Khắc phục thất bại của thị trường – tiến tới xây dựng thị trường hiệu quả ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang phụbìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, chữviết tắt

Danh mục các bảng, biểu

Danh mục các hình vẽ đồthị

Mở đầu .1

Chương 1: Lý luận vềthịtrường hiệu quảvà những thất bại của thịtrường .4

1.1 Thịtrường cạnh tranh hoàn hảo.4

1.1.1 Thịtrường cạnh tranh hoàn hảo là gì? .4

1.1.2 Tại sao thịtrường cạnh tranh hoàn hảo lại hiệu quả? .4

1.2 Một sốkhuyết tật của thịtrường và tác động của nó đến nền kinh tếcủa một quốc

gia.8

1.2.1 Độc quyền .8

1.2.1.1 Định nghĩa .8

1.2.1.2 Tác động của độc quyền đến nền kinh tế.8

1.2.1.3 Chi phí xã hội của sức mạnh độc quyền .8

1.2.2 Các ngoại ứng.10

1.2.2.1Các ngoại ứng tiêu cực và tính phi hiệu quả.10

1.2.3 Bất cân xứng thông tin .12

1.2.3.1 Thông tin là gì ?.12

1.2.3.2 Tầm quan trọng của thông tin đối với các quyết định của nhà đầu tư13

1.3 Thịtrường hiệu quả.14

1.3.1 Thịtrường hiệu quảlà gì? .14

1.3.2 Ba hình thức của thịtrường hiệu quả.16

1

1.3.3 Vai trò của thịtrường hiệu quả đối với nền kinh tế.16

1.4 Thịtrường chứng khoán .17

1.4.1 Khái niệm .17

1.4.2 Cơchế điều hành và giám sát thịtrường chứng khoán .17

1.4.2.1 Các cơquan quản lý của chính phủ.17

1.4.2.2 Các tổchức tựquản .17

1.4.3 Nguyên tắc hoạt động của thịtrường chứng khoán .18

1.4.4 Chức năng và vai trò của thịtrường chứng khoán.19

1.4.4.1 Chức năng của thịtrường chứng khoán.19

1.4.4.2 Vai trò của thịtrường chứng khoán.19

Chương 2: Thất bại thịtrường ởViệt Nam hiện nay.22

2.1 Thất bại của thịtrường Việt Nam .22

2.1.1 Sơlược vềnền kinh tếViệt Nam .22

2.1.2 Đánh giá quốc tếvềnền kinh tếViệt Nam .23

2.1.3 Một sốthất bại thịtrường ởViệt Nam .24

2.1.3.1 Độc quyền .24

2.1.3.2 : Các ngoại ứng tiêu cực .26

2.1.3.3: Thông tin bất cân xứng.27

2.2 Thất bại của thịtrường và sựphát triển của thịtrường chứng khoán.28

2.2.1 Tổng quan vềthịtrường chứng khoán Việt Nam .28

2.2.2 Thất bại của thịtrường trên thịtrường chứng khoán.29

2.2.2.1 Tác động của bất cân xứng thông tin đến thịtrường chứng khoán Việt

Nam.29

2.2.2.2 Đánh giá thông tin trên thịtrường chứng khoán Việt Nam.30

2.2.2.2.1 Các kênh thông tin thịtrường chứng khoán ởViệt Nam.30

2.2.2.2.2 Chất lượng thông tin trên thịtrường chứng khoán Việt Nam .31

2.2.2.2.3 Khâu tổchức quản lý của các tổchức công bốthông tin .33

2

2.2.2.3 Biểu hiện bất cân xứng thông tin trên thịtrường chứng khoán Việt Nam

.33

Chương 3 : Khắc phục bất hòan hảo của thịtrường nhằm xây dựng thịtrường hiệu quả

nói chung và thịtrường vốn hiệu quảnói riêng.40

3.1 Xây dựng thịtrường hiệu quả.40

3.2 Khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin và xây dựng thịtrường vốn hiệu quả

.42

3.2.1 Sựcần thiết phải xây dựng thịtrường vốn hiệu quả.42

3.2.2 Một sốgiải pháp xây dựng thịtrường vốn hiệu quả ởViệt Nam .43

3.2.2.1 Chất lượng thông tin .43

3.2.2.2 Thời gian và cách thức công bốthông tin .47

3.2.2.3 Giải quyết vấn đềnội gián trên thịtrường chứng khoán Việt Nam .50

Kết luận.54

Tài liệu tham khảo .56

Phụlục .5

