Sau khi các thí nghiệm khảo sát khả năng xúc tác
của nước phèn sắt trong hệ H2O2/nước phèn đã
được tiến hành như đã mô tả trong phần thực
nghiệm. Kết quả thực nghiệm trong Hình 2 cho
thấy rằng giá trị COD của nước thải đều giảm
theo thời gian phản ứng. Điều này có thể kết luận
rằng khả năng xúc tác của nước phèn đã được thể
hiện và hiệu quả giảm COD đối với nước thải sẽ
được nâng cao đối với các thí nghiệm ứng với thể
tích xúc tác (nước phèn) càng cao. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu này, thể tích nước phèn chỉ được
sử dụng ở mức cao nhất là 5 mL. Điều này được
lý giải như sau: thể tích nước phèn cao (> 5 mL)
sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá chính xác hoạt
tính xúc tác của nước phèn (bởi quá trình pha
loãng khi cho nước phèn vào nước thải); tránh
làm thay đổi thành phần cơ bản của nước thải dệt
nhuộm và không cần keo tụ tách xúc tác sắt ra
khỏi hỗn hợp sau xử lý. Nhưng với hàm lượng
xúc tác thấp, quá trình xử lý sẽ diễn ra dài hơn
(thời gian kéo dài đến 24 giờ và hiệu quả giảm
COD nước thải là 96 % ứng với thể tích nước
phèn được sử dụng là 5 mL). Điều này giống với
các nghiên cứu trước đây trên hệ Fenton trong các
quá trình xử lý nước thải (Nguyễn Văn Phước và
Võ Chí Cường, 2010; Trần Mạnh Trí và Trần
Mạnh Trung, 2004).
5 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát hoạt tính xúc tác của nước phèn trong xử lý nước thải dệt nhuộm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Journal of Science – 2014, Vol. 4 (3), 109 – 113 An Giang University
109
KHẢO SÁT HOẠT TÍNH XÚC TÁC CỦA NƯỚC PHÈN TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI
DỆT NHUỘM
Nguyễn Trung Thành
1
, Nguyễn Hồng Nhật
2
1
TS. Khoa Kỹ thuật-Công nghệ & Môi trường, Trường Đại học An Giang
2
Khoa Kỹ thuật-Công nghệ & Môi trường, Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 30/06/14
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
05/09/14
Ngày chấp nhận đăng:
22/10/14
Title:
An investigation on the
catalytic activity of the iron
alum-water in textile
wastewater treatment
Từ khóa:
Hệ Fenton, nồng độ xúc tác sắt
thấp, nước phèn, nước thải dệt
nhuộm
Keywords:
Fenton system, iron alum-
water, low concentration of
iron catalyst, textile
wastewater
ABSTRACT
Iron alum-water is natural water with a high concentration of metal ions and
presents itself almost everywhere in the environment. In this study, the catalyst
function of iron alum-water is investigated in the H2O2/iron alum-water system
toward the textile wastewater treatment. The experimental results show that the
H2O2/iron alum-water system is more advantageous than that of Fenton system
with the same concentration of iron catalyst in textile wastewater treatment. For
example, for H2O2/iron alum-water system activity, it can highly decrease COD
of wastewater from 12000 mgO2/L down to 490 mgO2/L at pH ~2.0; 0.2 mL of
H2O2 in 24 hours of reaction time; for Fe2SO4/H2O2 system, wastewater COD
was in low reduction under the same experimental conditions and iron catalyst
concentration. The higher pH conditions (pH ≈ 5.0), the H2O2/iron alum-water
system activity has still been in stability I do not understand; while the
Fe2SO4/H2O2 system activity is decreased in the same experimental conditions.
This study shows that there are many advantages of iron alum-water in
environmental treatment, including re-use of wastewater in environmental
treatment application, no-use (or less use) of chemicals, and no-sludge after the
treatment.
