Tác dụng phụ sau bơm talc vào khoang màng phổi ghi nhận đượctrong nghiên cứu
của chúng tôi chỉ có tăng thân nhiệt ≥ 38,50C (32,8%), đau ngực (17,2%), khó thở
(9,5%). Không có hội chứng nguy ngập hô hấp cấp xảy ra trong vòng 48 giờ sau bơm
talc. Điều này tương tự với nghiên cứu thực hiện trên 501 bệnh nhân tràn dịch màng
phổi ác tính của Dresler được công bố vào năm 2005(8)
.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Iodopovidone và talc nhũ tương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng phụ nặng và đều được dung nạp tốt.
ABSTRACT
COMPARISON OF IODOPOVIDONE AND TALC SLURRY PLEURODESIS
EFFICACY AND
SAFETY IN THE TREATMENT OF MASSIVE SECONDARY MALIGNANT
PLEURAL EFFUSIONS
Nguyen Huu Lan, Đang Van Phuoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 124 - 132
Background - objectives: Pleurodesis is the one of the best options for the
management of symptomatic, recurent patients with malignant pleural effusion. The
aim of this study was iodopovidone (IO) and talc slurry (TS) pleurodesis efficacy and
safety comparation in the treatment of massive secondary malignant pleural effusions.
Methods: 216 patients with massive malignant pleural effusions were prospectively
assessed from June 2005 to June 2008 in C6 ward, Phạm Ngọc Thạch Hospital. The
patients were randomized to receive either 20mL 10% iodopovidone or 5g talc diluted
in 60mL saline solution 0.9% through the chest tube. Patients were evaluated before
and after sclerosing agents instillation, after removal chest tube 1 month, 3 months, 6
month regarding clinical symptoms and signs and effectiveness of pleurodesis.
Results: Adverse effects were generally mild: fever ≥ 35oC (5% in IO patients, 32.8%
in TS patients, p = 0.000), chest pain (20% in IO patients, 17.2% in TS patients, p =
0.6), dyspnea (10% in IO patients, 9.5% in TS patients, p = 0.9), and no patient in
either group developed ARDS. The successful rate of IO and TS pleurodesis after 1 m
were 83.8% and 93% (p < 0,04), respectively, those after 3 m were 80.8% and 90.3%
(p > 0,07), respectively, and those after 6 m were 72.2% and 88.5% (p < 0.03)
respectively.
Conclusions: Talc slurry showed more effective than iodopovidone pleurodesis in
cases of massive secondary malignant pleural effusions. Neither procedure showed
any major adverse effect, and both were equally well tolerated.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn dịch màng phổi ác tính là vấn đề lâm sàng thường gặp(7,33). Tiên lượng của bệnh
nhân tràn dịch màng phổi ác tính rất xấu(6,13,19,22,23,25,27), hầu hết không đáp ứng với
hóa trị liệu toàn thân(6,13,28,23,28). Trên 75% bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính có
triệu chứng lâm sàng(4,10,20,32). Khó thở, đau ngực, ho làm xấu đi chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân(6,19,23,24,26,27). Mặc dù chọc tháo dịch hay đặt ống dẫn lưu màng phổi
làm giảm nhanh triệu chứng khó thở, đau ngực, ho do tràn dịch màng phổi gây nên, tỷ
lệ tái phát tràn dịch màng phổi có thể lên đến 100% sau 1 tháng(4,14,20,30). Chọc tháo
dịch màng phổi nhiều lần gây cạn kiệt protein, dịch, điện giải, làm xấu dần tổng trạng
của bệnh nhân(5,23,24,28), làm tăng nguy cơ xuất hiện các biến chứng như tràn mủ màng
phổi, tràn khí màng phổi(4,6,30). Vì vậy, mục đích chính của điều trị tràn dịch màng
phổi ác tính là làm giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống(5,12,13,17,23,28,29),
bằng cách dẫn lưu dịch và làm dính màng phổi(13,17,28,29), nhằm ngăn ngừa tái tụ
dịch(26,29), do đó làm giảm các triệu chứng và tránh nhập viện nhiều lần để dẫn lưu
dịch ra ngoài(18,26).