pdf73 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 6283 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khắc phục thất bại của thị trường – tiến tới xây dựng thị trường hiệu quả ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ũng được đổi mới, dựa trên thang điểm từ 0-100, với chỉ số càng cao phản ánh mức độ tự do hóa càng lớn. Mặc dù, không quá coi trọng các đánh giá của thế giới nhưng chúng ta cũng có thể tham khảo những kết quả này để làm cơ sở tìm ra những điểm yếu của nền kinh tế, xã hội mà khắc phục. Tuy nhiên, trong giai đoạn hội nhập này thì kết quả trên là đáng lo ngại. Kết quả trên cho thấy Chính Phủ Việt Nam vẫn còn can thiệp quá mạnh vào nền kinh tế điển hình như tại quyết định 38 ban hàng ngày 20/03/2007 của Thủ tướng chính phủ, nhà nước vẫn còn giữ 100% vốn trong 19 ngành và lĩnh vực. Chỉ số tự do kinh tế toàn cầu phản ánh khả năng hội nhập và tính chất thị trường của nền kinh tế. Nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế sẽ gây ra thất bại thị trường, kiềm hãm sự phát triển của nền kinh tế, làm cho thị trường hoạt động không hiệu quả. Về năng lực cạnh tranh toàn cầu : Việt Nam đứng vị trí thứ 77/125, tụt ba bậc so với năm ngoái, trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu 2006 do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố. Chỉ số cạnh tranh được xây dựng dựa trên 9 chỉ số thành phần, gồm thể chế, cơ sở hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục và y tế phổ thông, giáo dục đại học, hiệu quả thị trường, độ sẵn sàng về kỹ thuật, mức độ hài lòng doanh nghiệp và mức độ sáng tạo. Việt Nam xếp thứ 74 ở yếu tố thể chế, cơ sở hạ tầng 83, kinh tế vĩ mô 53, y tế và giáo dục phổ thông 56, giáo dục đại học xếp thứ 90, hiệu quả thị trường 73, độ sẵn sàng về công nghệ 85. Ở hai chỉ số còn lại, Việt Nam lần lượt xếp thứ 86 và 75. 2.1.3 Một số thất bại thị trường ở Việt Nam : Ngoài những thành quả mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được thì vẫn còn tồn tại những thất bại mà Nhà Nước đang và sẽ tìm cách khắc phục để dần đạt đến tính hiệu quả của thị trường. Một số thất bại lớn của thị trường : 2.1.3.1 Độc quyền : Độc quyền luôn là hiện tượng đi ngược với xu thế cạnh tranh của thị trường. Một nền kinh tế mà tồn tại càng nhiều doanh nghiệp, ngành độc quyền thì càng kìm hãm sự phát triển về kinh tế, xã hội của quốc gia đó. Cùng với tiến trình cải cách đất nước, tình 31 trạng độc quyền ở Việt Nam cũng đã giảm dần. Điển hình: theo thống kê của Vụ Đổi mới doanh nghiệp cho thấy: Quyết định 58 của Thủ tướng Chính phủ ban hành vào tháng 4/2002, Nhà nước giữ 100% vốn trong 60 ngành và lãnh vực đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. Quyết định 155 ban hành vào tháng 08/2004, số lĩnh vực Nhà nước nắm giữ sở hữu độc quyền đã giảm xuống còn 30. Nhưng cho tới quyết định 38 ban hành ngày 20/03 của Thủ tướng chính phủ, nhà nước chỉ còn 100% vốn trong 19 ngành và lĩnh vực theo bảng liệt kê dưới đây : Sản xuất, cung ứng : vật liệu nổ, hóa chất độc,chất phóng xạ; Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh, trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật và cung ứng dịch vụ bảo mật thông tin bằng kỹ thuật nghiệp vụ mật mã; Các doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc biệt và các doanh nghiệp và các doanh nghiệp đóng tại các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng sâu, vùng xa kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Truyền tải hệ thống điện quốc gia, sản xuất điện quy mô lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng,an ninh; Quản lý, khai thác đường sắt quốc gia, đô thị, các cảng hàng không, cảng biển có quy mô lớn; Điều hành bay, điều hành vận tải đường sắt quốc gia; Bảo đảm an toàn hàng hải; Bưu chính công ích; Phát thanh, truyền hình; Xổ số kiến thiết; Xuất bản, báo chí; In, đúc tiền; Sản xuất thuốc lá điếu; Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi, thủy nông liên tỉnh, liên huyện, kè đá lấn biển; Quản lý, duy tu công trình đê điều, phân