TÓM TẮT
Nước phèn là nước tự nhiên có nồng độ ion kim loại cao và có mặt khắp nơi
trong tự nhiên. Trong nghiên cứu này, nước phèn được sử dụng với vai trò là xúc
tác trong hệ tác chất H2O2/nước phèn để xử lý nước thải dệt nhuộm. Kết quả thực
nghiệm cho thấy hệ tác chất H2O2/nước phèn có nhiều ưu điểm vượt trội so với
các hệ oxy hoá cổ điển - hệ Fenton. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận được
kết quả rất thú vị đó là hệ H2O2/nước phèn có thể xử lý nước thải dệt nhuộm
(COD đầu vào ~ 12000 mgO2/L) có thể giảm COD rất nhiều (COD đầu ra ~490
mgO2/L) ở điều kiện pH ~ 2,0; 0,2 mL H2O2 và thời gian thực hiện 24 giờ ; trong
khi đó, hệ H2O2/Fe2SO4 lại cho hiệu quả thấp hơn ở cùng điều kiện thí nghiệm
và cùng nồng độ xúc tác ion sắt. Ở các điều kiện thí nghiệm với pH cao hơn (pH
≈ 5.0), hệ H2O2/nước phèn vẫn giữ hoạt tính ổn định; trong khi đó hoạt tính của
hệ H2O2/Fe2SO4 giảm ở cùng điều kiện thí nghiệm. Nghiên cứu này đã thỏa mãn
các mong đợi trong xử lý môi trường như sử dụng các chất thải để xử lý môi
trường, hạn chế sử dụng hóa chất, không tạo chất thải rắn (bùn từ quá trình kết
tủa xúc tác sắt).
1. GIỚI THIỆU
Trong các ngành sản xuất thì ngành dệt nhuộm là
một trong các ngành sử dụng nhiều nước, do đó
lưu lượng nước thải khá lớn và dòng thải có chứa
nhiều chất gây ô nhiễm nên cần phải xử lý trước
khi thải ra môi trường (như: thuốc nhuộm, hóa
chất phụ gia được sử dụng trong quá trình
Journal of Science – 2014, Vol. 4 (3), 109 – 113 An Giang University
110
nhuộm). Để xử lý loại nước thải này, quá trình
oxy hóa nâng cao được sử dụng rất phổ biến,
trong đó hệ Fenton cổ điển được nghiên cứu và
đưa vào ứng dụng rộng rãi trong thực tế. Vào năm
2005, tác giả K. Barbusiński đã công bố kết quả
nghiên cứu khả năng làm giảm độ màu của nước
thải dệt nhuộm bằng hệ Fenton, hay nghiên cứu
của hai tác giả là Ganesan.R, và Thanasekaran.K
được công bố năm 2011 về khả năng giảm độ màu
trong nước thải dệt nhuộm bằng hệ Fenton/quang
học. Tại Việt Nam, hai tác giả là Trần Mạnh Trí,
Trần Mạnh Trung đã công bố kết quả nghiên cứu
quá trình oxy hóa nâng cao trong xử lý nước và
nước thải vào năm 2005, và đến năm 2010, tác giả
Nguyễn Văn Phước và Võ Chí Cường đã công bố
nghiên cứu nâng cao hiệu quả xử lý COD khó
phân hủy sinh học trong nước rác bằng phản ứng
Fenton.
Đối với nghiên cứu này, các thí nghiệm được tiến
hành nhằm chứng minh khả năng xúc tác của
nước phèn trong hệ H2O2/nước phèn (tương tự
như hệ Fenton cổ điển với nồng độ xúc tác sắt
thấp) để giảm giá trị COD của nước thải dệt
nhuộm, và tận dụng nguồn tác chất tự nhiên là
nước phèn bề mặt với vai trò là xúc tác trong hệ
H2O2/nước phèn thay cho xúc tác nhân tạo. Nước
phèn bề mặt được hình thành từ quá trình rửa trôi
phèn từ đất vào ao, hồ đầm lầy hay từ quá trình
mao dẫn khoáng halotrichite lên mặt đất. Tại khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long thì đất phèn
chiếm một diện tích khá lớn (63,4 % trên tổng 2,4
triệu ha diện tích nhóm đất mặn và đất phèn, hàm
lượng Fe
3+
khoảng 10,78 mg/100 g đất, hàm
lượng Al
3+
khoảng 4,28 mg/100 g đất (Hồ Quang
Đức và cs., 2011). Do đó trong nước phèn bề mặt
thì hàm lượng của các ion kim loại này cũng
tương đối cao (hàm lượng sắt tổng khoảng 25
ppm, nhôm tổng vào khoảng 8,5 ppm (Lương Thị
Kiều Trinh, 2013) rất phù hợp với yêu cầu nghiên
cứu.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1 Vật liệu nghiên cứu
Nước tự nhiên nhiễm phèn: được thu trực tiếp từ
các đầm lầy tại xã Tân Tuyến, huyện Tri Tôn, tỉnh
An Giang (lấy mẫu, bảo quản và lọc mẫu được
tiến hành theo TCVN 6663-1:2011(Bộ Khoa học
và Công nghệ [BKHCN], 2011) và TCVN 6663-
3:2008 (BKHCN, 2008).
