Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu Vinashin – Thực trạng và giải pháp

Lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu là một khâu quan trọng của quá trình tài sản xuất xã hội, nó làm thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm và làm thay đổi lượng hàng hoá lưu thông giữa các quốc gia. Bởi vậy, quan hệ mua bán quốc tế đã xuất hiện và trở nên quan trọng ở Việt Nam. Từ một nước nhập siêu mà chủ yếu qua con đường viện trợ thì nay Việt Nam đã vươn lên thành nước xuất khẩu và tiến tới cân bằng cán cân xuất nhập khẩu.

Sau một năm đất nước ta gia nhập WTO - Tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới. Đất nước ta đã thu được những thành tựu nhất định vế kinh tế cũng như giao lưu buôn bán giữa các nước. Viêc xuất nhập khẩu diễn ra rễ rang hơn đặc biệt là đối với Mỹ.

Qua những lý do trên khiến cho việc nghiên cứu và đẩy manh hoạt động xuất nhập khẩu là rất cần thiết ,vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài “Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu VINASHIN –Thực trạng và Giải pháp” để nghiên cứu .

 

doc81 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 6027 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu Vinashin – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộc về người xuất khẩu. Làm thủ tục hải quan : + Khai báo hải quan : chủ hàng phải kê khai chi tiết về hàng hóa lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Nội dung kê khai bao gồm : loại hàng, tên hàng, số lượng, khối lượng, giá trị hàng hóa, phương tiện vận tải, nhập khẩu với nước nào. + Xuất trình hàng hóa : hàng hóa nhập khẩu phải được xuất trình cho Hải quan để kiểm lượng, làm thủ tục hải quan và nộp thuế (nếu có). Việc kiểm tra có thể được thực hiện tại kho của hải quan, tại cảng bốc dỡ hoặc kho ngoại quan. + Thực hiện các quyết định của hải quan : chủ phải có trách nhiệm nghiêm túc thực hiện các quyết định do hải quan đưa ra, nếu vi phạm sẽ thuộc vào tội hình sự. Nhận hàng : Theo quy định của Nhà nước, cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng hóa. Do đó, nhiệm vụ của nhà kinh doanh nhập khẩu là : + Ký hợp đồng ủy thác với cơ quan vận tải về việc giao nhận hàng + Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng hóa. + Thông báo cho các đơn vị trong nước dự kiến ngày hàng về. + Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản chi phí cần thiết. + Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan giao nhận lập biên bản về hàng hóa. Kiểm tra hàng hóa : Theo quy định của Nhà nước, hàng nhập khẩu khi về qua cửa khẩu phải được các cơ quan chức năng kiểm tra kỹ lưỡng. Đây là một bước quan trọng, đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia và là cơ sở làm giấy tờ thông quan cho hàng hóa được phép vào biên giới quốc gia. Giao hàng cho đơn vị tiêu thụ : Sau khi cơ quan hải quan cho phép giải phóng hàng hóa, các doanh nghiệp phải tiến hành vận chuyển hàng hóa về nơi tiêu thụ. Yêu cầu đối với công tác này là phải tính toán xác định chính xác đầu mối giao hàng, lượng hàng dự trữ, sắp xếp kho chứa khi lập kế hoạch vận chuyển. Làm thủ tục thanh toán : Tùy thuộc vào hình thức thanh toán và thời hạn thanh toán đã được quy định trong hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành thực hiện thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại : Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mátthì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay. Hồ sơ khiếu nại phải kèm theo những giấy tờ của cơ quan chức năng xác nhận việc tổn thất hàng hóa, vận đơn, chứng từ hải quan và các chứng từ khác. Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thỏa đáng, hai bên có thể kiện lên hội đồng trọng tài (nếu có thỏa thuận trọng tài) hoặc tòa án. 2.2.4. Tổ chức tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu : Ngay sau khi tiếp nhận hàng nhập khẩu, doanh nghiệp tiến hành vặn chuyển hàng hóa về nơi tiêu thụ. Việc giải phóng hàng hóa nhanh sẽ góp phần làm giảm chi phí bảo quản, lưu kho. Doanh nghiệp dựa vào kế hoạch tiêu thụ đã đặt ra thực hiện các nghiệp vụ phân phối, bán hàng và các hoạt động marketing khác (các hoạt động quảng bá về sản phẩm phải được thực hiện trước khi đưa hàng hóa vào tiêu thụ) . Kết quả của hoạt động tiêu thụ là kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hóa. 2.2.5. Đánh giá kết quả kinh doanh nhập khẩu hàng hóa : Đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu là bước cuối cùng và quan trọng , thông qua đánh giá hiệu quả doanh nghiệp có thể tìm ra được những ưu, nhược điểm trong quá trình kinh doanh nhập khẩu và những nguyên nhân của nó, từ đó tìm biện pháp phát huy thế mạnh và hạn chế những nhược điểm. Đánh giá hiệu quả là một hoạt động tất yếu để doanh nghiệp có thể hoàn thiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp được thực hiện dựa vào các một số chỉ tiêu sau : doanh thu nhập khẩu, chi phí nhập khẩu hàng hóa, chi phí tiêu thụ hàng nhập khẩu, tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu, tỷ suất doanh thu 3. Cỏc chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu . 3.1. Cỏc hỡnh thức xuất nhập khẩu chủ yếu. Cùng với quá trình phát triển lâu dài của mình, các hình thức kinh doanh xuất khẩu ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Hầu hết các hình thức đều cố gắng khai thác tối đa những lợi thế do xuất khẩu mang lại. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế còn yếu như nước ta, các hình thức xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu còn nghèo nàn và chưa sử dụng được các nguồn lực trong nước để xuất khẩu có hiệu quả cao như các nước khác trong khu vực. Theo Nghị định 33/CP (19/ 4/ 1994) thì hoạt động xuất khẩu ở nước ta bao gồm các hình thức chủ yếu sau đây: 3.1.1- Xuất khẩu trực tiếp: Là hình thức mà nhà xuất khẩu gặp trực tiếp hoặc quan hệ trực tiếp qua điện tín để thoả thuận trực tiếp về hàng hoá, gía cả cũng như các biện pháp giao dịch với người nhập khẩu. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện, không ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn liền với việc bán. Các công việc chủ yếu của loại hình này là nhà xuất khẩu phải tìm hiểu thị trường tiếp cận khách hàng, người nhập khẩu sẽ hỏi giá và đặt hàng, nhà xuất khẩu chào giá, hai bên kết thúc quá trình hoàn giá và ký hợp đồng. 3.1.2. Xuất khẩu qua trung gian: Khác với hình thức xuất khẩu trực tiếp, trong hoạt động xuất khẩu uỷ thác tất cả mọi việc kiến lập quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu cũng như việc qui định các điều kiện mua bán phải thông qua một người thứ 3 được gọi là người nhận uỷ thác. Người nhận uỷ thác tiến hành hoạt động xuất khẩu với danh nghĩa của mình nhưng mọi chi phí đều do bên có hàng xuất khẩu, bên uỷ thác thanh toán. Về bản chất chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thù lao trả cho đại lý. 3.1.3. Buôn bán đối lưu: Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu phải kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu. Nhà xuất khẩu đồng thời là nhà nhập khẩu, mục đích để thu về hàng hoá có giá trị tương đương với hàng xuất khẩu bởi vậy nó còn gọi là phương thức đổi hàng. Trong hoạt động xuất khẩu này yêu cầu cân bằng về mặt hàng, giá cả, tổng giá trị và điều kiện giao hàng được đặc biệt chú ý. 3.1.4. Gia công quốc tế: Là phương thức kinh doanh người đặt mua gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu theo mẫu hàng và định mức trước. Người nhận gia công làm theo yêu cầu của khách, toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại toàn bộ cho người đặt gia công và để nhận tiền gia công gọi là phí gia công. Gia công quốc tế là hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất, thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu cũng chính là nơi tiêu thụ mặt hàng đó, đồng thời nó có tác dụng là xuất khẩu lao động tại chỗ, trường học về kỹ thuật và quản lý và là quá trình tích luỹ vốn cho những nước ít vốn. 3.1.5. Tạm nhập tái xuất: Tái xuất là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hoá đã được nhập khẩu nhưng chưa qua dỡ bến ở nước tái xuất. Nước xuất khẩu Nước nhập khẩu Nước tái xuất Nhiệm vụ này là nghiệp vụ giao dịch 3 bên. Hình thức chuyển khẩu là hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu không đi qua nước tái xuất. Tiền tệ Nước xuất khẩu Nước nhập khẩu Hàng hoá 3.2. Các hình thức nhập khẩu cơ bản Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của môi trường, điều kiện kinh doanh cùng với sự năng động sáng tạo của người kinh doanh đã tạo ra nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau. Có thể kể ra đây một vài hình thức nhập khẩu đang được sử dụng tại các doanh nghiệp của nước ta hiện nay. 3.2.1. Nhập khẩu trực tiếp: Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như quốc tế. Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp hoàn toàn nắm quyền chủ động và phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu từ nghiên cứu thị trường, lựa chọn bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch, đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi trả các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh và được hưởng toàn bộ phần lãi thu được cũng như phải tự chịu trách nhiệm nếu hoạt động đó thua lỗ. Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu, khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế lợi tức. Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài, còn hợp đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập. 3.2.2. Nhập khẩu uỷ thác. Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu nhưng không đủ điều kiện về khả năng tài chính, về đối tác kinh doanh... nên đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một hoa hồng gọi là phí uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp Xuất nhập khẩu (nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì đại diện của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số, không chịu thuế doanh thu. Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này (nhận uỷ thác) phải lập hai hợp đồng: - Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài - Một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác. 3.2.3. Nhập khẩu liên doanh. Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kỹ thuật một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi nếu lỗ thì cùng phải chịu. Nhập khẩu liên doanh có đặc điểm: so với tự doanh thì các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi ro bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của các bên cũng tăng theo số vốn góp, việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. Trong nhập khẩu liên doanh thì doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng: - Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài. - Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là doanh nghiệp Nhà nước). 3.3. Hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiện nay ở nước ta kinh doanh thương mại quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh: "Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến sâu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ" (Văn kiện Đại hội Đảng VIII - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 1996). Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế là một nhân tố quyết định để tham gia phân công lao động quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm. Kinh doanh thương mại quốc tế chiếm một vị trí quan trọng trong tái sản xuất xã hội. Khi sản xuất các hàng hoá để xuất khẩu, các quốc gia bỏ ra những chi phí nhất định. Các tỷ lệ trao đổi (mua bán) được hình thành trên cơ sở giá cả quốc tế. Mức giá và tương quan của nó khác với giá trong nội bộ của nước xuất khẩu. Mặt khác, sản phẩm nhập khẩu tham gia vào lưu thông hàng hoá trong nước và tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội, thực tế không tái sản xuất tại nước đó. Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách làm đa dạng hoá hoặc làm tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân và mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi đối với nước ngoài, tạo thêm tích luỹ cho quá trình tái sản xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong nước. Với đặc thù của kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động kinh doanh này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường văn hoá của các tác nhân nước ngoài. Vì vậy, khi thực hiện hoạt động kinh doanh này cần phải xem xét tổng quan các tác nhân ảnh hưởng đến nó để có các phương pháp làm việc và giải quyết công việc tối ưu, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh này ngày càng phát triển phù hợp với xu thế chung của thời đại và định hướng của Đảng và Nhà nước ta. Xét về mặt lý luận, nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế là góp phần đắc lực thúc đẩy nhanh năng suất lao động xã hội và tăng thu nhập quốc dân có thể sử dụng, qua đó tạo thêm nguồn tích luỹ cho sản xuất và nâng cao mức sống trong nước. - Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích xã hội. 3.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 3.4.1. Đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. - Lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của từng hợp đồng xuất khẩu. Lợi nhuận là tiền để duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, là điều kiện để nâng cao mức sống cho nhân viên. Lợi nhuận là toàn bộ tiền có được sau khi đã trừ đi toàn bộ chi phí có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu từ tổng doanh thu có được của hợp đồng. Công thức tính lợi nhuận như sau: P = TR - TC Trong đó: P : Lợi nhuận TR : Tổng doanh thu TC : Tổng chi phí Nếu P>0 thì hoạt động kinh doanh có hiệu quả, ngược lại nếu P<0 thì làm ăn thua lỗ, nếu P = 0 thì hoạt động hoà vốn. Khi đánh giá dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận thì phải thống kê đầy đủ các chi phí phát sinh, chi phí cơ hội và giá trị thời gian của tiền, mức lạm phát đây là yếu tố thường bị bỏ sót khi đánh giá làm kết quả đánh giá không được khách quan và chính xác. Tỷ suất lợi nhuận: Chỉ tiêu lợi nhuận cho biết hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả hay không tuy nhiên hiệu quả đến mức độ nào thì không phản ánh được. Để phản ánh mức độ hiêu quả thực tế của hợp đồng người ta dùng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Chỉ tiêu này có thể tính bằng những cách sau đây: + Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận và chi phí P' = P/TC*100% Trong đó: P' : là tỷ suất lợi nhuận Chỉ tiêu này nói lên tỷ lệ phần trăm lãi so với tổng chi phí của doanh nghiệp sau khi thực hiện hợp đồng. Chỉ tiêu này thường được so sánh với lãi suất