lũ và phòng chống thiên tai; Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Tín dụng chính sách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Trong các ngành nghề nói trên thì có những ngành vì lợi ích công cộng, vì sự an toàn chính trị quốc gia mà nhà nước vẫn phải giữ thế độc quyền trong một thời gian nhất định và điều kiện nhất định. Để đáp ứng cho yêu cầu của sự gia nhập các tổ chức thế giới, trên cơ sở đảm bảo các quy ước quốc tế về tự do cạnh tranh Việt Nam cần phá 32 vỡ thế độc quyền của các ngành như : điện lực, điều hành bay, điều hành vận tải đường sắt quốc gia và dần tiến tới các ngành khác. Thời gian vừa qua, người ta bàn cãi nhiều về vấn đề độc quyền trong ngành xăng dầu, điện lực, vận tải hàng không và đường sắt. Điển hình là vừa qua, sau khi Chính phủ ban hành nghị định về trao quyền tự quyết giá xăng dầu cho doanh nghiệp nhằm tiến tới một thị trường cạnh tranh thì 11 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã đồng loạt tăng 800đ/lit vào 0h ngày 07/05. Rõ ràng, hiện tượng trên đã vi phạm luật cạnh tranh là ‘‘cấm các thỏa thuận hay dàn xếp nhằm hạn chế, thủ tiêu cạnh tranh’’ và quyết định trên chỉ nhằm mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, người tiêu dùng tiếp tục bị móc túi. Việc ban hành nghị 38 nếu trên tinh thần hướng tới cạnh tranh thị trường và các doanh nghiệp xăng dầu sẽ tự đổi mới nhằm giảm chi phí, giá thành theo cung cầu thì thật đáng hoang nghênh, đằng này 11 doanh nghiệp này dựa vào ‘‘quyền tự quyết’’ để tăng giá thì chỉ làm thiệt hại cho người tiêu dùng, cho các doanh nghiệp khác và cho toàn xã hội mà thôi, như vậy chẳng khác nào liên minh độc quyền. 2.1.3.2 Các ngoại ứng tiêu cực : Tại cuộc hội thảo “Chất lượng không khí và góc nhìn Báo chí” thuộc chương trình không khí sạch Việt Nam - Thụy Sĩ (SVCAP) vừa được tổ chức tại Hà Nội, các nhà khoa học xác định “thủ phạm” chính gây ô nhiễm môi trường ở thủ đô hiện nay là do các cơ sở công nghiệp và mật độ phương tiện giao thông quá dày đặc. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới thì thiệt hại về ô nhiễm không khí ở Thái Lan về kinh tế làm mất đi 1,6% tổng sản lượng quốc gia hàng năm do mất đi những ngày lao động, phí tổn y tế nhập viện, chữa trị. Năm 2002, ô nhiễm bụi đã đưa đến hơn 17.000 ca nhập viện, tốn 6,3 tỷ đô la Mỹ chi phí y tế. Qua con số thống kê này có thể thấy chi phí xã hội cho ngoại ứng tiêu cực này là rất lớn đối với mỗi quốc qia. Ở Việt Nam, tình trạng ô nhiễm không khí và nước đã tới mức báo động. Ở thượng nguồn sông Sài Gòn và sông Đồng Nai có rất nhiều cơ sở công nghiệp đã thải 33 chất thải công nghiệp chưa xử lý làm ô nhiễm môi trường nước ở hạ nguồn. Mức độ ô nhiễm hiện nay là đáng báo động vì có ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống cung cấp nước cho TPHCM. Gần đây, Công ty Cấp nước Sài Gòn cho biết các cơ sở sản xuất bột ngọt, nhiều hộ nuôi cá bè ở thượng nguồn khu vực Dầu Tiếng, Bình Dương… làm nước sông Sài Gòn bị ô nhiễm, làm ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt cung cấp cho thành phố. Ô nhiễm nguồn nước làm cho cá tôm không thể sống được làm thiệt hại về kinh tế cho xã hội. Thực tế là các nhà máy sản xuất ở Việt Nam thường lựa chọn những dây chuyền công nghệ cũ, giá rẻ nhằm giảm chi phí mà họ không quan tâm đến vấn đề xử lý chất thải. Lý do là nhà nước do chưa có quy định, biện pháp chế tài thật sự hiệu quả về vấn đề này đối với các doanh nghiệp cho nên những thiệt hại về ô nhiễm môi trường do các doanh nghiệp gây ra nhà nước phải tiêu tốn chí phí khá lớn để giải quyết vấn đề này, chi phí này chính là chi phí xã hội và ngoại ứng ô nhiễm môi trường này cũng dẫn đến tính phi hiệu quả của thị trường. 