Để làm dính màng phổi cho bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính, talc là chất được
các hướng dẫn quốc tế khuyến cáo sử dụng(4,9), được sử dụng nhiều nhất(1,13), dễ
tìm(3,13), rẻ tiền(1,3), có chi phí-hiệu quả điều trị tốt nhất(23). Tuy nhiên, vẫn còn những
bàn cãi liên quan đến tính an toàn của talc, sau những báo cáo về hội chứng nguy
ngập hô hấp cấp xảy ra sau khi bơm talc vào khoang màng phổi(1,13). Iodopovidone đã
chứng minh được tính hiệu quả trong kiểm soát tràn dịch màng phổi ác tính, an toàn,
dễ tìm, rẻ tiền(2,3,34), có khả năng là chất làm dính màng phổi hiệu quả- an toàn tốt
nhất(2). Hiện nay, chưa có báo cáo so sánh làm dính màng phổi bằng hai tác nhân này
trong cùng một kỹ thuật làm dính màng phổi, bệnh nhân được theo dõi ở cùng một
thời điểm, cùng một điều kiện như nhau, ở trong cùng một dân số nghiên cứu. Vì vậy,
chúng tôi thực hiện thử nghiệm lâm sàng chứng ngẫu nhiên không mù, so sánh hiệu
quả, tính an toàn của talc và iodopovidone trong điều trị tràn dịch màng phổi ác tính
thứ phát lượng nhiều.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện thử nghiệm lâm sàng chứng ngẫu nhiên không mù, cho 216 bệnh
nhân ≥ 18 tuổi, nhập bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ tháng 6.2005 đến tháng 6.2008,
bị tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều (thể tích tràn dịch màng phổi ≥
1L), sau hóa trị ung thư và/hoặc xạ trị hay không có khả năng hóa trị ung thư và/hoặc
xạ trị trước khi làm dính màng phổi. Sau khi tháo hết dịch qua ống dẫn lưu màng
phổi, phổi nở ra hoàn toàn, triệu chứng lâm sàng giảm so vơí trước khi đặt ống dẫn
lưu màng phổi, chỉ số Karnofsky ≥ 60%, PaO2 ≥ 60 mmHg, hoặc SpO2 ≥ 90%, không
có thai và/hoặc đang cho con bú.
Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào hai nhóm điều trị: hoặc bơm talc nhũ tương (đã
được tiệt trùng bằng nhiệt 132oC trong 6 giờ) hoặc, bơm iodopovidone qua ống dẫn
lưu màng phổi. Sau đặt ống dẫn lưu tháo hết dịch màng phổi, khi X quang lồng ngực
cho thấy phổi đã nở ra hoàn toàn, sử dụng midazolam 5mg (tiêm tĩnh mạch),
paracetamol 1g (truyền tĩnh mạch). 15 phút sau, bơm 5g bột talc y khoa đã được hấp
vô trùng và lidocain 2mg/kg cân nặng, pha trong 60mL nước muối sinh lý hoặc,
20mL iodopovidone 10% vô trùng và lidocain 2mg/kg cân nặng, pha trong 60mL
nước muối sinh lý để bơm vào khoang màng phổi. Sau khi bơm tác nhân gây dính
vào khoang màng phổi, ống dẫn lưu được kẹp lại, bệnh nhân xoay trở theo 6 hướng
(nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng phải, nằm nghiêng trái, ngồi thẳng lưng, nằm đầu
thấp), mỗi 10 phút, trong vòng 2 giờ. Sau khi tháo kẹp ống dẫn lưu, duy trì áp lực hút
qua ống dẫn lưu là –20cmH2O. 4 giờ sau bơm thuốc, truyền tĩnh mạch paracetamol
1g. 48 giờ sau khi bơm hóa chất vào khoang màng phổi, nếu lượng dịch chảy ra qua
ống dẫn lưu màng phổi < 150mL/24 giờ, kẹp ống dẫn lưu màng phổi trong 24 giờ,
chụp X quang lồng ngực thẳng kiểm tra không có tràn khí màng phổi, sẽ tiến hành rút
ống dẫn lưu màng phổi. Nếu lượng dịch chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi ≥
150mL/24 giờ, sẽ tiến hành bơm thuốc gây dính màng phổi lần 2 với thuốc cùng loại
với lần 1. Nếu sau 2 lần bơm talc hay iodopovidone không có kết quả làm dính màng
phổi thành công (lượng dịch chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24 giờ), sẽ
thay đổi chất gây dính màng phổi lần 3 bằng iodopovidone hay talc. Lập lại làm dính
màng phổi lần 4 bằng iodopovidone hay talc, nếu sau 48 giờ bơm thuốc lần 3 vào
khoang màng phổi, lượng dịch chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24 giờ.
