LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ 2
PHẦN II :GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4
CHƯƠNG I: Các nguồn vốn trong nền kinh tế thi trường và các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế. 4
I Khái niệm, vai trò của vốn và nguồn vốn. 4
2.Vai trò của vốn trong nền kinh tế 4
3 .Phân loại nguồn vốn 5
3.1Nguồn vốn Nhà Nước 5
II Các nguồn vốn từ trong nước 6
1. Nguồn vốn Nhà nước 6
1.1 Ngân sách Nhà nước 6
1.2 Vốn trong các DNNN và vốn tài sản công, tài sản quốc gia . 9
2 .Nguồn vốn trong dân cư 9
3 .Nguồn vốn sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn . 10
III. Các nguồn vốn từ nước ngoài 11
1. Nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODF). 11
2.Nguồn vay tư nhân . 15
3, Đầu tư nước ngoài trực tiếp 17
IV .Công cụ để huy động các nguồn vốn 23
1. Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian. 23
2. Thị trường vốn . 25
3. Thị trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc . 25
4. Các dự án đầu tư. 25
5. Vay nợ và xin viện trợ. 26
6. Các hợp đồng trả trước. 26
7. Việc thuê tài chính. 26
CHƯƠNG II: CÁC NGUỒN VỐN ĐÃ ĐƯỢC KHAI THÁC Ở VIỆT NAM 28
I. Các công cụ huy động vốn đã được sử dụng ở Việt Nam. 28
I. Tình hình huy động vốn nước ta hiện nay 30
1. Nguồn vốn Nhà nước. 30
2. Nguồn vốn trong dân cư. 33
3. Nguồn vốn ODẠ 35
4. Nguồn vốn FDỊ 39
III. Những trở ngại cần khắc phục trong việc huy động vốn ở nước tạ 44
1. Về hệ thống luật pháp. 44
2. Về hoạt động của hệ thống ngân hàng. 45
3. Về hoạt động cảu thị trường chứng khóan. 46
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG TRONG VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN Ở NƯỚC TA 48
I. Dự báo nguồn vốn đóng vai trò chủ đạo trong nền thị trường nước ta giai đoạn tớị 48
II. Các biện pháp nhằm huy động có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 49
III. Những lưu ý về việc huy động các nguồn vốn cho nền kinh tế ở nước ta trong quá trình hội nhập. 54
KẾT LUẬN 57
60 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1606 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i sản xuất ra với giá cao hơn .Việc tính giá cao hơn xảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin, trình độ kiểm soát, quản lý .chuyên môn yếu, hoặc do chính sách của Nhà nước đó còn nhiều khe hở
Ba là: các nhà đầu tư thường bị buộc tội là đã chuyển giao công nghệ kỹ thuật lạc hậu vào nước họ đầu tư .
Do sự phát triển như vũ bão của KHCN nên máy móc thiết bị sẽ bị lạc hậu nhanh chóng .Các nhà đầu tư muốn thay công nghệ lạc hậu đó bằng những công nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao để hạ giá thành .Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư và đây vẫn đang là vấn đề nan giải cho các nước đang phát triển .
Tuy nhiên mặt trái này cũng phụ thuộc một phần vào chính sách công nghệ, pháp luật bảo vệ môi trường và khả năng tiếp nhận công nghệ của nước nhận đầu tư
Bốn là sản xuất ra hàng hoá không thích hợp .Các nhà đầu tư còn bị chỉ trích là sản xuất và bán những hàng hóa không thích hợp, thậm chí đôi khi lại là những hàng hoá có hại cho sức khoẻ con người và gây ô nhiễm môi trường .VD thuốc lá thuốc trừ sâu ...
Năm là những mặt trái khác.
Trong số các nhà đầu tư, không phải không có hoạt động tình báo an ninh chính trị .
Mục đích của nhà đầu tư là kiếm lời nên họ chỉ đầu tư vào những nơi có lợi nhất .Vì thế nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm ra tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị .Sự mất cân đối này có thể gây ra những rối loạn về chính trị .