2.1.3.3: Thông tin bất cân xứng : Thông tin bất cân xứng có ở mọi lĩnh vực: lao động, tài chính, tín dụng….. Nhưng tùy từng thị trường có những cách khắc phục khác nhau. Ở thị trường lao động, có thể khắc phục bất cân xứng thông tin giữa người sử dụng lao động và người lao động là những tín hiệu phát ra từ người lao động như bằng cấp, mức lương đề nghị. Bất cân xứng thông tin hay thông tin thiếu minh bạch đã để lại những hậu quả và thiệt hại cho nền kinh tế xã hội. Về mặt xã hội: thiếu minh bạch về thông tin tạo điều kiện cho một số cán bộ, quan chức tham nhũng thông qua các dự án với kinh phí cao ngất ngưỡng nhưng thi công ì ạch, kém chất lượng. Theo ông Đặng Văn Khoa, đại biểu Hội đồng Nhân dân TPHCM cho biết : các ban giám sát mang tiếng là có quyền giám sát nhưng hầu như vẫn trong tình trạng mù thông tin. Ông Khoa ví dụ gần đây nhất là dự án hệ thống thoát nước Vạn Kiếp – Hoàng Hoa Thám (Bình Thạnh). Ban giám sát của cộng đồng ở đây đề nghị được cung cấp thông tin chi tiết về dự án song cứ bị lần lữa trì hoãn mãi. Điều 34 đó cho thấy chúng ta đang thiếu cơ chế công khai hóa thông tin về thu , chi sử dụng tài chính của bộ máy nhà nước. Theo Tổ chức minh bạch quốc tế (IT), năm 1999 Việt Nam còn đứng hạng 75 thế giới về mức độ tham nhũng nhưng đến năm 2005 đã tụt xuống hạng 107. Việt Nam thua xa cả Lào (77), Mông Cổ (85), Trung Quốc (78), Thái Lan (59), Malaysia (39), Singapore (5). Về mặt kinh tế : Từ khi nhà nước có chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đến nay hàng loạt công ty đã bị định giá thấp hơn giá trị thực của doanh nghiệp làm thất thoát rất nhiều tài sản của nhà nước. Mặc dù theo nghị định 187 Chính Phủ yêu cầu phải đưa cổ phần ra đấu giá công khai nhằm đưa giá trị doanh nghiệp về sát với giá thị trường nhưng việc thực hiện vẫn không ổn do vẫn còn quá nhiều bất cân xứng thông tin. Theo quy định, việc đấu giá phải được đăng trên báo Trung ương vá báo địa phương trong 3 số liên tiếp nhưng cách doanh nghiệp thường đăng trên những tờ báo ít người đọc. Ví dụ điển hình như việc dấu các quyết định thuê đất trong cuộc đấu giá cổ phần của công ty Intimex (thuộc Bộ Thương Mại) cho đến khi đấu giá xong thì các nhà đầu tư mới vỡ lẽ công ty đang nắm giữ một khối bất động sản khổng lồ vừa được cơ quan có thẩm quyền cho thuê. Thông tin thiếu minh bạch, bất cân xứng thông tin không chỉ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư mà cò làm thất thoát của cải nhà nước, tạo nên những tệ nạn cản trở sự phát triển của nước nhà. 2.2 Thất bại của thị trường và sự phát triển của thị trường chứng khoán 2.2.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam Thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập từ tháng 7/2000 đến nay đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy còn non trẻ nhưng TTCK Việt Nam bước đầu đã góp phần hình thành một mô hình thị trường vốn tương đối toàn diện, tạo lập và vận hành kênh huy động vốn trung dài hạn cho nền kinh tế. Từ hai công ty niêm yết tại 35 Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM trong những ngày đầu thì đến hết 31/12/2006 đã có 106 công ty niêm yết. Bảng 2.1 Tình hình niêm yết từ năm 2000 đến hết 31/12/2006: Số loại CK niêm yết Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 31/12/06 Cổ phiếu 5 11 20 22 26 32 106 Chứng chỉ quỹ 0 0 0 0 1 1 2 Trái phiếu công ty 1 2 2 2 1 0 3 Nguồn : Báo cáo tình hình quản lý, giám sát và hoạt động năm 