Sau 48 giờ bơm thuốc lần 4 vào khoang màng phổi, sẽ tiến hành rút ống dẫn lưu
màng phổi.
Tiêu chí đánh giá kết quả làm dính màng phổi lần 1, lần 2 được tính sau 48 giờ bơm
talc hay iodopovidone vào khoang màng phổi:
Thất bại: nếu lượng dịch chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24 giờ.
Thành công: nếu lượng dịch chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi < 150mL/24 giờ.
Thất bại làm dính màng phổi lần 2 được xem như thất bại chung cuộc của một tác
nhân làm dính màng phổi.
Tiêu chí đánh giá kết quả làm dính màng phổi vào tháng thứ 1, thứ 3, thứ 6 được tính
từ khi bệnh nhân được rút ống dẫn lưu màng phổi cho đến thời điểm được đánh giá:
Thành công hoàn toàn: không có tích tụ dịch trên X quang lồng ngực cho đến thời
điểm được đánh giá.
Thành công một phần: chỉ có một lượng ít dịch tích tụ trong khoang màng phổi (dịch
tích tụ trong khoang màng phổi < 50% so với lượng dịch được đánh giá trên X quang
lồng ngực trước khi tháo dịch để làm dính màng phổi), và không có yêu cầu rút dịch
giải tỏa để duy trì cuộc sống cho bệnh nhân cho đến thời điểm được đánh giá.
Thất bại: khi thiếu những tiêu chí đánh giá làm dính màng phổi thành công (hoàn
toàn, một phần) vừa nêu trên.
Chúng tôi sử dụng phép kiểm chi bình phương để so sánh tỉ lệ khác biệt cho các biến
định tính, và phép kiểm Mann-Whitney cho các biến định lượng. Tất cả các phương
pháp kiểm định giả thuyết được thực hiện bằng cách sử dụng kiểm định 2 bên (two-
sided alternatives). Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p <0,05) để chấp nhận hay bác bỏ giả
thuyết thống kê. Tất cả phân tích được thực hiện bằng phần mềm thống kê STATA
8.0.
KẾT QUẢ
Tham gia vào nghiên cứu có 107 (49,5%) bệnh nhân nam, 109 (50,5%) bệnh nhân
nữ, tuổi trung bình 63 ± 13 tuổi (từ 31 tuổi đến 91 tuổi), 116 (53,7%) bệnh nhân
làm dính màng phổi bằng talc nhũ tương, 100 (46,3%) bệnh nhân làm dính màng
phổi bằng iodopovidone. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các tham
số nghiên cứu trong nhóm làm dính màng phổi lần 1 bằng talc hay iodopovidone,
ngoại trừ số lượng tế bào đơn nhân trong dịch màng phổi của nhóm bệnh nhân làm
dính màng phổi bằng talc thấp hơn nhóm bệnh nhân làm dính màng phổi bằng
iodopovidone (185 ± 421/mm3 so với 205 ± 288/mm3, p < 0,05). 23 bệnh nhân
thất bại làm dính màng phổi lần 1 bằng talc, 29 bệnh nhân thất bại làm dính màng
phổi lần 1 bằng iodopovidone. Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ
làm dính màng phổi thất bại sau lần đầu bơm talc hay iodopovidone (p = 0,12). Có
52 bệnh nhân được làm dính màng phổi lần 2, với thuốc bơm vào khoang màng
phổi cùng loại với thuốc làm dính màng phổi lần 1. Không có khác biệt có ý nghĩa
thống kê của các tham số nghiên cứu trong nhóm làm dính màng phổi lần 2 bằng
talc hay iodopovidone, ngoại trừ số lượng tế bào dịch màng phổi và số lượng bạch
cầu đơn nhân dịch màng phổi ở nhóm bệnh nhân bơm iodopovidone cao hơn một
cách có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân bơm talc (theo thứ tự 655 ±
211/mm3 so với 604 ± 415/mm3, p = 0,048 và 310 ± 310/mm3 so với 218 ±
502/mm3, p = 0,02). Sau 48 giờ bơm thuốc làm dính màng phổi lần 2, có thêm 35
bệnh nhân có lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi < 150mL/24 giờ, trong
đó nhóm bơm talc vào khoang màng phổi có 19 bệnh nhân, nhóm bơm
iodopovidone vào khoang màng phổi có 16 bệnh nhân (p < 0,04). Đánh giá kết
quả làm dính màng phổi sau 48 giờ bơm thuốc vào khoang màng phổi lần 2, tỷ lệ
thành công của nhóm bệnh nhân làm dính màng phổi bằng talc cao hơn nhóm
bệnh nhân làm dính màng phổi bằng iodopovidone (p < 0,04). 4 bệnh nhân thất bại
làm dính màng phổi bằng talc được làm dính màng phổi bằng iodopovidone. 12
bệnh nhân thất bại làm dính màng phổi bằng iodopovidone được làm dính màng
phổi bằng talc lần 3 (1 bệnh nhân từ chối thực hiện tiếp làm dính màng phổi lần 3).
Sau 48 giờ, có 3 bệnh nhân bơm iodopovidone, 6 bệnh nhân bơm talc có lượng
dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24 giờ. Thực hiện làm dính màng
phổi lần 4 cho 9 bệnh nhân này bằng cách bơm vào khoang màng phổi tác nhân
cùng loại với tác nhân làm dính màng phổi lần 3. Kết quả sau 48 giờ bơm thuốc
vào khoang màng phổi, chỉ còn 3 bệnh nhân trong nhóm bơm talc vào khoang
màng phổi lần 4 có lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24giờ.
Tất cả 3 bệnh nhân này, cùng với 1 bệnh nhân từ chối bơm thuốc làm dính màng
phổi lần 3, đều phải chọc tháo dịch để duy trì sự sống cho bệnh nhân trong suốt
thời gian theo dõi sau làm dính màng phổi.
Tất cả tác dụng phụ sau bơm thuốc lần 1, 2, được mô tả trong bảng 1, 2. Chỉ có 5
bệnh nhân bơm talc và 1 bệnh nhân bơm iodopovidone lần 3 có tác dụng phụ. Sốt ≥
38,50C gặp ở 4 bệnh nhân làm dính màng phổi bằng talc, 1 bệnh nhân làm dính màng
phổi bằng iodopovidone. Tăng mức độ đau ngực chỉ ghi nhận được ở 1 bệnh nhân
bơm talc lần 3. Sau bơm thuốc lần 4 vào khoang màng phổi, chỉ có 3 bệnh nhân (1
bệnh nhân bơm talc nhũ tương, 2 bệnh nhân bơm iodopovidone vào khoang màng
phổi) có cùng một tác dụng phụ là sốt ≥ 38,50C. Có 2 bệnh nhân tử vong trước 1
tháng. Tỷ lệ làm dính màng phổi thành công bằng talc sau 1 tháng là 93% (107/115
bệnh nhân), sau 3 tháng là 90,3% (84/93 bệnh nhân), sau 6 tháng là 88,5% (54/61
bệnh nhân). Tỷ lệ làm dính màng phổi thành công bằng iodopovidone sau 1 tháng là
83,8% (83/99 bệnh nhân), sau 3 tháng là 80,8% (63/78 bệnh nhân), sau 6 tháng là
72,2% (39/54 bệnh nhân).