Hay FDI cũng có thể gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội .Những người dân bản xứ có thể bị mua chuộc làm thuê cho các nhà đầu tư biến chất, thay đổi quan điểm, lối sống, nguy hiểm hơn là có thể phản bội tổ quốc .
Như vậy Nhà nứoc cần có những chính sách thích hợp, có những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của FDI .
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn nước ngoài có khả năng khai thác cao nhất .Nhịp độ thu hút FDI có xu hướng tăng lên kể cả về số dự án và số đăng ký từ năm 88 đến nay .Việt Nam là một nươc có nền chính trị ổn định, trình độ dân trí cao, dân số đông, lao độn thì khá rẻ ...đó là những lợi thế góp phần tăng khả năng thu hút FDI cho nền kinh tế.
FDI là nguồn vốn do phía nước ngoàI bỏ vốn vào nước ta để kinh doanh. Do đó, để huy động được tốt nguồn vốn này, chúng ta có thể hy sinh một số lợi ích trước mắt( như giảm thuế, cho các công ty nước ngoàI hưởng một số ưu đãI, …) để tạo sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, một môI trường đầu tư sáng sủa với những đIều kiện như: hành lang pháp lý thông thoáng; thủ tục hành chính đơn giản gọn nhẹ; cơ sở hạ tầng hiện đại; các dịch vụ đáp ứng kịp thời; lao động đủ khả năng làm việc dưới áp lực cao, giá cả vừa phảI; thị trường trong nước khả quan;… Đó mới là nhân tố quan trọng nhất tác động tới khả năng huy động tốt nguồn vốn này.
IV .Công cụ để huy động các nguồn vốn
Công cụ huy động vốn là một yếu tố rất quan trọng nhằm giúp cho việc huy động vốn thành công và có hệu quả cao .Việc sử dụng các công cụ này một các linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh trong nước, với xu thế phát triển là một vấn đề rất quan trọng .Dưới đây là một số công cụ chủ yếu để huy động các nguồn vón trong nền kinh tế .
Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian.
Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian bao gồm :hệ thống các NHTM, NH đầu tư phát triển, các công ty tài chính, các hợp tác xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, ...
Các tổ chức tài chính trung gian chuyên làm nhiệm vụ vay trả và các nghiệp vụ môi giới giao dịch vốn
Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian ở nước ta mới được chú ý hoàn thiện trong những năm gần đây .Do đó cả về số lượng loại hình, công nghệ phục vụ của chúng ta đã lạc hậu so với thế giới hàng chục năm .Điều nay gây ra nhiều khó khăn thiệt hại đối với nền kinh tế do không thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển và do sự phát sinh tự phát của các hoạt động tài chính không chính thức (với các hình thức cho vay nặng lãi, chơi phường chơi họ ) ...
Nhà nước cần phải phát triển đa dạng hệ thống các NHTM, các công ty tài chính, các HTX tín dụng làm nhiệm vụ thu hút vốn từ tất cả các tầng lớp dân cư, các tổ chức xã hội, các DN để cung ứng cho sản xuất .mặt khác cần thực hiện một chính sách hợp lý và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức thu hút và cung ứng vốn, đảm bảo giá trị tiền gửi của người có tiền, hạn chế rủi ro, tăng cường chữ tín trong xã hội và trong nhân dân cần phải đổi mới hơn nữa công nghệ phục vụ của các tài chính trung gian, nhằm mục đích phục vụ nhanh gọn và kịp thời các yêu cầu về mua, bán chéng khoán, ngoại tệ, về thanh toán chuyển nhượng các giấy tờ có giá và các hợp đồng mua bán
Trung tâm của hệ thống các tổ chức tài chính trung gian là hệ thống các hệ thống các NHTM .NHTM là một tổ chức tín dụng, kinh doanh tiền tệ và tín dụng .Hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng, cho vay làm nhiệm vụ triết khấu và thanh toán .Chức năng chủ yếu của NHTM là làm chứcnăng tổ chức trung gian tín dụng để huy động vốn nhàn rỗi, đồng thời cung cấp vốn cho các chủ thể .