Nước thải dệt nhuộm: được lấy tại một cơ sở dệt
nhuộm thuộc thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.
Nước thải được lọc và lưu trữ ở nhiệt độ 4
o
C theo
TCVN 6663-1:2011(BKHCN, 2011) và TCVN
6663-3:2008 (BKHCN, 2008).
2.2 Phương pháp phân tích:
Chất lượng nước tự nhiên nhiễm phèn: (chủ yếu là
hàm lượng các ion sắt và các ion khác có hàm
lượng thấp) được xác định bằng phương pháp
quang phổ hấp thu nguyên tử với máy ICP.
Chất lượng nước thải dệt nhuộm và đánh giá hiệu
quả hoạt tính xúc tác của nước phèn: được đánh
giá thông qua chỉ tiêu COD (chỉ số COD được xác
định theo TCVN 6491 - 1999 (Bộ Khoa học,
Công Nghệ và Môi trường, 1999).
2.3 Bố trí thí nghiệm
Các thí nghiệm trong nghiên cứu được thực hiện
theo mẻ và tiến hành như sau: Hỗn hợp phản ứng
gồm có 100 mL nước thải; 0,2 mL dung dịch
H2O2 (30 % thể tích); một lượng nước phèn thích
hợp (lượng nước phèn có thể tích thay đổi từ 0
5,0 mL với bước nhảy 0,5 mL) được khuấy trộn
và điều chỉnh đến pH 2. Sau đó hỗn hợp phản
ứng được giữ ổn định (không khuấy trộn) trong
suốt quá trình phản ứng. Đến một khoảng thời
gian thích hợp thì thu và phân tích mẫu để đánh
giá hiệu quả xúc tác của nước phèn đối với việc
giảm COD của nước thải. Các yếu tố như thể tích
của nước phèn và thời gian xử lý ảnh hưởng đến
hiệu quả xử lý được quan tâm trong nghiên cứu
này. Đối với thí nghiệm đối chứng, chúng tôi sử
dụng dung dịch muối sắt (II) – FeSO4, có cùng
nồng độ với nồng độ ion sắt trong nước phèn. Thí
nghiệm được tiến hành giống như thí nghiệm của
nước phèn; tuy nhiên ở đây chỉ thay thế nước
phèn sắt bằng dung dịch muối Sắt (II) có cùng thể
tích. (Lưu ý rằng, trong nghiên cứu này mỗi thí
nghiệm được lặp lại 3 lần).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Thành phần hóa học cơ bản của nước phèn
và chất lượng nước thải dệt nhuộm
Trong các nghiên cứu về hệ Fenton và khả năng
phân hủy H2O2 cho thấy rằng các ion sắt và kim
loại nặng giữ vai trò xúc tác quan trọng (Đào Sỹ
Đức và cs., 2009; Trần Mạnh Trí và Trần Mạnh
Trung, 2004). Do đó, trong nghiên cứu này, sự có
mặt và hàm lượng của các ion kim loại có trong
nước phèn được đặc biệt chú ý đến. Từ kết quả
Journal of Science – 2014, Vol. 4 (3), 109 – 113 An Giang University
111
phân tích (Bảng 1), cho thấy rằng thành phần hóa
học cơ bản của nước phèn khá đa dạng, đặc biệt là
các ion sắt chiếm tỷ lệ cao nhất trong thành phần
nước phèn (≈ 25,20 ppm). Đồng thời, giá trị COD
của nước phèn cũng được xác định là 35 mgO2/L.
Đối với nước thải dệt nhuộm, chúng tôi chỉ quan
tâm đến chỉ số COD; vì đây là chỉ tiêu đặc trưng
và quan trọng nhất đối với nước thải loại này. Giá
trị COD đầu vào của nước thải được xác định là
12.000 mgO2/L (và pH ≈ 5,5).
Bảng 1. Thành phần hóa học cơ bản của nước phèn.
STT Ion kim loại Nồng độ (ppm)
1 Sắt 25,20
2 Nhôm 8,50
3 Đồng 0,95
4 Silic 6,00
3.2 Vai trò xúc tác của nước phèn
Trong nghiên cứu này, để bỏ qua ảnh hưởng của
quá trình pha loãng của nước thải bởi nước phèn,
các thí nghiệm đã được tiến hành với một lượng
nước phèn có thể tích 5 mL. Ảnh hưởng của thể
tích nước phèn đến giá trị COD của nước thải
được thể hiện trong Bảng 2. Từ các số liệu thực
nghiệm được thể hiện trong Bảng 2, cho thấy rằng
ảnh hưởng của giá trị COD của nước thải sau khi
thêm nước phèn (thể tích nước phèn thêm vào từ
0,0 đến 5,0 mL) có ảnh hưởng nhỏ và không đáng
kể, do đó có thể bỏ qua để việc đánh giá kết quả
dễ dàng hơn.
Bảng 2. Sự thay đổi giá trị COD của nước thải dệt nhuộm khi pha loãng bởi nước phèn
Thể tích nước phèn (mL) Thể tích nước thải dệt nhuộm (mL) COD (mgO2/L)
Giảm COD của nước thải
(%)
0,0 100,0 12.000 10 0,00
1,0 100,0 12.000 13 0,00
2,0 100,0 11.994 07 0,05
3,0 100,0 11.990 11 0,08
4,0 100,0 11.970 06 0,25
5,0 100,0 11.950 14 0,42
3.2.1 Ảnh hưởng thể tích nước phèn - xúc tác đến
hiệu quả xử lý COD của nước thải và so sánh khả
năng cùng với muối sắt (II)
Sau khi các thí nghiệm khảo sát khả năng xúc tác
của nước phèn sắt trong hệ H2O2/nước phèn đã
được tiến hành như đã mô tả trong phần thực
nghiệm. Kết quả thực nghiệm trong Hình 2 cho
thấy rằng giá trị COD của nước thải đều giảm
theo thời gian phản ứng. Điều này có thể kết luận
rằng khả năng xúc tác của nước phèn đã được thể
hiện và hiệu quả giảm COD đối với nước thải sẽ
được nâng cao đối với các thí nghiệm ứng với thể
tích xúc tác (nước phèn) càng cao. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu này, thể tích nước phèn chỉ được
sử dụng ở mức cao nhất là 5 mL. Điều này được
lý giải như sau: thể tích nước phèn cao (> 5 mL)
sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá chính xác hoạt
tính xúc tác của nước phèn (bởi quá trình pha
loãng khi cho nước phèn vào nước thải); tránh
làm thay đổi thành phần cơ bản của nước thải dệt
nhuộm và không cần keo tụ tách xúc tác sắt ra
khỏi hỗn hợp sau xử lý. Nhưng với hàm lượng
xúc tác thấp, quá trình xử lý sẽ diễn ra dài hơn
(thời gian kéo dài đến 24 giờ và hiệu quả giảm
COD nước thải là 96 % ứng với thể tích nước
phèn được sử dụng là 5 mL). Điều này giống với
các nghiên cứu trước đây trên hệ Fenton trong các
quá trình xử lý nước thải (Nguyễn Văn Phước và
Võ Chí Cường, 2010; Trần Mạnh Trí và Trần
Mạnh Trung, 2004).
Journal of Science – 2014, Vol. 4 (3), 109 – 113 An Giang University
112
3.2.2 So sánh khả năng xúc tác của nước phèn
và xúc tác sắt trong hệ Fenton
Để so sánh khả năng xúc tác của hệ H2O2/nước
phèn và hệ H2O2/Fe
2+
(hệ Fenton cổ điển với nồng
độ xúc tác thấp) các thí nghiệm được thực hiện có
điều kiện giống nhau và nồng độ Fe
2+
sử dụng là
giống nhau đối với cả hệ H2O2/Fe
2+
và H2O2/nước
phèn. Từ các kết quả thí nghiệm thể hiện trong
Hình 3 cho thấy rằng các đường cong thể hiện sự
giảm COD của nước thải theo thời gian của hệ
H2O2/nước phèn và H2O2/Fe
2+
tương thích nhau
khá cao. Điều này có thể kết luận rằng vai trò xúc
tác của nước phèn thì được thực hiện chủ yếu bởi
ion sắt. Do vậy hệ H2O2/nước phèn và hệ
H2O2/Fe
2+
có thể có ứng xử giống nhau trong xử
lý các hợp chất hữu cơ trong nước thải tại điều
kiện thí nghiệm pH = 2
Bảng 3. So sánh hoạt tính của hệ H2O2/nước phèn và
hệ H2O2/Fe
2+ trong xử lý nước thải dệt nhuộm ở điều
kiện pH khác nhau
Giá trị pH
Giá trị COD (mgO2/L)
H2O2/nước phèn H2O2/Fe
2+
2,0 490 ± 11 520 ± 09
4,0 720 ± 13 1012 ± 14
5,0 780 ± 05 5427 ± 05
7,0 4205 ± 09 10460 ± 09
Tuy nhiên, khi tiến hành các điều kiện thí nghiệm
có giá trị pH > 2, kết quả thực nghiệm ở Bảng 3
cho thấy rằng hoạt tính của cả hai hệ đều giảm đối
với các thí nghiệm có giá trị pH càng tăng. Điều
này rất phù hợp so với các kết quả thực nghiệm từ
các nghiên cứu trước đây về hệ tác chất Fenton
(Đào Sỹ Đức & cs., 2009). Điều này có thể là do
quá trình hydrat hóa các ion sắt trong nước được
diễn ra thuận lợi hơn ở pH cao; kéo theo là hiệu
quả xúc tác/xử lý nước thải giảm (Đào Sỹ Dức và
Vũ Thế Ninh, 2013). Đặc biệt, khi thực hiện các
thí nghiệm có pH cao, hiệu quả xúc tác của hệ
H2O2/Fe
2+
giảm nhanh hơn so với hệ H2O2/nước
phèn. Điều này có thể là do sự khác biệt về thành
phần hóa học giữa dung dịch Fe
2+
và nước phèn.
Trong nước phèn ngoài sự hiện diện của các cấu
tử sắt thì các cấu tử khác như nhôm, đồng, silic
cũng đã tìm thấy (Bảng 1). Dựa lý thuyết và các
nghiên cứu trước đây thì quá trình phân hủy H2O2
có thể thực hiện bởi các xúc tác đồng thể (là các
ion kim loại nặng như xúc tác Cu
2+
; Co
2+
và
Fe
3+
,...) (Nguyễn Văn Phước và Võ Chí Cường,
2010; Trần Mạnh Trí và Trần Mạnh Trung, 2004).
Do đó, sự hiện diện của các cấu tử này cũng đóng
vai trò xúc tác rất tốt trong quá trình phân hủy
H2O2 tạo các sản phẩm có khả năng oxi hóa (như
oxi nguyên tử, OH
*
) để thực hiện quá trình phân
hủy các hợp chất hữu cơ có trong nước thải ở các
điều kiện pH > 2.
4. KẾT LUẬN
Từ các kết quả thí nghiệm thu được chúng tôi có
một số kết luận như sau:
Hoạt tính xúc tác của nước phèn trong hệ
H2O2/nước phèn đã được chứng minh. Hệ tác chất
H2O2/nước phèn có khả năng xử lý môi trường rất
tốt. Tuy nhiên, quá trình xử lý được tiến hành
trong một khoảng thời gian khá dài, điều này là do
nồng độ của xúc tác thấp. Cụ thể là hệ H2O2/nước
phèn có thể giảm giá trị COD của nước thải dệt
nhuộm từ 12000 xuống 490 mgO2/L sau thời gian
24 giờ ở điều kiện pH = 2; thể tích nước phèn là 5
mL.
Hình 1. Ảnh hưởng thể tích nước phèn đến
giá trị COD của nước thải theo thời gian
Hình 2. Hiệu quả giảm COD của nước thải của
hệ H2O2/nước phèn và hệ H2O2/Fe
2+
Journal of Science – 2014, Vol. 4 (3), 109 – 113 An Giang University
113
Ngoài ra, hệ H2O2/nước phèn có khả năng hoạt
động ổn định ở các điều kiện pH ≤ 5,0. Điều này
có ý nghĩa kinh tế rất lớn (giảm lượng acid và xút
để chỉnh pH). Thêm vào đó, nồng độ ion sắt trong
dung dịch thấp, do vậy không nhất thiết phải thực
hiện quá trình keo tụ sắt. Đây là sự vượt trội so
với hệ H2O2/Fe
2+
(hoặc hệ Fenton cổ điển).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Khoa học và Công nghệ. (2008). TCVN 6663-
3:2008 - Chất lượng nước - Lấy mẫu - Phần 3:
Hướng dẫn bảo quản và xử lý mẫu.
Bộ Khoa học và Công nghệ. (2011). TCVN 6663-
1:2011 - Chất lượng nước - Lấy mẫu - Phần 1:
Hướng dẫn lập chương trình lấy mẫu và kỹ thuật
lấy mẫu.
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. (1999).
TCVN 6491:1999 - Chất lượng nước. Xác định nhu
cầu oxy hoá học.
Đào Sỹ Đức, Nguyễn Đắc Vinh, Đỗ Thị Hồng Nhung,
Hoàng Văn Hà, & Đỗ Quang Trung. (2009).
Nghiên cứu xử lý phẩm nhuộm Reactive Blue 161
bằng kỹ thuật oxy hóa tiên tiến sử dụng phản ứng
Fenton. Tạp chí Hóa học, 47 (2A): 48-53.
Đào Sỹ Đức & Vũ Thế Ninh. (2013). Phân hủy phẩm
nhuộm Reactive blue182 bằng kỹ thuật Fenton dị
thể sử dụng tro bay biến tính/H2O2. Tạp chí Phát
triển Khoa học & Công nghệ, tập 16, số T3: 13-21.
Ganesan.R, & Thanasekaran.K. (2011).
Decolourisation of textile dyeing Wastewater by
modified solar PhotoFenton Oxidation.
International Journal of Environmental Sciences, 1,
(6), 1168-1176.
Hồ Quang Đức, Nguyễn Văn Đạo, Trương Xuân
Cường & Lê Thị Mỹ Hảo. (2011). Đánh giá sự biến
động đất mặn và đất phèn vùng Đồng bằng sông
Cửu Long sau 30 năm sử dụng. Tạp chí Khoa học
và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, 1 (22).
K. Barbusiński. (2005). The Modified Fenton Process
for Decolorization of Dye Wastewater. Polish
Journal of Environmental Studies, 14(3), 281-285.
Lương Thị Kiều Trinh. (2013). Nghiên cứu khả năng
xúc tác của nước phèn trong xử lý nước thải dệt
nhuộm. (Luận văn đại học không xuất bản). Trường
Đại học An Giang. Việt Nam.
Nguyễn Văn Phước & Võ Chí Cường. (2010). Nghiên
cứu nâng cao hiệu quả xử lý COD khó phân hủy
sinh học trong nước rác bằng phản ứng Fenton. Tạp
chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 10, 1,
71-78.
Trần Mạnh Trí & Trần Mạnh Trung. (2004). Các quá
trình oxy hóa nâng cao trong xử lý nước và nước
thải. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_hoat_tinh_xuc_tac_cua_nuoc_phen_trong_xu_ly_nuoc_th.pdf