyên ngành và 7 đơn vị không có đào tạo chuyên ngành. Tại 21 đơn vị đào tạo có chuyên ngành có tổng số 50 bộ môn Khối các đơn vị nghiên cứu, tư vấn bồi dưỡng hiện có 5 đơn vị, Trung tâm đào tạo liên tục, Viện dân số và các vấn đề xã hội, Trung tâm nghiên cứu, tư vấn kinh tế và kinh doanh, Trung tâm đào tạo và phát triển quản lý, Viện quản trị kinh doanh). Ngoài ra để thực hiện tốt hơn hoạt động này trường chủ trương cho phép thành lập các trung tâm trực thuộc các khoa, đơn vị tương đương. Đến nay , trong toàn trường đã có 20 trung tâm trực thuộc khoa hoặc tương đương Khối các đơn vị phục vụ gồm có 7 đơn vị trong đó có 3 đơn vị mới đựoc thành lập ( Nhà xuất bản ĐHKTQD, Hội đồng giáo sư, Ban quản lý các dự án). Mỗi đơn vị phòng ban, đơn vị trực thuộc trường đều có chức năng riêng được quy định cụ thể tại quyết định số 1025/QĐ – TCCB ngày 2/5/2005 của Trường Cơ cấu tổ chức của trường góp phần tạo nên diện mạo mới của trường, góp phần tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của Trường. Hiện nay trường vẫn tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ cấu của nhà trường theo hướng xây dựng trường trọng điểm quốc gia, nâng cao hiệu lực , hiệu quả của bộ máy 2.1.2.Khát quát về những hoạt động giảng dạy của trường từ 2000 – 2006 2.1.2.1.Về giảng viên Khái quát về đội ngũ CBCNV Năm học 2005 – 2006, tổng số cán bộ công nhân viên của trường là 1130 người, trong đó có 647 giảng viên chiếm 57,3 % . Nguồn nhân lực của trường không chỉ tăng lên cả về số lượng mà phát triển cả về chất lượng. Cụ thể: - Số lượng CBCNV của trường có học vị Thạc sĩ và Tiến sĩ trong toàn trường đã lên tới 48.8% và đạt mức là 551 người - Về chức danh, toàn trường hiện có 24 Giáo sư và 81 phó giáo sư. Theo thống kê số giáo sư và phó giáo sư hiện có của trường bằng toàn bộ số giáo sư và phó giáo sư của các trường đại học kinh tế trong cả nước cộng lại Để xem xét cụ thể hơn về cán bộ công nhân viên của trường ta có biểu sau Biểu 1: Số liệu về CBCNV trong trường ĐHKTQD(người) Qua các năm học thì số lượng cán bộ giảng viên của trường đều tăng lên điều này cũng thể hiện một phần nào sự lớn mạnh của trường. So với năm học 2000 – 2001 thì năm học 2005 – 2006 thì số lượng CBCNV đã tăng lên 14% Xem xét tỷ lệ của giảng viên trên tổng số CBCNV của trường thì ta thấy sự biến động của tỷ lệ này là không đều. Với nhu cầu mở rộng quy mô hoạt động của trường trên tất cả các lĩnh vực , số lượng CBCNV của trường đều phải tăng lên. Song số lượng giảng viên tăng chậm hơn đó là một điều không hợp lý trong khi nhu cầu đào tạo tăng nhanh hiện nay. Năm học 2005-2006 , cho thấy cứ 100 lao động trong trường thì có gần 58 giảng viên. Theo nghiên cứu của Nguyễn Đức Chính trong cuốn “ Kiểm định chất lượng đại học” thì tỉ lệ giảng viên trên tổng số CBCNV viên quy định chung cho khối các trường Kinh tế - Tài chính – Pháp lý là 65 – 70%. So với quy định chung thì con số mà trường đạt được không phải là thấp song để đạt được yêu cầu thì trường cần hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cho hợp lý hơn cũng như tổ chức công tác tuyển dụng để đáp ứng yêu cầu hiện nay. Đội ngũ giảng viên Chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về đặc điểm của bộ phận lao động trực tiếp của trường, đó là đội ngũ giảng viên. Biểu 2: đặc điểm của đội ngũ giảng viên qua các năm học Số liệu được cung cấp tháng 3 năm 2007, thì trong tổng số 1144 cán bộ công nhân viên của trường có 638 giảng viên cơ hữu chiếm 55,8% tổng số cán bộ công nhân viên. Toàn bộ đội ngũ giảng viên của trường có trình độ từ tốt nghiệp cử nhân trở lên. Gần đây số lượng cử nhân tăng lên ( 16,2%) phản ánh thực tế trường đang tích cực trẻ hoá đội ngũ giảng viên. * Về trình độ chuyên môn: tổng số giảng viên của trường là 638 trong đó 178 tiến sĩ (28%),314 thạc sĩ ( 49%) . Tỉ lệ này là khá cao so với mặt bằng các trường trong cả nước. Theo tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường đại học thì với