2006 của các tổ chức tham gia thị trường Đến tháng 3/2005 TTCK có thêm Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, được hoạt động theo cơ chế thỏa thuận. Số lượng công ty cổ phần đăng ký giao dịch trên sàn Hà Nội cũng tăng nhanh đặc biệt là trong năm 2006, nếu tính đến 30/06/2006 có 12 công ty đăng ký giao dịch trên sàn thì đến 31/12/2006 có tới 87 công ty đăng ký giao dịch. Tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tính theo giá thị trường đến 31/12/2006 đạt 221.156 tỷ đồng, chiếm 22.7% GDP của năm 2006, tăng 20 lần so với cuối năm 2005. Ngoài ra, việc niêm yết trái phiếu cũng tăng đáng kể, đến 31/12/2006 có gần 400 loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị trên 70.000 tỷ đồng bằng 7.7% GDP của năm 2006. Trong đó có 3.550 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), khoảng 1.000 tỷ đồng là các loại chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán. Năm 2006 số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường tăng hơn 3 lần so với cuối năm 2005, đến hết năm 2006 có khoảng 100.000 tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán, tăng mạnh so với 31.300 tài khoản của năm 2005. Trong đó 1.700 tài khoản (chiếm 1.7%) của nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm một số nhà đầu tư quốc tế như JP Morgan, MerrII Lynch, Citigroup… 36 Những tháng đầu năm 2007 là sự bùng nổ của TTCK Việt Nam, theo UBCK thì cho đến cuối tháng 5 năm 2007 các nhà đầu tư trên cả nước đã mở đến 200.000 tài khoản để giao dịch chứng khoán nhiều gấp 2 lần so với cuối năm 2006, tuy nhiên con số này chỉ mới chiếm 2,5% dân số, còn rất thấp so với các nước như Trung Quốc(6%). 2.2.2 Thất bại của thị trường trên thị trường chứng khoán 2.2.2.1 Tác động của bất cân xứng thông tin đến thị trường chứng khoán Việt Nam Thất bại lớn nhất trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là bất cân xứng thông tin - bất cân xứng thông tin giữa các nhà đầu tư, giữa doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Bất cân xứng thông tin sẽ dẫn đến việc đưa ra các quyết định không chính xác của nhà đầu tư từ đó sẽ tạo ra lượng cung, lượng cầu ảo trên thị trường và kết quả là thị trường bong bóng và nguy cơ đỗ vỡ thị trường. Trên thị trường sơ cấp, bất cân xứng thông tin sẽ dẫn đến sự phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả vào các dự án và trên cả hai thị trường sơ cấp, thị trường thức cấp, bất cân xứng thông tin sẽ gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Bất cân xứng thông tin làm mất niềm tin ở các nhà đầu tư về một sân chơi bình đẳng, gây tâm lý bất an và chán nản dẫn đến việc rút vốn khỏi thị trường của các nhà đầu tư, và việc chuyển nguồn vốn vào các kênh đầu tư khác hoặc ở thị trường chứng khoán của các nước khác. Như ta biết, nguồn vốn FII vào Việt Nam thông qua việc đầu tư vào các công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán. Nhưng với môi trường kinh doanh không công bằng và thiếu minh bạch như vậy liệu có đủ lực hấp dẫn để nhà đầu tư nước ngoài đổ vốn vào Việt Nam theo kênh này không? Không tự dưng mà các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ hàng ngàn tỷ đô vào thị trường chứng khoán New York, bởi vì ở đó họ yên tâm rằng họ đang đầu tư trong một môi trường công bằng và minh bạch, ở đó nếu tính toán và phân tích vượt trội người khác họ sẽ chiến thắng, và ở đó có những quy định chặt chẽ để bảo vệ những nhà đầu tư lành mạnh xử lý một cách triệt để những trò lừa gạt, đánh lận con đen. 37 2.2.2.2 Đánh giá thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2.2.2.2.1 