Hiện nay ở nước ta chủ yếu là NHTM NN và NHTM CP .Đặc điểm của người Việt Nam là chưa có thói quen đầu tư mà thường dùng tiết kiệm của mình để mua các tài sản có giá như vàng bạc đá quý đồ cổ ... do đó NHTM cần tạo được lòng tin trong dân chứng để thu hút họ gửi tiền vào tiết kiệm.
2. Thị trường vốn .
Thị trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc .
Đây là hình thức huy động vốn cho NSNN rất mới mẻ ở nước tạ Thị trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc chính thức được khai trương và đi vào hoạt động ở nước ta từ tháng 61995. Hình thức này được thực hiện bằng cách phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc theo phương thức đấu thầu qua NHNN.
Hình thức huy động vốn này có lãi suất và chi phí huy động thấp, đáp ứng kịp thời vốn cho chi tiêu của NSNN cho các dự án phát triển ở trung ương và địa phương. Tuy mới ra đời được 6 năm, nhưng số thành viên tham gia vào thị trường này ngày một tăng và trong tương lai nó có thể phát huy được khả năng vốn có.
Các dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đạt được những kết qủa nhất định và xác định mục tiêu trong tương lai lâu dàị
Trên cơ sở thực trạng nền kinh tế xã hội trong nước và những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tương lai, Nhà nước lập ra các dự án nhằm đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế xã hội như:
Các dự án về nâng cấp cơ sở hạ tầng.
Các dự án về xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất.
Các dự án về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
.........
Từ đó để thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước.
Vay nợ và xin viện trợ.
Hiện nay Việt Nam là một trong những nước nghèo nhát thế giới, do đó xin viện trợ của một số nước và tổ chức trên thế giớị Tuy nhiên, hình thức này ngày càng khó khăn và trong tương lai nó sẽ không được tính đến.
Nhà nước có thể vay nợ từ hai nguồn: trong và ngoài nước.
Vay nợ trong nước bằng cách phát hành công trái, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc.
Vay nợ nước ngoài có thể thông qua ODA hoặc vay các NHTM nước ngoài, vay tư nhân. Hình thức này làm phát sinh nợ, mặt khác nó chịu các sức ép đòi hỏi Nhà nước phải cân nhắc trước khi vaỵ
Các hợp đồng trả trước.
Đây là một phương pháp bán trước, sản xuất saụ Cách này thường đưọc các doanh nghiệp sử dụng để huy động vốn.
Việc thuê tài chính.
Đây là hình thức huy động vốn được các nước phát triển sử dụng từ lâu và có hiệu quả khá tốt, ít xảy ra rủi ro, phạm vi tài trợ rộng rảị Tuy nhiên ở nước ta hình thức này chưa phổ biến. Việc huy động vốn thông qua thuê tài chính là một hình thức nên làm ở các nước đang phát triển, nhằm thay đổi công nghệ, phục vụ cho phát triển kinh tế trong điều kiện ít vốn.
CHƯƠNG II
CÁC NGUỒN VỐN ĐÃ ĐƯỢC KHAI THÁC Ở VIỆT NAM
Các công cụ huy động vốn đã được sử dụng ở Việt Nam.
Sau nhiều năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, công cụ huy động vốn ở nước ta ngày càng phong phú đa dạng. Ngoài công cụ truyền thống: phát hành công trái, vay trong nước thông qua hệ thống ngân hàng, vay nước ngoài, gọi đầu tư,...Hiện nay còn có những công cụ mới mẽ như: thị trường vốn, thuê tài chính...các hình thức này hiện nay chưa phát huy được hết tác dụng nhưng nó có triển vọng lớn trong tương laị
Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian không ngừng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn thời gian vừa qua và sắp tớị Hệ thống các NHTM đưọc mở rộng dưới nhiều hình thức: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, NHTM liên doanh...