Bảng 1: Tác dụng phụ của bệnh nhân làm dính màng phổi lần 1
Talc
(n=116)
Iodo
(n=100)
TB ±
ĐLC
TB ±
ĐLC
p
Số bệnh nhân có tác
dụng phụ n (%)
53 (45,7) 24 (24) 0,001
Thời gian bắt đầu
(phút)
6 ± 5,7
3,5 ±
5,4
0,004
Khoảng thời gian
kéo dài (giờ)
30,3 ±
23,4
12,2 ±
14,6
0,0002
Mạch (lần/phút) 97 ± 8 96 ± 7 0,74
Huyết áp tâm thu
(mmHg)
115 ± 11
117 ±
12
0,50
Huyết áp tâm trương
(mmHg)
67 ± 7 70 ± 8 0,10
Số bệnh nhân có
tăng thân nhiệt >
38,5oC n (%)
38 (32,8) 5 (5) 0,0000
Talc
(n=116)
Iodo
(n=100)
TB ±
ĐLC
TB ±
ĐLC
p
Sốt với thân nhiệt >
38,5oC (oC)
38,8 ±
0,3
38,6 ±
0,1
0,19
Số bệnh nhân có
tăng đau ngực n (%)
20 (17,2) 20 (20) 0,60
Thay đổi VAS
(điểm)
5,2 ± 2,2
3,7 ±
1,8
0,03
Số bệnh nhân có
tăng mức độ khó thở
n (%)
11 (9,5) 10 (10) 0,90
Thay đổi Borg
(điểm)
5,5 ± 2,8
3,4 ±
2,2
0,08
Nhịp thở (lần/phút) 21 ± 1 21 ± 1 0,51
SpO2 (%) 96 ± 1 95 ± 1 0,047
Bảng 2: Tác dụng phụ của bệnh nhân làm dính màng phổi lần 2
Hóa chất
LDMP
TGB
Đ
KTGCTD
P
To M
HAT
T
HATT
r
N
T
SpO
2
Thay đổi
VAS
Thay đổi
Borg
Talc 9 2 38,
7
96 120 70 21 96 0 0
Talc 8 1 39 10
6
120 70 20 97 2 0
Talc 8 11 38,
6
11
0
100 60 19 95 0 0
Talc 6 12 39 96 100 60 20 95 0 0
Talc 6 48 38,
5
10
0
110 60 20 94 0 0
Talc 5 1 38,
7
94 140 70 20 94 0 0
Talc 1 6 38,
5
94 110 60 20 96 0 0
Talc 0,25 48 37 94 110 70 20 94 5 0
Iodo 4 12 37 97 110 60 20 96 3 0
Iodo 0,08 0,08 37 98 120 80 20 92 2 0
Iodo 0,50 4 37,
2
10
0
120 70 20 92 2 0
Iodo 0,25 2 38,
5
90 110 70 20 96 1 2
Talc: talc nhũ tương, iodo: iodopovidone, n: số bệnh nhân, TB: trung bình, ĐLC: độ
lệch chuẩn,
TGBĐ: Thời gian từ lúc bơm thuốc đến lúc bắt đầu có tác dụng phụ (giờ)
KTGCTDP: Khoảng thời gian bệnh nhân có tác dụng phụ (giờ)
To, M, HATT, HATTr, NT, SpO2, VAS, Borg: theo thứ tự là thân nhiệt (oC), mạch
(lần/phút), huyết áp tâm thu (mmHg), huyết áp tâm trương (mmHg), nhịp thở
(lần/phút), độ bảo hòa oxy (%), thang điểm hiển thị số đánh giá đau, thang điểm hiển
thị số đánh giá khó thở, đo hoặc đánh giá lúc bệnh nhân cảm thấy có tác dụng phụ
nhiều nhất.
BÀN LUẬN
Tác dụng phụ sau bơm talc vào khoang màng phổi ghi nhận được trong nghiên cứu
của chúng tôi chỉ có tăng thân nhiệt ≥ 38,50C (32,8%), đau ngực (17,2%), khó thở
(9,5%). Không có hội chứng nguy ngập hô hấp cấp xảy ra trong vòng 48 giờ sau bơm
talc. Điều này tương tự với nghiên cứu thực hiện trên 501 bệnh nhân tràn dịch màng
phổi ác tính của Dresler được công bố vào năm 2005(8).
Bơm iodopovidone vào khoang màng phổi hoàn toàn không gây hội chứng nguy
ngập hô hấp cấp, không gây tử vong cho bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính trong
nghiên cứu của chúng tôi. Điều này phù hợp với các báo cáo nghiên cứu trước đây
của Kelly-Garcia (16), Olivares-Torres (21), Agarwal (1,2,3). Chúng tôi không ghi nhận
triệu chứng hạ huyết áp hệ thống sau bơm iodopovidone vào khoang màng phổi như
trong báo cáo của Olivares-Torres (21). Tác dụng phụ sau bơm iodopovidone vào
khoang màng phổi trong nghiên cứu của chúng tôi bao gồm sốt ≥ 38,50C (5%), đau
ngực (20%), khó thở (10%).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bơm talc vào khoang màng phổi gây nhiều tác dụng
phụ hơn bơm iodopovidone. Tỷ lệ bệnh nhân có tác dụng phụ do bơm talc lần 1 là
45,7% cao hơn do bơm iodopovidone lần 1 là 24% (p=0,001). Thời gian bệnh nhân
bắt đầu có tác dụng phụ sau bơm talc (6 ± 5,7 phút) muộn hơn sau bơm iodopovidone
(3,5 ± 5,4 phút) (p=0,004). Nhưng khoảng thời gian có tác dụng phụ của nhóm bơm
talc kéo dài hơn nhóm iodopovidone một cách có ý nghĩa thống kê (30,3 ± 23,5 giờ
so với 12,2 ± 14,6 giờ, p=0,0002).