Các kênh thông tin thị trường chứng khoán ở Việt Nam: Trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay tồn tại một số kênh thông tin chủ yếu cho nhà đầu tư : + Thông tin từ tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán. Thông tin từ các tổ chức trên là dạng thông tin gốc, độ tin cậy cao. Quy trình công bố thông tin và nội dung của thông tin được công bố của các tổ chức này cũng được luật chứng chứng khoán quy định + Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán : Đây là kênh cung cấp các thông tin thông tin tổng quát về thị trường chứng khoán như : Thông tin về giao dịch chứng khoán; về tổ chức niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán, thông tin về công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, thông tin về giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán. + Thông tin từ phương tiện truyền thông, từ đánh giá của các chuyên gia : nguồn thông tin này cung cấp cho nhà đầu tư những phân tích cơ bản, những nhận định về xu hướng của thị trường hay về những vấn đề liên quan đến thị trường chứng khoán. Nhìn chung, thông tin ở kênh này thường định hướng tâm lý đầu tư, các nhà đầu tư dễ bị cuốn theo những phân tích và nhận định này. Vì vậy, có một số thành phần lạm dụng quyền của mình để cố tình định hướng các nhà đầu tư, thu lợi cá nhân. Nhà đầu tư cần phải tỉnh táo nhận định các phân tích từ kênh thông tin này, chí ít có thể phân biệt thông tin của các chuyên gia kinh tế và thông tin của các tay mơ . + Thông tin có được từ các kênh không chính thức khác: như thông tin từ nội bộ công ty, tổ chức, thông tin rỉ tai bên lề, thông tin mua được. 2.2.2.2.2 Chất lượng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam : Khi đầu tư vào cổ phiếu của một công ty nào đó thì nhà đầu tư rất quan tâm về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của nó. Báo cáo tài chính là nguồn thông tin 38 cần thiết để nhà đầu nắm được những chỉ số cũng như năng lực của công ty. Về nguyên tắc, tất cả các công ty cổ phần đều phải công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán cho các cổ đông. Tuy nhiên, về chất lượng của các báo cáo tài chính này như thế nào thì đó còn là vấn đề cần xem xét. Chất lượng của thông tin tùy thuộc vào nhiều yếu tố: + Các tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên : Đối với các công ty niêm yết trên thị trường tập trung, các công ty đại chúng báo cáo tài chính phải được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán được chấp thuận (tức là các công ty kiểm toán độc lập thuộc danh mục các công ty kiểm toán được Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước chấp thuận kiểm toán theo điều kiện do Bộ Tài Chính đề ra). Như vậy, một mặt nào đó thì chất lượng kiểm toán của các công ty này cũng tương đối hơn các công ty kiểm toán nhỏ lẻ khác.Tuy nhiên, không phải bất kỳ tổ chức kiểm toán nào được Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước chấp thuận đều cho kết quả tin cậy. Vấn đề là còn ở chổ đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức kiểm toán trong quá trình thực hiện kiểm toán các doanh nghiệp. Cho đến cuối tháng 05/2006 cả nước có 95 công ty kế toán kiểm tóan trong đó có 3 công ty nhà nước, 4 công ty có 100% vốn nước ngoài, 16 công ty hợp danh,14 công ty cổ phần, còn lại là TNHH. Trong đó có 87 công ty đủ điều kiện hành nghề. Kiểm toán cũng là một lọai hình dịch vụ, công ty kiểm toán họat động cũng nhằm mục đích thu lợi nhuận vì vậy sự cạnh tranh của các công ty kiểm tóan sẽ đưa đến giá phí thấp và như vậy cũng