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam giữ vững nhịp độ tăng trưởng. Năm 2000, tổng tài sản tăng 21%, nguồn vốn huy động tăng 35% và đổi mới, mở rộng, nâng cao sức cạnh tranh.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn: tổng nguồn vốn kinh doanh tăng 41%, tổng dự nợ tăng 36%. Trong năm 2000 đã tiếp nhận 42 dự án nước ngoài với tổng số vốn là 1210 triệu $ đến nay ngân hàng nông nghiệp đã thực hiện được 20 sản phẩm dịch vụ mớị Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam là ngân hàng chủ lực trong huy động vốn và cho vay tín dụng đối với các doanh ngiệp, tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Công cụ thu hút vốn bằng các dự án đầu tư đã và đang được sử dụng phổ biến và mang lại hiệu quả. Nó đã huy động được vốn từ khu vực tư nhân trong nước và đặc biệt là khu vực nước ngoàị Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tới nay đã có hơn 3260 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp giấy phép ở Việt Nam với tổng số vốn là 44 tỷ $. Đây là công cụ huy động vốn rất quan trọng hiện naỵ
Công cụ huy động vốn thông qua vay nợ và xin viện trợ đã được sử dụng và thu được nhiều kết quả trong những năm qua (viện trợ của các tổ chức phi chính phủ NGOs, của Liên Xô cũ...). công cụ này hiện nay khó sự hơn do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn. Công cụ này được dùng để huy động ODA-nguồn vốn rất quan trọng cho phát triển kinh tế.
Thị trường đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc là một công cụ huy động vốn rất mới mẽ ở nước tạ Từ khi nó bắt đầu sử dụng ở nước ta tháng 6/1995 tới cuối tháng 9/2000, ban đấu thầu liên bộ NHNN-Bộ Tài chính chức 184 đợt đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc qua NHNN trong đó có 39 đợt đấu thầu tín phiếu kho bạc (thời hạn dưới 1 năm) và 145 đợt đấu thầu tín phiếu kho bạc (thời hạn 1 năm). Tổng khối lượng tín phiếu, trái phiếu đã phát hành qua trị trường này là 15282,8 tỷ đồng. Công cụ này ngày càng thu hút đưọc nhiều thành viên tham gia và thông qua nó ngày càng huy động được nhiều vốn.
Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khóan được thành lập và đi vào hoạt động ngày 20/7/2000. Đến nay trên thị trường chứng khoán chính thức có 6 loại cổ phiếu được niêm yết. Ngoài ra thị trường chứng khoán phi chính thức (OTC) hoạt động khá sôi động. Công cụ thị trường vốn là công cụ quan trọng và bậc nhất để huy động kịp thời các nguòn vốn cho nền kinh tế đối với một đất nước muốn phát triển. Tuy nhiên công cụ này ở nước ta hiện nay chưa phát huy được vai trò của nó trong việc huy động các nguồn vốn.
Ngoài ra, các công cụ còn lại cũng đã xuất hiện ở nước tạ Tuy nhiên vai trò của nó rất mờ nhạt.
I. T×nh h×nh huy động vốn nước ta hiện nay
Trong hơn 10 năm nền kinh tế chuyển đổi sanh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước liên tục có những chính sách cải cách kinh tế cho phù hợp với tình hình mới của sự phát triển kinh tế. Theo đó các chính sách về huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường đã đạt nhiều kết quả tốt.
Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2001, cả nước đã thu hút được hơn 973 triệu $ (thông qua 97 dự án) , gấp 3 lần cùng kỳ năm trước, tăng 13% về lượng dự án và 68% về mức vốn so với 6 tháng đầu năm 2000. Đây là mức tăng trưởng khá, đặc biệt là đang trong giai đoạn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như trong nước gặp rất nhiều trở ngạị Vốn đầu tư từ Nhật và Mỹ vươn lên đứng thứ 2 và 4 với số vốn: 86,4 triệu $ và 54,6 triệu $ con số này một phần phản ánh được sự chuyển động của dòng vốn trước kia chảy mạnh vào Mỹ và Nhật nay đổi hướng vào các nước có tình hình chính trị ổn định hơn trong đó có Việt Nam.
Bất chấp tình trạng thiểu phát kéo dài, vốn nhàn rỗi trong dân cư được khai thác tốt là dấu hiệu phản ứng tính tích cực của luật doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Chỉ trong vòng một năm rưỡi kể từ tháng 6/2001 trở lại, tổng số vốn đầu tư tư nhân đã lên tới 2 tỷ $ gấp 5 lần cả năm 1999.
Dưới đây là tình hình huy động từng nguồn vốn cụ th
1. Nguồn vốn Nhà nước.
Trong những năm gần đây, quy mô NSNN không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau, nhưng chủ yếu qua thuế và phí (chiếm khoảng 95%) tỷ lệ động viên GDP vào NSNN đã tăng trung bình từ 13,1% GDP trong thời kỳ 1986-1990 lên 20,5%GDP thời kỳ 1991-1995, và hiện nay khoảng 22% GDP. Đồng thời tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển (chủ yếu là đầu tư phát triển cở sở hạ tầng kinh tế xã hội và phát triển nông lâm nghiệp) trong tổng chi NSNN Nhà nước hàng năm cũng gia tăng đáng kể, từ mức 2,3% GDP năm 1991 lên 6,1% GDP năm 1996 (nếu kể cả mức khấu hao cơ bản là 7,9% GDP) .
Tình hình thu-chi và bọi chi NSNN tính theo % của GDP được thể hiện ở bảng sau:
91
92
93
94
95
96
97
98
99
00
Tốc độ tăng trưởng KT %
6
8,6
8,1
8,8
9,5
9,3
8,2
5,8
4,8
6,7
Thu NSNN
13,1
19,0
23,6
23,2
23,3
23,1
21,6
20,5
18,3
18,0
Chi NSNN
15,5
21,4
28,8
27,9
27,5
26,2
26,8
23,6
23,2
22,9
Bội chi NSNN
2,4
2,4
5,2
4,7
4,2
3,1
4,2
3,1
4,9
4,9
Bình quân 10 năm tỷ suất thu NSNN so với GDP đạt 20,2%. Những năm cuối thế kỷ quy mô NSNN đã tăng khoảng 2,6-2,9 lần so với năm 1991. Nếu xét số tuyệt đối, xét theo giá hiện hành thì thu NSNN năm 2000 đã tăng gấp 7,7 lần so với năm 1991. Trong đó số thu từ thuế và phí ngày một tăng.
Chi NSNN khá thất thường trong những năm đầu thập niên 90. Năm 90, tổng chi NSNN chiếm 20% GDP, năm 1991 xuống còn 15,5%. Sau đó tăng đột ngột lên 28,8% năm 1993 và từ năm 1994 thì chi NSNN so với GDP liên tục giảm. Bình quan cả thập niên từ 1991-2000 mức chi NSNN đã đạt 24,1% GDP, tăng mạnh so với mức bình quan 19,7% giai đoạn 1986-1990.
Thâm hụt NSNN là trung bình trong các năm. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc thâm hụt NSNN là khó tránh khỏi, do Nhà nước phải đầu tư một lượng vốn lớn vào xây dựng cơ bản. Ngoài ra NSNN còn phải tập trung đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, khắc phục hậu quả của thiên tai, tăng vốn cho các công trình mục tiêu quốc gia nhất là chương trình xóa đói giảm nghèọ
Tổng giá trị tài sản doanh nghiệp Nhà nước hiện có trên 527000 tỷ đồng. Tài sản cố định theo nguyên giá có trên 218700 tỷ đồng đã hao mòn 43%. Vốn lưu động chỉ đáp ứng được 15-20% nhu cầu, mà nhu cầu lên tới 50000-70000 nghìn tỷ đồng trong khi ngân sách chỉ có thể đảm bảo cấn đối được vài trăm tỷ đồng. Trong 10 năm qua NSNN đã đầu tư thêm cho DNNN 41535 tỷ nhưng công nợ của DNNN đã bằng 160% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Trong tổng số DNNN, số doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ chiếm 71,9%, số bị lỗ khoảng 19-20%. Các tỉnh có tỷ trọng thua lỗ cao như: Nam Định 46%, Thái Bình 35%, Hà Nam 33%, Hải Phòng 21%, Bà Rịa-Vũng Tàu 21%. Việc các DNNN làm ăn kém hiệu quả như hiện nay gây ra nhiều khó khăn cho việc tạo vốn mớị Ngoài việc Nhà nước không thu được phần lợi nhuận bằng tiền do công ty làm ra, Nhà nước còn phải bù lỗ cho các DNNN làm ăn thua lỗ nàỵ
Giải quyết tình trạng thiếu vốn và hiệu quả thấp của các DNNN cần phải có giải pháp ở cả 3 phía: doanh nghiệp-Nhà nước-ngân hàng.