Sốt ≥ 38,50C là tác dụng phụ thường gặp nhất sau bơm talc (32,8%) cao hơn sau bơm
iodopovidone (5%) một cách có ý nghĩa thống kê (p = 0,000). Tuy nhiên, mức độ sốt
không khác nhau giữa 2 nhóm điều trị (p = 0,19). Theo Froudarakis, sốt và phản ứng
viêm toàn thân (tăng số lượng bạch cầu, tăng tỷ lệ bạch cầu cầu đa nhân trung tính,
tăng nồng độ C-reactive protein trong máu tĩnh mạch) là do bột talc gây ra(11). Theo
Ukale, sốt cao và tăng giá trị các biến số chỉ điểm viêm (tốc độ lắng máu, số lượng
bạch cầu, nồng độ C-reactive protein trong máu tĩnh mạch) là phản ứng viêm không
nhiễm trùng do bơm các tác nhân gây dính vào khoang màng phổi (talc hay
quinacrine). Có khuynh hướng tương quan giữa kết quả thành công của điều trị làm
dính màng phổi và mức độ viêm (31). Chúng tôi cũng ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân có triệu
chứng sốt sau bơm talc vào khoang màng phổi cao hơn sau bơm iodopovidone vào
khoang màng phổi và, tỷ lệ làm dính màng phổi thành công bằng talc cao hơn
iodopovidone.
Trong số những bệnh nhân có tác dụng phụ đau ngực, số bệnh nhân có triệu chứng
đau ngực sau bơm talc (17,2%) thấp hơn bơm iodopovidone (20%) nhưng không có ý
nghĩa thống kê (p = 0,6). Tuy nhiên, mức độ đau ngực sau bơm talc (5,2 ± 2,2 điểm
VAS) cao hơn sau bơm iodopovidone (3,7 ± 1,8 điểm VAS) một cách có ý nghĩa
thống kê (p = 0,03).
Tỷ lệ bệnh nhân có xuất hiện hay tăng triệu chứng khó thở sau bơm talc hay
iodopovidone khác nhau không có ý nghĩa thống kê (theo thứ tự 9,5% và 10%, p =
0,9). Trong số những bệnh nhân có tác dụng phụ khó thở, SpO2 của bệnh nhân bơm
iodopovidone (95 ± 1%) thấp hơn SpO2 của bệnh nhân bơm talc (96 ± 1%) một cách
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên, SpO2 đo khi bệnh nhân có xuất hiện hay
tăng triệu chứng khó thở sau bơm talc hay iodopovidone không ở mức nguy hiểm,
không đe dọa đến sinh mạng của bệnh nhân.
Ở lần làm dính màng phổi lần 2 cho những bệnh nhân thất bại làm dính màng phổi
lần 1, tỷ lệ bệnh nhân có tác dụng phụ sau bơm talc cao hơn bơm iodopovidone vào
khoang màng phổi (34,8% so với 13,8%, p > 0,07), thời gian bắt đầu có tác dụng phụ
chậm hơn (5,4 ± 3,2 phút so với 1,2 ± 1,9 phút, p < 0,04), nhưng khoảng thời gian có
tác dụng phụ kéo dài hơn (16,1 ± 20,1 giờ so với 4,5 ± 5,2 giờ, p > 0,3). Tuy nhiên, có
thể do số lượng bệnh nhân có tác dụng phụ sau làm dính màng phổi lần 2 ở cả 2 nhóm
bệnh nhân nghiên cứu đều nhỏ, nên tỷ lệ bệnh nhân có tác dụng phụ, khoảng thời gian
có tác dụng phụ không khác nhau có ý nghĩa thống kê ở hai nhóm bệnh nhân làm
dính màng phổi bằng talc hay iodopovidone. Vì tỷ lệ bệnh nhân có tác dụng phụ ít
hơn, khoảng thời gian chịu đựng tác dụng phụ ngắn hơn, mức độ gây đau ngực thấp
hơn, nên có thể bệnh nhân dễ dung nạp phương pháp làm dính màng phổi bằng
iodopovidone hơn talc, Tuy nhiên, ngay cả khi tiến hành làm dính màng phổi lần 3,
lần 4 bằng cách thay đổi chéo tác nhân làm dính màng phổi (thay thế talc bằng
iodopovidone cho nhóm bệnh nhân làm dính màng phổi bằng talc lần 1 và 2; thay thế
iodopovidone bằng talc cho nhóm bệnh nhân làm dính màng phổi bằng iodopovidone
lần 1 và 2), chúng tôi không ghi nhận tác dụng phụ nặng có thể ảnh hưởng đến sinh
mạng bệnh nhân. Chỉ có 41,7% bệnh nhân bơm talc và 25% bệnh nhân bơm
iodopovidone lần 3 có tác dụng phụ. Chủ yếu vẫn là gây sốt ≥ 38,50C, gặp ở 4 bệnh
nhân làm dính màng phổi bằng talc, 1 bệnh nhân làm dính màng phổi bằng
iodopovidone. Tăng mức độ đau ngực chỉ ghi nhận được ở 1 bệnh nhân bơm talc lần
3. Sau bơm thuốc lần 4 vào khoang màng phổi, chỉ có 3 bệnh nhân (1 bệnh nhân bơm
talc nhũ tương, 2 bệnh nhân bơm iodopovidone vào khoang màng phổi) có cùng một
tác dụng phụ là sốt ≥ 38,50C. Theo nghiên cứu phân tích gộp dựa trên tất cả các báo
cáo làm dính màng phổi bằng iodopovidone, Agarwal cho rằng bơm 20mL
iodopovidone 10% vào khoang màng phổi để kiểm soát tràn dịch màng phổi ác tính
thì an toàn và không gây tử vong liên quan đến thủ thuật điều trị này(3). Theo Dresler,
biến chứng hô hấp khi làm dính màng phổi bằng 4-5g talc bột khô thường gặp hơn
talc nhũ tương(8). Theo Janssen, bơm 4g talc bột khô qua soi lồng ngực là một phương
pháp điều trị an toàn trong kiểm soát tràn dịch màng phổi ác tính và không gây hội
chứng nguy ngập hô hấp cấp(15). Nghiên cứu của Dresler và của Janssen là 2 nghiên
cứu tiến cứu đa trung tâm với cở mẫu lớn trên 500 bệnh nhân, được công bố trên
những tạp chí lớn, theo thứ tự vào năm 2005, 2007(8,15). Vì vậy, có thể kết luận sử
dụng talc hay iodopovidone làm dính màng phổi là một phương pháp an toàn để kiểm
soát tràn dịch màng phổi ác tính tái phát, lượng nhiều.
Đánh giá kết quả 48 giờ sau làm dính màng phổi lần 1, 23 bệnh nhân (19,8%) trong
nhóm bơm talc, 29 bệnh nhân (29%) trong nhóm bơm iodopovidone có lượng dịch
thoát qua ống dẫn lưu màng phổi trong 24 giờ ≥ 150mL phải làm dính màng phổi lần
2. Tỷ lệ làm dính màng phổi thành công lần 1 của 2 nhóm điều trị không có khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p > 0,12). Lập lại làm dính màng phổi lần 2 bằng chính các tác
nhân bơm lần 1 vào khoang màng phổi, có thêm 19 bệnh nhân trong nhóm bơm talc,
16 bệnh nhân trong nhóm bơm iodopovidone có lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu
màng phổi trong 24 giờ < 150mL. Với việc bơm nhiều nhất 2 lần cùng 1 tác nhân,
cùng một liều lượng vào khoang màng phổi bị di căn ác tính, sẽ giúp làm lượng dịch
thoát qua ống dẫn lưu màng phổi trong 24 giờ < 150mL ở 96,6% bệnh nhân bơm talc
và 87% bệnh nhân bơm iodopovidone vào khoang màng phổi (p = 0,009). Như vậy,
xét trên tổng 2 lần bơm thuốc vào khoang màng phổi, talc hiệu quả hơn iodopovidone
trong tác dụng kiểm soát tràn dịch màng phổi ác tính.
Có 4 bệnh nhân rút ống dẫn lưu màng phổi khi lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu
màng phổi trong 24 giờ ≥ 150mL: 1 bệnh nhân từ chối bơm thuốc lần 3 vào khoang
màng phổi sau 2 lần thất bại làm dính màng phổi bằng iodopovidone, 3 bệnh nhân
thất bại sau 4 lần bơm thuốc làm dính màng phổi. Tất cả 4 bệnh nhân này đều được
đánh giá thất bại điều trị làm dính màng phổi trong thời gian theo dõi, buộc phải rút
giải tỏa dịch màng phổi để duy trì cuộc sống. Có 2 bệnh nhân tử vong trước 1 tháng.
Trong 214 bệnh nhân sống trên 1 tháng sau hoàn thành làm dính màng phổi, có 202
bệnh nhân đạt kết quả làm dính màng phổi thành công. Tất cả các bệnh nhân này có
lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi trước khi rút ống dẫn lưu màng phổi <
150mL/24 giờ. Ngược lại, trong 12 bệnh nhân thất bại làm dính màng phổi sau 1
tháng, có đủ cả 3 bệnh nhân phải rút ống dẫn lưu màng phổi khi lượng dịch thoát qua
ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24 giờ. Bệnh nhân tử vong trước 1 tháng cũng rút
ống dẫn lưu màng phổi khi lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24
giờ. Bệnh nhân này có 8 lần buộc phải rút giải tỏa dịch màng phổi sau rút ống dẫn lưu
màng phổi. Tỷ lệ bệnh nhân làm dính màng phổi thành công sau 1 tháng (94,4%,
202/214 bệnh nhân), cao hơn tỷ lệ bệnh nhân làm dính màng phổi thành công sau 3
tháng (91,2%, 156/171 bệnh nhân) (p = 0,23), và sau 6 tháng (87,8%, 101/115 bệnh
nhân, p = 0,04). Theo chúng tôi, việc đạt đến kiểm soát dịch thoát qua ống dẫn lưu
màng phổi trong 24 giờ trước khi rút ống dẫn lưu màng phổi có ảnh hưởng quan trọng
đến kết quả dài hạn. Điều này phù hợp với hướng dẫn của Hội Hô Hấp Châu Âu và
Hội Lồng Ngực Hoa Kỳ năm 2001 về điều trị tràn dịch màng phổi ác tính: nên rút
ống dẫn lưu khi lượng dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi trong 24 giờ < 100-
150mL. Nếu sau 48-72 giờ bơm talc vào khoang màng phổi, dịch thoát qua ống dẫn
lưu màng phổi trong 24 giờ quá nhiều (> 250mL/24 giờ), nên lập lại làm dính màng
phổi lần 2 với liều lượng giống lần 1(9). Tương tự, Agarwal đã bơm iodopovidone vào
khoang màng phổi lần 2, sau khi làm dính màng phổi bằng iodopovidone lần 1 thất
bại. Tác giả không ghi nhận tai biến nặng hay tử vong liên quan đến bơm
iodopovidone lần 2 vào khoang màng phổi(1). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy khi
làm dính màng phổi lần 3, lần 4 bằng cách thay đổi chéo tác nhân bơm vào khoang
màng phổi (thay talc bằng iodopovidone hoặc ngược lại) không gây tác dụng phụ
nặng, không ảnh hưởng đến sinh mạng bệnh nhân. Vì thế, theo chúng tôi, có thể thay
đổi tác nhân làm dính màng phổi, nếu sau 2 lần bơm cùng một tác nhân làm dính
màng phổi, không kiểm soát được dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi trong 24 giờ
< 150mL. Thay đổi tác nhân bơm vào khoang màng phổi khi thất bại làm dính màng
phổi cũng được khuyến cáo trong hướng dẫn của Hội Hô Hấp Châu Âu và Hội Lồng
Ngực Hoa Kỳ năm 2001 về điều trị tràn dịch màng phổi ác tính (9).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ làm dính màng phổi thành công bằng talc sau 1
tháng là 93% (107/115 bệnh nhân), sau 3 tháng là 90,3% (84/93 bệnh nhân), sau 6
tháng là 88,5% (54/61 bệnh nhân). Sự khác biệt về tỷ lệ làm dính màng phổi thành
công bằng talc sau 1 tháng so với 3 tháng và so với 6 tháng là không có ý nghĩa thống
kê (theo thứ tự p > 0,4, và p > 0,3). Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42_3573.pdf