ngân hàng hoặc một số chỉ tiêu khác. + Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và doanh thu: P' = P/TR*100% Tỷ suất lợi nhuận ở đây được sử dụng để đánh giá hiệu quả của doanh thu hay trong 100 đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận. + Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và tổng vốn Dùng để đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh. Hay còn gọi là khả năng sinh lời. P' = P/V*100% + Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu: là tỷ lệ giữa chi phí bằng đồng bản tệ trên doanh thu tính bằng đồng ngoại tệ. Thông thường chỉ tiêu này được tính trước khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, để biết được hợp đồng có hiệu quả hay không. Nhưng sau khi kết thúc hợp đồng thì người ta chỉ tính lại để biết được hiệu quả thực tế của hợp đồng. Chỉ tiêu này còn được dùng để lựa chọn hợp đồng tối ưu khi có nhiều hợp đồng bằng cách so sánh cùng chỉ tiêu giữa các hợp đồng. 3.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Để đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu của mình, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sử dụng các chỉ tiêu sau đây: + Chỉ tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Chỉ tiêu lợi nhuận là sự so sánh giữa tổng doanh thu mà doanh nghiệp thu được với tổng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra. Đây là chỉ tiêu quan trọng, dựa vào chỉ tiêu này doanh nghiệp biết hoạt động kinh doanh của mình có lãi hay không. +Chỉ tiêu tỉ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu. (Knk ) Knk là tỉ suất ngoại tệ đối với hàng hoá nhập khẩu, là tổng số đồng nội tệ có thể thu được khi bỏ ra một đồng ngoại tệ. P là giá cả hàng hoá ở trong nước tính bằng nội tệ. Q là khối lượng lô hàng nhập khẩu Tn là số ngoại tệ phải chi ra để nhập khẩu lô hàng Nếu tỷ suất này mà cao hơn tỉ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ thì việc nhập khẩu của doanh nghiệp là có lãi và ngược lại. Hay nói cách khác hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả khi P/Knk < R . R là tỉ giá hối đoái giữa đồng ngoại tệ với đồng nội tệ. + Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp: H = Xxk Fxk + Nnk C H là hiệu quả tổng hợp của một doanh nghiệp kinh doanh XNK Xxk là chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu Fxk là chi phí đầy đủ trong nước đối với xuất khẩu (qui ra ngoại tệ) Nnk là chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu. C là chi phí bằng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá Một doanh nghiệp kinh doanh XNK hai chiều có thể không có lãi ở nhập khẩu hoặc ngược lại, miễn sao H > 0 thì kết quả hoạt động kinh doanh XNK có lãi. + Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của nhập khẩu. (Hn) Hn là hiệu quả nhập khẩu Cs là chi phí sản xuất sản phẩm nhập khẩu hoặc sản xuất sản phẩm để thay thế nhập khẩu (theo giá nội địa). Cn là tổng chi phí ngoại tệ cho việc nhập khẩu (theo giá quốc tế) 3.4.3. Các chỉ tiêu định tính. Việc thực hiện một hợp đồng xuất nhập khẩu không phải chỉ là để thu lợi nhuận mà còn nhằm thực hiện nhiều mục tiêu khác nữa như: mở rộng thị trường, định vị sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh Có nhiều lúc ta cần phải biết chấp nhận thua lỗ để đạt được mục tiêu khác mà trong thời điểm đó đang là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu. Có khá nhiều mục tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp như: - Uy tín của doanh nghiệp: điều này thể hiện sự yêu thích sản phẩm doanh nghiệp của khách hàng hay sự tín nhiệm của khách hàng đối với sản phẩm. - Khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường: điều này nói lên rằng trong thị trường hiện tại doanh nghiệp có tỷ phần bao nhiêu, có khả năng mở rộng thị trường hay không, khả năng khai thác thị trường đến đâu Tóm lại, đánh giá hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp là một công việc quan trọng đối với doanh nghiệp sau khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Qua đó cho ta thấy được những mặt làm được và những mặt chưa làm được để rồi rút ra những yếu điểm của mình và tìm cách khắc phục đồng thời phát huy thế mạnh của mình. Việc này đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện, và chính xác. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. 4.1. Nhân tố khách quan . C¸c nhân tố bªn ngoµi doanh nghiÖp lµ nh÷ng yÕu tè thuéc vÒ m«i tr­êng kinh doanh, luËt ph¸p. §©y lµ nhãm yÕu tè kh¸ch quan, lµ nh÷ng yÕu tè mµ doanh nghiÖp buéc ph¶i tu©n theo quy luËt vµ lµm cho m×nh phï hîp víi nã. §èi víi c¸c doanh nghiÖp kinh doanh nhËp khÈu hµng hãa th× c¸c yÕu tè nµy bao gåm : 4.1.1. Các chế độ chính sách luật pháp trong nước và quốc tế: Đây là những vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm vững và tuân theo một cách vô điều kiện. Vì nó thể hiện ý chí của Đảng lãnh đạo mỗi nước, sự thống nhất chung của Quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã hội, lợi ích của các nước trên thương trường Quốc tế. Hoạt động xuất nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể các Quốc gia khác nhau. Bởi vậy, nó chịu sự tác động của các chính sách, chế độ, luật pháp của các quốc gia đó. Chẳng hạn như tự sửa đổi thực hiện, sửa đổi luật pháp quốc gia hay sự thực hiện thay đổi chính sách thuế ưu đãi của một nước hay một nhóm nước, điều đó không những chỉ ảnh hưởng đến nước đó mà còn ảnh hưởng đến các nước có quan hệ kinh tế xã hội với những nước đó. Đồng thời, hoạt động xuất nhập khẩu phải nhất định tuân theo những quy định luật pháp Quốc tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động của mình trong hoạt động xuất nhập khẩu, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này. 4.1.2. Tỷ giá hối đoái. Nhân tố này có ý nghĩa quyết định trong việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây ra những biến động lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Ví dụ khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán có lợi cho việc nhập khẩu thì lại bất lợi cho xuất khẩu và ngược lại. Mặt khác có rất nhiều loại tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái thả nổi, tỷ giá hối đoái thả nổi tự do và tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Vì vậy khi tiến hành bất cứ một hoạt động thương mại xuất nhập khẩu nào, doanh nghiệp cũng cần nắm vững xem hiện nay quốc gia mà mình định hoạt động đang áp dụng loại tỷ giá nào, bởi việc ấn định này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh hàng nhập khẩu. 4.1.3. Sự biến động thị trường trong nước và nước ngoài. Có thể hình dung hoạt động xuất nhập khẩu như một chiếc cầu nối thông thương giữa hai thị trường: đầu cầu bên này là thị trường trong nước, đầu cầu bên kia là thị trường ngoài nước. Nó tạo sự phù hợp gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị trường, cụ thể như sự tôn trọng giá, giảm nhu cầu về một mặt hàng nào đó trong nước sẽ làm giảm lượng hàng hoá đó chuyển qua chiếc cầu nhập khẩu và ngược lại. Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu trên thị trường trong nước. Sự biến đổi của nó về khả năng cung cấp, về sự đa dạng của hàng hoá, dịch vụ cũng được phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác dụng đến thị trường nhập khẩu. 4.1.4. Nền sản xuất cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp Thương mại trong và ngoài nước. Sự phát triển sản xuất của những doanh nghiệp trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm nhập khẩu từ đó làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu. Còn nếu như sản xuất kém phát triển không sản xuất được những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao thì nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên là điều tất nhiên và do đó nó ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng của sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm mới thuận tiện, hiện đại, sẽ hấp dẫn nhu cầu nhập khẩu đẩy nó lên cao tạo đà cho hoạt động nhập khẩu phát triển. Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động bị thu hẹp, mà nhiều khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh, hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển. Tương tự như vậy, để bảo vệ quyền sản xuất trong nước, khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu càng bị thu hẹp và kiểm soát gắt gao. Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động Thương mại trong và ngoài nước, sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh Thương mại quyết định đến sự chu chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kỹ thuật hay giữa các nền kinh tế. Chính vì vậy, nó tạo thuận lợi cho công tác nhập khẩu. Mặt khác do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sự phát triển của doanh nghiệp này đồng nghĩa với việc thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp Thương mại không được tự chủ phát triển, chịu sự can thiệp quá sâu của Nhà nước thì hoạt động xuất nhập khẩu cũng không thể phát huy thế chủ động, tinh thần sáng tạo không thể vươn mạnh ra nước ngoài từ đó tạo ra sự bí bách trong nền kinh tế. 4.1.5. Hệ thống tài chính ngân hàng. Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, nó can thiệp sâu tới tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù tồn tại dưới hình thức nào, thuộc thành phần kinh tế nào. Có được điều đó là bởi nó đóng vai trò hết sức to lớn trong hoạt động quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, chính xác, nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ không thực hiện được nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng, dựa trên các thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu cũng như xuất khẩu , đảm bảo cho họ về mặt lợi ích kỹ thuật cũng như

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1865.doc
Tài liệu liên quan