Nhà nước cần phải nhanh chóng sắp xếp lại và đổi mới đối với DNNN, sắp xếp về số lượng, quan trọng hơn là đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, khắc phục những hạn chế, khó khăn, trước hết là tình trạng thiếu vốn và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn. Nhà nước cũng cần phải quản lý chặt chẽ hơn nữa các DNNN để tránh hiện tượng báo cáo khống; hiện tượng tham nhũng, vô trách nhiệm của các cán bộ quản lý.
Nguồn tài sản công ước khoảng 750000 tỷ đồng ở dạng tiềm năng là tài sản Nhà nước do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng, đoàn thể quản lý. Chỉ tính 1599 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấp phép mà phía Việt Nam dùng giá trị tiền thuê đất đã được 4 tỷ $. Nếu thu tiền sử dụng đất đối với 645205 ha đất nông nghiệp và 63402 ha đất đo thị mà Nhà nước đang nắm giữ sẽ thu được khoảng 30000 tỷ đồng/năm. Hàng năm việc khai thác các tài nguyên trên mặt đất, dưới lòng đất và trên mặt đất đã đem lại một tài sản lớn cho quốc giạ
2. Nguồn vốn trong dân cư.
Đây là một nguồn vốn lớn đầy tiềm năng. Hiện nay nguồn vốn còn nhàn rỗi còn nhiều trong dân cư chưa được phát huỵ Theo dự tính nguồn vốn tồn đọng trong dân cư còn khoản 6 tỷ $. Nếu khai thông được nguồn vốn này thì nó sẽ đem lại một lượng vốn cho nền kinh tế.
Việc huy động vốn trong dân đã đạt được khá nhiều kết quả. Số các doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng mức nộp ngân sách và thu nhập lao động khá caọ Năm 1991 có 123 doanh nghiệp với tổng số vốn điều lệ là 69 tỷ đồng. Năm 1996 đã tăng lên 26091 doanh nghiệp và 8257 tỷ đồng, tương đương với 14% tổng số vốn điều lệ của các DNNN. Tuy nhiên, về quy mô các doanh nghiệp này còn nhỏ, công nghệ lac hậu, hầu như không liên doanh liên kết với nhaụ 50% số doanh nghiệp không mở rộng đầu tư, chỉ có 36% tăng vốn điều lệ lên 1-2 lần và 5% tăng lên 2 lần. Ngoài ra còn kể tới 10 triệu hộ nông dân và 2 triệu hộ cá thể sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh thương mại và dịch vụ trên cả nước. Tất cả đều ở tình trạng vốn nhỏ, công nghệ lạc hậu hơn các doanh nghiệp nói trên. Còn các hợp tác xã thì vốn cố định trung bình chiếm tới 80% số vốn hiện có trong đó 60% là nhà xưởng, 20% là thiết bị, tất cả đều cũ nát, lạc hậụ Nhiều hợp tác xã vẫn ở tình trạng nằm chờ chính sách giữ nhà xưởng.
Trong 6 tháng đầu năm 2001, tình hình huy động vốn trong dân cư có nhiều dấu hiệu khả quan bất chấp tình trạng thiếu phát kéo dàị Đây là dấu hiệu phản ứng tích cực của lụat danh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Nguồn vốn trong dân hiện nay có thể được huy động như sau:
Các doanh nghiệp tự đầu tư bao gồm cả DNNN và DN dân doanh. Từ khi Nhà nước đưa ra chính sách đầu tư tư nhân đến nay, số DN tư nhân tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước chủ yếu là kinh tế nông nghiệp nên cần tạo ra những làng nghề đặc trưng, đồng thời phải iếp tục đẩy mạnh việc khuyến khích phát triển kinh tế trang trạị Tất cả những điều đó đều thúc đẩy người dân đầu tư vào sản xuất một cách mạnh dạn do độ rủi ro thấp.
Huy động vốn từ chính các đối tượng chịu tác động tích cực của chính sách. Nguồn này được huy động để thực hiện các dự án theo các phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Theo phươn thức này cần phải xác định rõ các đối tượng nằm trong vùng ảnh hưởng ngoại biện tích cực của dự án.
Nợ trong nước là nguồn vay tín dụng của các ngân hàng, nguòn vốn này có liên quan tới việc huy động nhân dân gửi tiền tiết kiệm, mua các loại trái phiếu Chính phủ. Hình thức này được thực hiện bởi hệ thống ngân hàng thương mại rộng khắp trên đất nước.
Nguồn vốn ODẠ
Ở Việt Nam, nguòn vốn ODA đã có mặt từ rất lâu, song nguồn vốn này có một thời gian bị gián đoạn đó là từ khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cho đến cuối năm 1993 với việc bình thường hóa quan hệ với ngân hàng thế giới (WB) và ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Các nguồn vốn ODA chuyển vào Việt Nam có triển vọng tăng nhanh. Tính từ năm 1993 tới hết tháng 12/1999 tổng số vốn ODA cam kết là 15347,2 triệu $, trong đó vốn được giải ngân là 6478 triệu $, số liệu cam kết và giải ngân cụ thể trong từng năm như sau:
Đơn vị tính: triệu $
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số
Vốn cam kết
1810,8
1941
2264,5
2430,9
2400
2400
2100
1537,2
Giải ngân
274
625
612
985
1100
1430
1450
6478
Tỷ lệ %
15,1
32,2
27
40,5
45,8
59,6
69,1
42,2
ODA là nguồn vốn đầu tư chủ yếu tạo bước tăng trưởng về cơ sở hạ tầng của cả nước trong những năm quạ Tính đến cuối năm 1998, ước giải ngân ODA đạt khoảng 5,1 tỷ $, nhưng số vốn thực hiện trong 3 năm đầu từ 1993- 1995 chỉ chiếm 30% tổng số vốn, 70% phần vốn còn lại tập trung vào giai đoạn 1996-1998. Các công trình cơ sở hạ tầng thường kéo dàị Chính vị vậy mà nguồn vốn ODA thường tác động chậm đến tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 1996-1997 ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước có nhịp độ tăng bình quân là 11,8%, ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc tăng 8,2%. Mặc dù bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, nhưng mức thực hiện vốn ODA vẫn giữ được xu thế tiến bộ. Đây là cơ hội ngàn vàng tạo điều kiện để chúng ta khắc phục được những khó khăn tạm thời mà cuộc khủng hoảng tài chính mang lạị
Tuy nhiên mức độ thực hiện ODA năm 1998 vẫn chỉ đạt khoảng 80% kế hoạch năm, điều này cho thấy dù tiến bộ trong việc thực hiện nguồn vốn này, nhưng tốc độ vẫn còn thấp so với tiềm năng. Việc sử dụng ODA trong thời gian qua đã phù hợp với những ưu tiên phát triển của Chính phủ Việt Nam, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Mức giải ngân bình quân hàng năm thời kỳ 1996-2000 vào khoảng 1,1 tỷ $, đạt hơn 70% mức kế hoạch. Giải ngân vốn ODA của các nhà tài trợ lớn như Nhật Bản, WB, ADB có nhiều tiến bộ. Theo báo cáo năm 1999 của chương trình phát triển Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (UNDP), tình hình