yêu cầu là có ít nhất 40% giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên và trên 20%GV có trình độ tiến sĩ. Với kết quả đạt được thì trường ta đã vượt không những đạt mà còn vượt yêu cầu đạt ra. Điều này thật sự là một thành tích của trường trong việc phát triển trình độ chuyên môn cho đội ngũ giảng viên. * Về chức danh: hiện nay đội ngũ giảng viên của trường có tới 13 Giáo sư, 66 phó giáo sư chiếm tới 12,4% tổng số giảng viên. Năm học 2005 – 2006 so với 2003 – 2004 thì số lượng GS và PGS tăng đến 25%. Đây là con số tương đối cao thể hiện chất lượng của đội ngũ giảng viên không chỉ trong công tác giảng dạy, mà còn thể hiện thâm niên , kinh nghiệm giảng dạy cũng như nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên * Về độ tuổi và thâm niên cho ta thấy thực tế về kinh nghiệm công tác cũng như việc trẻ hoá đội ngũ giảng viên của trường. Phần lớn giảng viên của trường hiện nay có thâm niên công tác dưới 10 năm tuổi (54,5%) và tỉ lệ này có xu hướng giảm xuống.. Tỉ lệ giảng viên có thâm niên công tác trên 15 năm hiện cũng chiếm tỉ lệ khá cao(38%). Điều này cho thấy trường đã phát triển đội ngũ kế cận đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy , áp dụng khoa học kỹ thuật hiện nay. Song những giảng viên trẻ do chưa tích luỹ được nhiều kinh nhiệm giảng dạy, cũng như kiến thức chuyên môn do đó cần học hỏi kinh nghiệm từ đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm( trên 15 năm). Tỉ lệ chênh lệch giữa hai đối tượng này là không nhiều cũng là một thuận lợi của trường * Về giới tính: trường có số lượng giảng viên là nữ giới ít hơn nam giới tuy nhiên chênh lệch là không đáng kể ( 48% và 52%). Sự khá cân bằng về giới này cũng là một thuận lợi cho các hoạt động của trường do tạo ra một môi trường làm việc hài hoà, ít phải thực hiện các chế độ làm việc của nữ hơn. Bên cạnh các mặt mạnh thì trong khối giảng viên hiện nay có nhiều hiện tượng cần khắc phục . Cụ thể số lượng giảng viên tăng song không đều giữa các bộ phận có nơi thừa, nơi thiếu giảng viên buộc phải thuê lao động ngoài hay huy động lực lượng giảng viên kiêm nhiệm Hiện nay phần lớn giảng viên thuộc biên chế của trường. Song từ tháng 7 năm 2003 chế độ biên chế không còn tồn tại nữa thay vào đó là chế độ lao động hợp đồng. Do đó số giảng viên trong biên chế ngày càng giảm và giảng viên hợp đồng ngày càng tăng Nhìn chung giảng viên hiện có chưa đáp ứng được đầy đủ và hợp lý nhu cầu nguồn nhân lực tương thích với sự tăng trưởng của quy mô đào tạo. Trong khi có đơn vị bị quá tải thì lại có đơn vị thiếu giảng viên. Phương pháp giảng dạy mới, hiện đại, tích cực cũng còn chưa được áp dụng phổ biến 2.1.2.2.Về sinh viên Trong công tác đào tạo trường chủ trương phát triển trường đa ngành đa lĩnh vực. Hiên nay các loại hình đào tạo của trường là: Hệ đào tạo đại học: Chính quy, tại chức, văn bằng hai Hệ đào tạo sau đại học: cao học ( Thạc sĩ), nghiên cứu sinh( Tiến sĩ) Hệ hoàn chỉnh kiến thức Biểu 4: Số lượng sinh viên chia theo bậc học và hệ đào tạo Qui mô đào tạo của trường tăng nhanh hàng năm. Xét về tuyết đối số lượng học viên theo học tại các hệ đào tạo đều tăng lên. Hệ chính quy không ngừng tăng song không nhiều, tăng theo chỉ tiêu tuyển sinh do BGD- ĐT quy định, bình quân mỗi năm tăng khoảng 400 người. Xét theo số tương đối trong khi học viên chính quy giảm 10.2% thì học viên hệ tại chức, bằng hai và hoàn chỉnh kiến thức tăng 10% , hệ đào tạo sau đại học tăng nhẹ 1%. Điều này cho thấy nhu cầu học tập hệ tại chức , bằng II của xã hội là rất lớn. Qui mô đào tạo tăng lên mặt khác cũng làm tăng tỉ lệ sinh viên trên một giảng viên. Biểu 5: số lượng sinh viên tính trên một giảng viên cơ hữu Trong khi lượng sinh viên tăng mạnh qua các năm học 22%, 26,4% mà lượng giảng viên lại tăng chậm 5,1%, và 5%. Điều này làm tỉ lệ sinh viên trên một giảng viên của trường khá cao gần 46 sinh viên trên một giảng viên. Tỉ lệ này là quá lớn, gây khó khăn cho công tác giảng dạy, học tập cho học viên. Lượng học viên tăng nhanh làm tăng áp lực cho người giảng viên bởi nhiệm vụ mà họ đảm nhận sẽ trở nên nặng nề vất vả hơn. Khi thực hiện các công tác quản trị nhân lực đặc biệt là ĐGTHCV cần đặc biệt chú ý vấn đề này Không chỉ lớn mạnh vế số lượng , chất lượng học tập của sinh viên cũng không ngừng tăng lên Biểu 4 : Kết quả học tập của sinh viên khi tôt nghiệp Số sinh viên khi tốt nghiệp đạt bằng khá giỏi từ năm học 2003 – 2004 dến năm học 2005 – 2006 đã tăng lên 7.7%. Không những học tập tập tốt sinh viên trường còn tích cực tham gia NCKH. Hoạt động này phát triển khá toàn diện, đồng đều và ngày càng có tác dụng tích cực cho việc nâng cao chất lượng đào tạo. Năm 2006, trương có 19 sinh viên được giải thưởng NCKH cấp bộ . Trong đó có 1 giải nhất, 1 giải nhì, 04 giải ba, 13 giải khuyến khích. Nhà trường được Bộ tặng bằng khen về đạt thành tích xuất sắc trong phong trào NCKH của sinh viên. Kết quả học tập tốt cũng như những thành tích trơng NCKH của sinh viên là một trong những thước đo quan trọng cho thấy được chất lượng hoạt động công tác của giảng viên trường ĐHKTQD 2.1.3.Đặc thù của công tác giảng dạy có ảnh hưởng đến công tác ĐGTHCV của giảng viên 2.1.3.1.So sánh đặc điểm giảng viên với các lao động trực tiếp khác Đặc điểm chung Chúng ta phải xác định rằng giảng viên trong trường đại học cũng là người lao động . Xét theo chức năng mà người giảng viên thực hiện thì giảng viên là lao động trực tiếp. Đã là người lao động thì giảng viên cũng phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và đơn vị công tác Người giảng viên cũng cần có những kiến thức, kỹ năng, trình độ, phẩm chất nhất định để thực hiện được công việc của mình. Người giảng viên cũng phải thực hiện tôt nhiệm vụ, yêu cầu công việc của mình được giao phó cũng như được tạo điều kiện thực hiện tốt công việc , đươc hưởng các quyền lợi xứng đáng. Do đó như bất kỳ NLĐ nào khác giảng viên là đối tượng chính của các hoạt động quản trị nhân lực trong nhà trường. mà một trong những hoạt động quản trị nhân sự quan trọng nhất đó là công tác ĐGTHCV. Đặc điểm riêng trong hoạt động lao động của giảng viên Như trên ta đã khẳng định, GV cũng là người lao động song cái gì đã làm cho GV thật sự khác với những lao động thông thường khác? Chính đặc thù nghề nghiệp đã tạo ra những điểm khác biệt căn bản của GV so với các lao động khác, cụ thể đó là: - Thứ nhất, Giảng viên chính là chủ thể của hoạt động giáo dục đào tạo. Hiện nay công tác giáo dục Đại học được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước . Người giảng viên lại là chủ thể của quá trình ấy, là đại biểu hầu hết cho các ngành khoa học, có nhiệm vụ đi trước một bước trong công việc chuẩn bị nhân lực cho tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Vì thế yêu cầu đặt ra với người giảng viên phỉa là người có trình độ cao, có kiến thức sâu rộng về chuyên môn và đặc biệt là cần có đạo đức tư cách tốt. Tất cả các yêu cầu này thật sự là cần thiết để người giảng viên đưng trên bục giảng làm tròn được sự nghiệp “ trồng người”. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thực hiện của giảng viên ta phải lấy các tiêu chuẩn trên làm cơ sở thì mới đảm bảo có được hệ thống ĐGTHCV thật sự hiệu quả Thứ hai, lao động của GV là lao động chất xám, tính sáng tạo cao đòi hỏi trình độ cao. Không giống như lao động đơn giản khác , việc đo lường và đánh giá chính xác những lao động mang tính sáng tạo cao gặp khó khăn hơn rất nhiều. Thứ ba, đối tượng truyền tải và giao tiếp chính là sinh viên những người có trình độ và nhận thức nhất định. Qua hoạt động của giảng viên , sinh viên - học viên không chỉ nắm được kiến thức, kỹ năng mà còn phát triển nhân cách đạo đức của mình. Chính vì đối tượng đặc biệt như vậy nên yêu cầu về trình dộ , kỹ năng phẩm chất của GV càng cao. Sinh viên - học viên sẽ cung cấp những thông tin p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36631.doc
Tài liệu liên quan