một phần nào đó làm chất lượng kiểm toán bị ảnh hưởng Thế nhưng, với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán thì số lượng công ty đại chúng, công ty niêm yết càng gia tăng nhưng số lượng công ty kiểm toán được chấp thuận không tăng, có 12 công ty kiểm toán được chấp thuận nhưng cho đến cuối tháng 3 vừa qua, Công ty TNHH Dịch vụ kiểm toán và Tư vấn kế toán BHP đã bị mất quyền được kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán, do không đủ số lượng kiểm toán viên theo yêu cầu. Như vậy chỉ còn 11 công ty kiểm toán trong khi có tới 199 doanh nghiệp niêm yết và 6 công ty chứng khoán. Như vậy, về số lượng đã không đủ đáp ứng như cầu của thị trường . 39 Theo quy định, một công ty kiểm toán được thành lập 3 năm và có từ 10 kiểm toán viên trở lên thì sẽ đủ điều kiện trở thành công ty kiểm toán được chấp thuận. Vì vậy, để đảm đủ số lượng kiểm toán viên thì các công ty kiểm toán sẽ sẵn sàng tuyển dụng ngay lập tức nếu gặp một ứng cử viên có đủ điều kiện theo quy định. Việc tuyển dụng không sàn lọc, phải lo chạy theo chỉ tiêu số lượng sẽ làm cho chất lượng nhân sự trong các công ty kiểm toán giảm đi và điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Ngoài ra, việc vi phạm luật kiểm toán vẫn còn tồn tại nhưng chưa được phát hiện xử lý như việc nhân viên kiểm toán lợi dụng mối quan hệ công việc để mua cổ phần tại các công ty được kiểm toán, làm kiểm toán một lúc cho hai nơi, nhận lợi ích vật chất từ các công ty được kiểm toán. Những tồn tại này làm cho chất lượng báo báo tài chính không cao, có thể làm sai lệch nội dung báo cáo tài chính. Thông tin từ báo chí : Trong thời gian qua, sự phát triển của thị trường chứng khoán không thể không kể đến vai trò của báo chí. Thông qua các phương tiện truyền thông mà chứng khoán đến với nhà nhà, người người. Nhà đầu tư ở nước ngoài cũng biết đến và tìm hiểu thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua báo chí và các phương tiện truyền thông khác. Trước các văn bản pháp luật về TTCK, báo chí đóng vai trò quan trọng nhất trong việc tham gia phân tích, phản biện. Bên cạnh đó, báo chí cũng là công cụ đắc lực trong việc thúc ép các công ty niêm yết công bố thông tin ra thị trường. Sau khi những thông tin của doanh nghiệp được công bố, báo chí phải tiếp tục phân tích và đào sâu. Ngoài các tác động tích cực mà báo chí đã đem đến cho thị trường chứng khoán Việt Nam thì vẫn còn tồn tại những tiêu cực như: Thông tin về cổ phiếu, về doanh nghiệp qua ngòi bút của một số nhà báo trở thành công cụ tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư nhằm thay đổi xu hướng thị trường theo hướng có lợi cho một số nhà đầu tư hay cho chính các nhà báo. Một lý do không kém phần quan trọng đó là do sự hiểu biết của các nhà báo về chứng khoán còn quá hạn hẹp, nên khả năng bình luận về thị trường chứng khoán cũng 40 hạn chế đều đó dẫn đến chất lượng thông tin họ gới đến người đọc rất kém. Điển hình: Báo tiền phong điện tử đăng vào ngày 12/01/2007 thông tin về SJS "sập sàn". Thực chất là do SJS chia 3 cổ phiếu thưởng cho 1 cổ phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của công ty giảm tương ứng từ 728.000đ/CP xuống còn 190.000đ/CP. Các nhà báo dường như phải chạy theo thị trường nên họ không kịp trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về thị trường, thường bình luận theo cảm giác và cường điệu hóa vấn đề xung quanh sự thay đổi của thị trường. Đặc điểm của thị trường chứng khoán ở Việt Nam là số lượng nhà đầu tư cá nhân chiếm đa số, và hiện tượng chơi theo phong trào, theo cảm tính