giải ngân vốn ODA có những thành tích đáng ghi nhận. Mức giải ngân cho ngành giao thông vận tải đã tăng từ 110 triệu $ trong năm 1996 lên 212 triệu $ trong năm 1998. Các chương trình khôi phục hệ thống cấp thoát nước và phát triển đô thị đạt mức giải ngân 45 triệu $ trong năm 1998, mức này vẫn được giữ ổn định từ năm 1994. Cũng năm 1998, phù hợp với chủ trương dành ODA cho phát triển nông nghiệp nông thôn của Chính phủ, khoảng 216 triệu $ vốn ODA đã đượci cho lĩnh vực nàỵ Mức giải ngân của các dự án ODA trong ngành giáo dục-y tế cũng tăng từ 146 triệu $ năm 1997 lên 178 triệu $ năm 1998. Trong năm 1998, các phát triển xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ODA giải ngân được 708 triệu $, chiếm 600 tổng số vốn ODA giải ngân trong năm nàỵ Tốc độ giải ngân tuy đã có nhiều tiến bộ, đặc biệt trong 2 năm 1999-2000 nhưng vẫn còn thấp so với mong muốn của cả hai phía: Chính phủ Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ.
Trong bảng thống kê ở trên cho ta thấy nguồn vốn ODA đã liên tục tăqng trong những năm vừa qua, đặc biệt nguồn vốn này chịu ảnh hưởng không đáng kể bởi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, mà có xu hướng ngày càng gia tăng. Như vậy, hơn lúc nào hết trong giai đoạn hiện nay Việt Nam có thể coi nguồn vốn ODA là một giải pháp cứu cánh để khắc phục khó khăn tạm thời về vốn, đồng thời tạo đà cho việc thu hút đầu tư tư nhân, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội như: xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng chính sách thông qua các phúc lợi công cộng như phát triển y tế cộng đồng, tái hòa nhập hồi hương, tăng đầu tư giáo dục...
Trong thời gian tới việc huy động ODA sẽ ngày càng trở nên khó khăn. Vấn đề đặt ra với Việt Nam là làm sao đẩy nhanh được tốc độ giải ngân. Muốn vậy Việt Nam phải nhanh chóng học hỏi những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết trong tiến trình chuẩn bị, xây dựng dự án đến lúc phê duyệt, bắt tay vào thực hiện dự án (khi ODA thực sự được giải ngân) cũng như những kinh nghiệm trong quy hoạch, điều phối, quản lý dự án, đấu thầu, giải phóng mặt bằng. Cụ thể là:
Đẩy mạnh “hài hòa thủ tục dự án”: dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA phải trải qua hai khâu thẩm định. Các quá trình thẩm định và phê duyệt dự án diễn ra từ phía các cơ quan Chính phủ và các nhà tài trợ. Để đảm bảo việc phê duyệt dự án được suôn sẻ cần có sự cải tiến thủ tục và sự phối hợp của cả hai phíạ
Cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm thẩm định. Nên giảm bớt những thủ tục không thực sự cần thiết trong quá trình phê duyệt các văn bản báo cáo nghiên cứu khả thị
Giải quyết tốt vốn đối ứng: vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình dự án ODA được cam kết giữa Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án , quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của Chính phủ Nhật Bản (IBIC) hoặc WB, hoặc ADB thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15-30% tổng giá trị dự án, các dự án viện trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc thường cũng đòi hỏi vốn trong nước khoảng 20% giá trị dự án. Về nguyên tắc vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt quá khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng Chính phủ để xin hỗ trợ một phần ngay từ khi lập dự án . tuy nhiên vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy mà đang là một trong những nguyên nhân gây nên sự chậm trể thực hiện dự án.
Cơ chế vốn đối ứng khác nhau cho những dự án cùng loại là câu hỏi đang chờ giải đá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0193.doc