tuy có giảm nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều. Đa số những nhà đầu tư này mua bán theo tin đồn bên ngoài, từ các bài luận trên báo chí, do đó chỉ cần những lời bình có điểm nhấn là có thể thay đổi quan điểm của họ. Vì vậy, báo chí cần cẩn trọng trong việc đưa ra các bình luận về thị trường và bình luận một cách khách quan, không đưa cảm xúc của mình vào bài viết, hãy để cho nhà đâu tư tự quyết định. 2.2.2.2.3 Khâu tổ chức quản lý của các tổ chức công bố thông tin Ngoài các thông tin trên báo cáo tài chính định kỳ thì các thông tin bất thường liên quan đến hoạt động của công ty cũng rất cần thiết cho nhà đầu tư. Có ý kiến cho rằng ( theo báo điện tử vnexpress.net) thông tin từ công ty niêm yết trước khi công khai phải được gởi đến trung tâm giao dịch chứng khoán kiểm duyệt tính xác thực và thường là được công bố đến các nhà đầu tư sau 1 thời gian là 2 đến 3 ngày. Thông tin này đến được nhà đầu tư thì giá trị của nó đã giảm đi nhiều lần vì đã có những giao dịch trước đó làm cho nhà đầu tư khi nhận thông tin thì trong sự “đã quá muộn“ Thực tế là theo luật công bố thông tin, các công ty niêm yết phải có trách nhiệm công bố thông tin cho công chúng đồng thời gởi lên TTGDCK các thông tin đã công bố. Vậy nhưng, các công ty, các tổ chức đã không thực hiện theo luật, họ chỉ gởi thông tin lên cho UBCK là xong nhiệm vụ, không quan tâm đến việc phải công bố kịp thời thông tin ra công chúng trên các trang điện tử, trên các phương tiện thông tin đại chúng. Như vậy việc rò rĩ thông tin làm cho thông tin đến khi được công bố giảm giá trị 41 đáng kể không chỉ do các tổ chức quản lý thị trường chứng khoán như UBCKNN hay TTGDCK mà ngay tại các doanh nghiệp – nơi đẻ ra các thông tin đó. 2.2.2.3 Biểu hiện bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam + Gian lận thông tin : Hiện nay, trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam tình trạng thổi phồng thông tin có lợi cho doanh nghiệp nhằm định hướng cho dư luận đánh giá chứng khoán cao hơn thực tế là không ít. Ngay chính bản thân tôi cũng được chào mời mua cổ phiếu của công ty Cổ Phần Kỹ Nghệ Lạnh Searefico với giá gấp 12 lần mệnh giá với các thông tin như sắp tăng vốn đủ 80 tỷ để niêm yết vào tháng tới, sắp được chia cổ phiếu thưởng với tỷ lệ hấp dẫn, và hãy mua đi vì giá lên hàng ngày....Thông tin này được cung cấp bởi một cán bộ có vị trí kha khá trong công ty. Có thể thấy, việc sử dụng thông tin như một công cụ biến hóa để đưa giá cổ phiếu tăng lên nhiều lần so với mệnh giá là phổ biến. Vào trang web sàn OTC là có thể thấy ngay, kiểm chứng 10 trường hợp rao bán, rao mua của Công ty Cổ Phần Đầu Tư và Phát Triển Xây Dựng INVESTCO thì đã có hết 8 trường hợp là thổi phồng thông tin, thổi phồng giá, cung cầu giả. Các tổ chức không thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin kịp thời: Luật đầu tư chứng khoán quy định rất rõ thời hạn các loại hình tổ chức phải công bố thông tin cho nhà đầu tư nhưng thực tế thì các tổ chức gần như không thực hiện cũng như thực hiện một cách chậm trễ. Ngoài các thông tin mà luật quy định phải công bố thì các tổ chức đã không cung cấp các thông tin bất thường có liên quan đến giá cổ phiếu cho nhà đầu tư ; bảng cáo bạch được báo cáo một cách sơ sài, không đầy đủ những thông tin cần thiết và quan trọng. Doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư: Đó là việc ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfKhắc phục thất bại của thị trường – tiến tới xây dựng thị trường hiệu quả ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan