MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
6. Kết cấu của khóa luận
CHƯƠNG I: “DBHB” VÀ “DBHB” TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHIẾN LƯỢC “DBHB”.
1. Diễn biến hoà bình là gì ?
2. Bản chất của “DBHB”.
3. Âm mưu và thủ đoạn của chiến lược “DBHB”.
II. DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ - TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
1. Việt Nam đứng trước những thử thách mới:
2. Các chiến lược “DBHB” chủ yếu được Mỹ và các thế lực thù địch sử dụng chống Việt Nam.
3. Mục tiêu chiến lược “DBHB” của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá Việt Nam trên mặt trận văn hoá - tư tưởng.
4. Những phương tiện chủ yếu được chủ nghĩa đế quốc sử dụng để thực hiện chiến lược “DBHB”.
5. Các phương pháp chủ yếu thâm nhập văn hoá tư tưởng ở Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc trong chiến lược “DBHB”.
CHƯƠNG II : CHỐNG DIỄN BIẾN HOÀ CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
1. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trong cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc.
1.1. Nhận thức đúng đắn về tính sáng tạo và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh .
1.2. Nhận thức rõ bản chất của xã hội chủ nghĩa dân chủ, CNTB hiện đại, chống đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
1.3. Nhận thức đúng đắn các mối quan hệ giao lưu, hợp tác của các nước TBCN với các nước XHCN.
2. Các biện pháp chống “DBHB” của CNĐQ và các thế lực thù địch trên mặt trân văn hoá tư tưởng ở Việt Nam.
2.1. Đầu tranh chống “DBHB” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
2.2. Đấu tranh chống “DBHB” của CNĐQ là nhiệm vụ quan trọng trong quyết định sự tồn vong của chế độ XHCN ở Việt Nam .
2.3. Xây dựng Đảng vững mạnh về trình độ và tổ chức.
2.4. Xây dựng và củng cố chắc trận địa văn hoá -tư tưởng.
2.5. Tăng cường lãnh đạo, và quản lý công tác truyền thông đại chúng.
2.6. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chống sự xâm nhập của văn hoá phẩm độc hại.
2.7. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước XHCN cho thế hệ trẻ trong thời kỳ mới của cách mạng.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
86 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 27360 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Âm mưu và thủ đoạn của diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trên mặt trận văn hoá tư tưởng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện nay, Mỹ cho rằng Việt Nam không theo đường lối đa đảng, không theo tư bản chủ nghĩa nên đã tìm mọi thủ đoạn để làm cho những người cộng sản mơ hồ, mất phương hướng. Thủ đoạn phổ biến để tiến công tư tưởng vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là :
+ Lợi dụng triệt để những sai lầm, thất bại của Liên Xô và Đông Âu để “chớp thời cơ”, khuynh hướng cái gọi là “thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa tư bản”, vu cáo, xuyên tạc sự thật bằng cách khai thác những thông tin có thật nhưng bị cắt xén, thêm thắt những nội dung xấu.
+ Lợi dụng triệt để những sai lầm trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam để kích động nhân dân chống chế độ xã hội chủ nghĩa.
Suốt từ những năm 1975 đến nay, khi tiến hành các hoạt động tuyên truyền chống Việt Nam, dù bằng hình thức này các thế lực thù địch cũng đặc biệt chú ý lợi dụng và khoét sâu những yếu kém, những sai lầm trong hoạt động của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc cho rằng, “là một trong những nước cộng sản còn lại ở Châu Á, Việt Nam có lẽ là một quốc gia có nền chính trị lỗi thời nhất châu Á hiện bat, Trong khung cảnh vai trò chủ chốt về kinh tế và chính trị của khu vực, dân chủ hoá ở Việt Nam là rất quan trọng đối với nhân dân Việt Nam và sự lớn mạnh của khu vực. Do vậy, chính phủ Việt Nam cần chấp nhận những hình thức tự do chính trị, đa nguyên đa đảng”.
Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa đế quốc thúc đẩy “Đa nguyên hoá chính trị”, “chế độ đa đảng”, “chế độ phân quyền” ở Việt Nam là nhằm mục đích gieo rắc sự bất bình trong công chúng với Đảng Cộng sản và Nhà nước. Chúng kích động những lực lượng xã hội vốn không hoà hợp với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ nhièu năm qua đứng lên chống chế độ xã hội chủ nghĩa; ra sức tung “hoả mù” và thuyết phục các thế lực phản động trong và ngoài nước nổi dậy đòi chia quyền.
Chúng lợi dụng tầng lớp trí thức để chống lại nhân dân lao động, khuyên Việt Nam nên tiếp nhận những quan điểm phi mác xít về con đường phát triển của một “thế giới mới”. Để thực hiện chiến lược “Phương Tây hoá cả gói” trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc đã dụng mọi thủ đoạn hết sức tinh vi và khôn khéo như việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền ý thức hệ tư sản, thổi phồng quan niệm giá trị, “tự do, dân chủ, nhân quyền”, về “bình đẳng, công bằng, bác ái” của giai cấp tư sản, chúng còn đẩy nhanh việc thâm nhập văn hoá tư tưởng bằng đủ mọi hình thức: công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp; thông qua giao lưu dân gian và con đường ngoại giao.
Trong vài năm qua thông qua quan hệ hợp tác đào tạo, khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã từng bước lôi kéo cán bộ, đảng viên âm mưu đào tạo lớp người thân phương Tây ở Việt Nam. Cần lưu ý là chúng rất chú ý đến việc lựa chọn số con em các cán bộ chủ chốt, số cán bộ trẻ có năng lực, số văn nghệ sĩ, trí thức cấp tiến… để cho ra nưcớ ngoài đào tạo, nhằm đạt được các mục đích lâu đai. Nich Sơn ngạo mạn tuyên bố rằng: nếu như “tư tưởng tự do phương Tây chỉ cần chiếm lĩnh được trận địa tư tưởng trong các nước xã hội chủ nghĩa, ươm trồng được “những hạt giống tự do” thì tư tưởng tự do ấy sẽ đạp bằng mọi chướng ngại trên đường, phá tan mọi cánh cửa nhà lao, bóp chết và làm tan rã mọi nền chuyên chính tàn bạo” mọi cách khác, tư tưởng tự do hoá tư sản phương Tây sẽ lay chuyển cả nền móng các nước xã hội chủ nghĩa và cuối cùng sẽ lay chuyển cả thế giới vô sản… “ [19 - 167].
Như vậy, cái gọi là “tự do, dân chủ tư sản, đa nguyên hoá chính trị” mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đưa ra thực chất là “cấy” vào xã hội ta những nền tảng tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội và tạo thế cho các lực lượng phi xã hội chủ nghĩa phát triển và có chỗ đứng ở Việt Nam. Đến một lúc nào đó, khi có thêm “chất xúc tác” vào, các lực lượng này sẽ là những nhân tố tạo ra “ngòi nổ” làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, đây chính là phương pháp và công cụ chủ yếu của chiến lược “DBHB” mà các thế lực phương Tây tiến hành trong các nưcớ xã hội chủ nghĩa và ở Việt Nam.
Phương pháp 2 : Chủ nghĩa đế quốc sử dụng mạng lưới tình báo gián điệp trong “DBHB” chống phá Việt Nam.
Trong qúa trình thực hiện “DBHB” đối với Việt Nam, với kinh nghiệm “dùng cộng sản để chống cộng sản”, “dùng cộng sản để lật đổ cộng sản”, các thế lực thù địch rất chú trọng sử dụng các hoạt động ngầm. Tổ chức các đường daay tình báo gián điệp, vừa chống ta từ bên ngoài, vừa tìm mọi cách xâm nhập nội bộ ta gây cơ sở và hoạt động chia rẽ, phá hoại từ bên trong.
Hoạt động ngầm trong chiến lược “DBHB” đã được Mỹ và các thế lực thù địch tiến hành ngay từ khi khởi thao “kế hoạch hậu chiến” (1968). Để thực hiện “DBHB”, chúng huy động cả một hệ thống cơ quan mật vụ chỉ đạo hoạt động, thực hiện kế hoạch đối với từng nước mà các thế lực thù địch gọi là “hàng rào dân chủ”. Những năm gần đây, chúng chủ trương thông qua các tổ chức mang tính chất “phi chính phủ” để thực hiện các hoạt động tình báo. Bằng mọi cách làm, các thế lực đê quốc Mỹ và phản động quốc tế đã được Quốc hội Mỹ chi 35 triệu USD năm 1994 cho tổ chức hỗ trợ quốc gia vì dân chủ của Mỹ, trong đó chương trình “vận động dân chủ cho Châu Á” chi ngân sách Mỹ năm 1994 là 1,3 triệu USD.
Tổ chức “vận động dân chủ” của Mỹ tác động vào Việt Nam có hệ thống phối hợp hoạt động da dạng từ “Viện cộng hoà quốc tế” (IRI), “Trung tâm doanh nghiệp tư nhân quốc tế” (CIEF), đến “Viện dân chủ quốc gia” trực thuộc Đảng dân chủ. Các tổ chức này đã hoạt động ở các nước : Miến Điện, Campuchia, Thái Lan, Việt Nam, Xrilânghiên cứu, Băng-La-Đét…
Tổ chức phi chính phủ quan trọng nhất đó là “quĩ quốc gia vì dân chủ” (national. Endowent for Democracy. NEFD). Theo đánh giá của Thời báo Newyork time, quỹ này chính là một tổ chức được lập ra “để tránh hiện tượng nghi vấn cho rằng công việc nàh (dân chủ hoá) là do chính phủ Mỹ nhúng tay vào”. Như vậy, thực chất hoạt động của N
NEFD chỉ nhằm hợp pháp hoá, công khai hoá hoạt động tình báo của chúng mà thôi.
Hoạt động của các cơ quan mật vụ thực hiện “DBHB” đối với Việt Nam trong giai đoạn này chủ yếu là nhằm tác động vào nội bộ ta, gây mất ổn định và thúc đẩy hình thành các nhân tố chống đối từ bên trong.
Hoà đồng với chiến dịch “Cho một Việt Nam tự do” của chủ nghĩa đế quốc, các nước phương Tây còn nuôi dưỡng, dung túng cho các tổ chức phản động trong số kiều dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài tiến hành các hoạt động tuyên truyền chống lại Tổ quốc. Trong đó, chúng lập ra cái gọi là “Liên minh các phong trào đấu tranh giành tự do và dân chủ cho Việt Nam”, nhằm tập hợp mọi lực lượng chống cộng, đề ra “cương lĩnh canh tân”, kêu gọi các lực lượng trong nước nổi dậy vào ngày 30-4 hàng năm. Trên thực tế, các lực lượng thù địch bên ngoài này đã làm hậu thuẫn cho các phẩn tử chống chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cả vật chất lẫn tinh thần, chúng còn hướng dẫn phương kế hoạt động, soạn thảo, in ấn tài liệu dùng để phá hoại tư tưởng như các tài liệu lập luận về đa nguyên, đa đảng, về tự do dân chủ tư sản… rồi gửi vào trong nước cho bọn phản động nội địa sử dụng, hoạt động.
Cùng với hoạt động ngầm trong chiến lược “DBHB” nhằm phá hoại sự ổn định về chính trị, cản trở sự phát triển về kinh tế - xã hội và gây bạo loạn lật đổ, gần đây các thế lực thù địch đã phát triển chiến thuật hoạt động kết hợp với phương thức bất bạo động dưới danh nghĩa “hoà hợp, hoà giải dân tộc”, “hợp tác” với Đảng Cộng sản Việt Nam để xây dựng đất nước. Đồng thời, được sự hỗ trợ từ bên ngoài chúng tiến hành gây sức ép với Nhà nước ta nhằm tựhc hiện qúa trình “dân chủ hoá Việt Nam” tiến tới xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phương pháp 3 : Chủ nghĩa Đế quốc sử dụng lá bài “nhân quyền” để phá hoại tư tưởng đối với Việt Nam.
Sau ngày 30.4.1975, các nước phương Tây mà trước hết là Mỹ đã dung lên vấn đề “nhân quyền ở Việt Nam”. Ngày 2.7.1993 khi Tổng thống Mỹ B.clintơn tuyên bố là Mỹ không ngăn cản IMF giải quyết vấn đề vay nợ của Việt Nam, ông ta còn nói là sẽ nêu lên với phía Việt Nam những lo ngại về nhân quyền đang ciễn ra và thúc ép có sự tiến bộ trong các lĩnh vực về tự do, dân chủ và cải cách kinh tế cơ bản.
Dự luật số 954 của Thượng Nghị Viện Mỹ được thong qua ngày 23.9.1993 đã thể hiện quan quan điểm của Mỹ về “Nhân quyền” và “dân chủ” tại Việt Nam, trong đó nhấn mạnh tới “yêu cầu thúc đẩy cải cách dân chủ”, cải thiện nhân quyền thế giới, đòi Việt Nam cần có “Tự do chính trị”, “Tôn trọng quyền con người” và có một chính phủ dân chủ… Như vậy, có thể khẳng định cái gọi là “nhân quyền” chỉ là chỗ dựa để thế lực thù địch tuyên truyền phá hoại Việt Nam trong nhiều năm qua. Hay đây chính là cái cớ để chúng tuyên truyền kích động trong nhiều năm qua. Hay đây chính là cái cớ để chúng tuyên truyền kích động dư luận thế giới cô lập Việt Nam, reo rắc sự nghi ngờ trong các công dân Việt Nam đối với Nhà nước. Đồng thời, kích động và khơi dậy sự phản kháng mà lâu nay đã được giải toả trong số những người cộng tác với chế độ cũ hiện đang còn lại ở Việt Nam.
Trong cái gọi là vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, ngoài những luận diệu xuyên tạc về tình hình, vu cáo chúng ta đàn áp những người đã cộng tác với chính quyền cũ, cái thế lực thù địch còn đề cập, xuyen tạc chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo, dân tộc; xuyên tạc chính sách giới văn nghệ sĩ.
Đây là những vấn đề diễn ra rất phức tạp ở Việt Nam. Thông qua “vấn đề “nhân quyền”, thực chất các thế lực chống Việt Nam muốn tìm cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chúng âm mưu tạo ra sự bất bình chống lại Nhà nước trong tầng lớp nhân dan, dồn mũi nhọn của dư luận vào bộ máy Nhà nước ta.
Mặc dù Hiến chương Liên hiệp quốc qui định rõ quan hệ ngoại giao giữa các nước cần phải “tôn trọng nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hoà bình”… Nhưng Mỹ tìm mọi cách lợi dụng danh nghĩa ngoại giao nhân quyền để can thiệp vào Việt Nam, chúng còn mang quân đi can thiệp và đàn áp dân tộc khác và ngay cả với nhân dân mình.
Theo thóng kê tren toàn nước Mỹ, ít nhất có đến hai triệu người không nơi cư trú, hàng năm có hàng triệu thanh niên bỏ nhà ra đi, lang thang đầu đường xó chợ, nạn phân biệt chủng tộc vẫn chưa được giải quyết tận gốc, sự bình đẳng giữa người với người chỉ là một lời nói xuông, sự phân hoá giầu nghèo ngày càng nghiêm trọng…
Chính phủ Mỹ không có cách nào giải quyết nổi những vấn đề tren, cũng không đảm bảo được sự an toàn tối thiểu về sinh mạng và tài sản của nhân dân Mỹ. Thủ đô Oasinh tơn, một thành phố được mệnh danh là đẹp nhất, văn minh nhất lại đầy rẫy những tội ác và nạn khủng bố… thì làm sao Mỹ có thể nhân danh “nghĩa vụ cao cả” bảo vệ quyền chân chính, tự do cho mọi người - chẳng qua đó chỉ là sự giả dối “đánh lận con đen” của tên “sen đầm quốc tế” mà thôi.
Nhà nước Việt Nam luôn luôn tôn trọng nhân quyền, việc các thế lực thù địch dung lên cái gọi là “vấn đề nhân quyền” ở Việt Nam là sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của chúng ta, là điều kiện để ép ta thoả hiện, nhượng bộ về chính trị, hay đổi đường lối để đi theo quĩ đạo của chúng.
Vì vậy, để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội vững mạnh ở Việt Nam, Đảng và nhân dân ta phải luôn cảnh giác với luận điệu lừa bịp của CNĐQ về vấn đề nhân quyền.
Phương pháp 4 : Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động ra sức tấn công phá hoại ý thức đạo đức, ý thức them mỹ của dân tộc Việt Nam.
- Về đạo đức :
Thực hiện “DBHB” ở Việt Nam, CNĐQ và các thế lực phản động coi việc phá hoại ý thức đạo đức dân tộc, đạo đức XHCN là một trong những Phương pháp hữu hiệu và nhanh nhất. Những thứ nọc độc “chủ nghĩa hiện sinh”, chủ nghĩa thực dụng” đã thúc đẩy dục vọng cá nhân và phát triển chủ nghĩa cá nhân, hòng lôi cuốn mọi người vào lối sống ích kỷ hưởng thụ, xa lìa đồng bào, gia đình, thầy trò, bố mẹ, con cháu… đến lãng quân nghĩa vụ đối với tổ quốc và đối với quan hệ xã hội văn minh, văn hoá. Mọi hành vi vô đạo đức, chạy theo đồng tiền tham nhũng, buôn lậu, cố ý làm trái pháp luật và những hành vi phạm pháp khác… được các thế lực “DBHB” khuyến khích, lợi dụng khai thác mặt trái của cơ chế thị trường, của mở cửa để tạo cho an ninh- trật tự xã hội không ổn định, tạo ra lớp người cơ hội trong xã hội “Tát nước theo mưa”, như là hiện tượng tất yếu của thời cuộc.
Hoạt động ở Liên Xô, Đông Âu trước đây và hoạt động ở các nước XHCN hiện nay, thế lực “DBHB” đang đánh vào giá trị đạo đức, tức là đánh vào ga trị tinh thần thiêng liêng nhất của một quốc gia, dân tộc hòng làm mất đi sức sống tinh thần và sức mạnh truyền thống đoàn kết - cội nguồn của mọi thắng lợi trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội, xây dựng giải phóng quốc gia dân tộc mình bằng những chuẩn mực đạo đức, lối sống và lẽ sống.
Khi những chuẩn mực đạo đức, lý tưởng cuộc sống bị đảolộn ở đất nưcớ đối phương là thời cơ để chúng tiến công xâm nhập. Và khi chuẩn mực đạo đức, lý tưởng đã mất thì pháp luật cho dù đã có truyền thống kỷ cương nhất ở một quốc gia dân tộc cũng sẽ bất lực trong quản lý xã hội, mất tác dụng trong sự nghiệp bảo vệ một chính thể, một chế độ xã hội.
Vì từng công dân cụ thể, khi đã sa đoạ về phẩm chất đạo đức thì khó tránh khỏi sự sa đoạ về chính trị khi cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang là một trong những động lực phát triển xã hội thực hiện mà ngày nay loài người đang trải qua. Vì vậy, chúng tìm mọi cách làm tha hoá đạo đức, lối sống thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
- Về pháp luật.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân lấy liên minh giữa GCCN với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng ta lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền của ta mang tính GCCN, cho nên nhà nưcớ ấy mang tính nhân dân sâu sắc. Pháp luật của nhà nước luôn luôn phản ánh ý chí của nhân dân ta hướng tới CNXH.
Mỹ và các thế lực thù địch tiến hành “DBHB” tấn công vào ý thức pháp luật của ta, nghĩa là tấn công vào quyền lực của nhân dân, tấncông vào chế độ ta. Chúng vu khống chế độ ta không có tự do, dân chủ; không tôn trọng nhân quyền; vu cáo đàn áp những người bất đồng chính kiên mỗi khi chúng ta trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật. Dưới chiêu bài “Quyền con người” chúng kích động tình trạng bất tuân pháp luật, làm rối trật tự an ninh trên đất nước ta.
- Về nghệ thuật:
Tiến hành “DBHB” hớn nửa thế kỷ qua, kẻ thù đã chi không ít tiền của và công sức cho các hoạt động phá hoại của chúng tra trên lĩnh vực đặc biệt quan trọng này.
ý thức them mỹ coi nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của mối quan hệ them mỹ giữa con người với thực hiện. Nó phản ánh thoả mãn đời sống tinh thần của con người bằng cái đẹp, cái cao thượng làm cho cái đẹp phát triển rực tỡ trong nghệ thuật, thực chất là các nghệ sĩ đưa cái đẹp từ cuộc sống vào các tác phẩm nghệ thuật. Sáng tạo những hình tượng nghệ thuật cao đẹp và phong phú về xã hội không chỉ góp phần tô điểm cho cuộc sống xã hội mà chủ yếu góp phần phát triển sâu sắc cuộc sống với các chức năng của nó : chính trị - giáo dục - đạo đức.
Trong lịch sử xã hội xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh giữa hai con đường, hai hệ tư tưởng giữa hai giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên mặt trận them mỹ chưa lúc nào dừng, cũng bởi vì cuộc sống con người thúc bách. Mọi cái đẹp của nhân dân lao động, của các quốc gia dân tộc XHCN luôn luôn là mục tiêu phá hoại của CNĐQ với những phương thức và biện páhp được chuẩn bị chu đáo.
Bằng mọi thủ đoạn gây ra sự lộn xộn giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác… bọn đế quốc hòng làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ta về thẩm mỹ văn hoá, đạo đức dân tộc ngày càng sa sút.
Thay vào món ăn tinh thần đó “văn hoá chợ đen”, sách báo băng hình với những quan điểm lỗi thờivà những khuynh hướng nghệ thuật tạo ra những thị hiếu tinh thần thấp hèn phục vụ mưu đồ chính trị nhằm chuyển hoá chế độ XHCN. Việt Nam với tư cách là một quốc gia có chủ quyền, luôn ngăn chặn và không cho phép những chấtg độc tinh thần tư sản và những cặn bã văn hoá phương Tây được tự do xâm nhập. Vì vậy, con đường them thấu đó vào nước ta không thể đi bằng con đường giao lưu quốc tế bình thường và ngoại giao chân chính, mà chủyêú thông qua con đường bí mật văn hoá lậu và “văn hoá nhập trái phép”.
Chúng ta biết rằng cái đẹp đã và đang có mặt trong thái độ và năng suất lao động trong đổi mới, mở cửa, cớ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; trong ý thức và hiệu quả chiến đấu bảo vệ tổ quốc, trong đấu tranh chống tội phạm; trong công tác học tập, nghiên cứu ứng dụng KH-KT; trong niềm tin và lối sống dân tộc văn minh, văn hoá… Cái đẹp, ý thức them mỹ đang làm chức năng của một đối tượng mang tính xã hội rộng lớn. Do cuộc sống thực tiễn đòi hỏi mà Đảng, Nhà nước ta, nhân dân ta ra sức đẩy lùi cái xấu, đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực, vừa tấn công tội phạm vừa nêu cao những tấm gương đẹp trong mọi mặt hoạt động xây dựng đất nước giầu mạnh, công bằng, văn minh theo hướng XHCN, lật đổ ý đồ thâm độc của CNĐQ trong chon lược “DBHB”.
Phương pháp 5 : Chủ nghĩa đế quốc lợi dụng thế lực tôn giáo, gây mâu thuẫn dân tộc hòng làm tan rã vai trò lãnh đạo của ý thức hệ mác xít.
Dân tộc và tôn giáo là những vấn đề vốn tự thân đã chứa đựng những phức tạp. Một khuynh hướng khác chống Việt Nam của CNĐQ và các thế lực thù địch trong “DBHB” là tập hợp ll phản động trong tôn giáo, dân tộc ít người, lợi dụng tín ngưỡng, kích động chống CNXH.
Trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, CNĐQ đã gây ra nhiều cuộc xung đột về sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, và gây mất ổn định ở nhiều nơi, đỉnhcao là cao trào lưu đòi ly khai, tự trị ởNga, Inđônêxia, Nam Tư, Mác xê đô nia…
ở Việt Nam, vấn đề dân tộc thường gắn lion với vấn đề tôn giáo. Mỹ đã lợi dụng các tôn giáo như Đạo Thiên chúa, Đạo Phật, Đạo tin lành, Các tôn giáo này chi phối nhiều mặt đời sống xã hội, là chỗ dựa để thâm nhập, tiến hành “DBHB” ở Việt Nam. Lợi dụng chính sách cải cách, mở cửa của ta, chúng đẩy mạnh nhiều hoạt động chống phá từ bên ngoài vào các vùng dân tộc thiểu số như ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam. Mốtố tên phản động cầm đầu đã bộc lộ rõ hoạt động móc nối liên lạc với bọn phản động nguỵ quân, nguỵ quyền trước kia kích động chia rẽ; móc nối với các tổ chức phản động người Việt lưu vong nhất là ở Mỹ để nhận chỉ thị, tài trợ rồi tổ chức tiến hành các hoạt động phá hoại: Chúng xuyên tạc sự thật, ra sức rêu rao rằng ở Việt Nam, người dân tộc bị áp bức, không có quyền bình đẳng, để nhằm tác động tư tưởng đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
- Về vấn đề dân tộc :
Những nằm gần đây, hoạt động “DBHB” của Mỹ nhằm làm phức tạp thêm đến các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong đó nổi lên là vùng dân tộc ở Tây Nguyên, vùng dân tộc Châmp ; vùng dân tộc H’Mông, vùng dân tộc Thái; vùng dân tộc khác. Mỹ và các thế lực thù địch thường tập trung vào những xu hướng sau đây:
+ Lợi dùng và kích động xu hướng chia rẽ dân tộc, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, kỳ thị, đòi ly khai (điển hình là đòi thành lập Nhà nước Đề - giải quyết độc lập của người Thượng ở Tây Nguyên), tập hợp ll phản động trong các dân tộc thiểu số, kích động số người ra đi bất hợp pháp, gây rối loạn về chính trị, kinh tế, xã hội để tạo cớ can thiệp vào Việt Nam.
Lợi dụng những vấn đề phức tạp do lịch sử để lại, khơi dậy những hận thù dân tộc, kích động tư tưởng đòi tự trị dưới các khẩu hiệu : “Giải phóng cao nguyên Đề - giải quyết”, “Người Khơ me về Campuchia”, đòi tự trị cho 16 Châu Thái…
Lợi dụng những sai sót của ta trong việc thực hiện chính sách dân tộc và những khó khăn gay gắt trong đời sống hiện tại của đồng bào các dân tộc thiểu số, để xuyên tạc, đả kích gây hoài nghi với chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. Qui mọi khó khăn nghèo đói, sự chậm phát triển ở vùng cao dân tộc là do Nhà nước khôngquan tâm đến vấn đề dân tộc, do người kinh chiếm đất, đồng hoá dân tộc…
Đặc điểm nổi bật trong đời sống xã hội của các dân tộc thiểu số là sự tồn tại của lớp ngườ được quần chúng suy tôn, tín nhiệm tự nguyện hay theo sự ràng buộc của phong tục tập quán. Họ thường được đồng bào tìm đến bày tỏ tâm tư nguyện vọng. Lợi dụng điều đó, Mỹ và các thế lực thù địch rất chú ý lôi kéo những người có ảnh hưởng lớn trong dân tộc thiểu số để tạo dung “Ngọn cờ”, thông qua đó nắm quần chúng tập hợp ll.
- Về vấn đề tôn giáo.
Mặc dù chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã được quần chúng có đạo và quần chúng không theo đạo thực hiện tốt đẹp trong lịch sử Việt Nam từ trước đến nay, nhưng kẻ địch luôn âm mưu và hoạt động chống phá. Khi hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, Polgar - Phó đại diện Mỹ, trim CIA ở Sài Gòn đã nhận định “Sau này Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam thì ll đấu tranh với Việt cộng chủ yếu là các tôn giáo, còn các Đảng phái thì không có ll” [28 -67].
Hồng y Rossi, bộ trưởng truyền giáo của Vaticăng năm 1974 sang thị sát tình hình giáo hội thiên chúa miền Nam Việt Nam, cũng kết luận : “Gíao hội miền nam Việt Nam chống cộng sản đến cùng bằng vũ lực là sai lầm và sẽ thất bại. Nội bộ giáo hội miền Nam Việt Nam đầy rẫy mâu thuẫn, chưa chuyển hướng hoạt động thích hợp để sẵn sàng đối phó với cộng sản khi chiến tranh kết thúc” [28 - 67].
Từ năm 1975 đến nay, do bị tác động chỉ đạo từ bên ngoài vào, các thế lực lợi dụng đạo thiên chúa ởvn đã liên tiếp hoạt động tuyên truyền ý thức hệ độc lập, gây mâu thuẫn giữa những người theo đạo với chính quyền và nhà nước ta.
Cùng với sự chuẩn bị về tư tưởng, các thế lực thù địch tìm mọi cách tài trợ cho bọn phản động tang nước nhằm củng cố, phát triển tôn giáo, tạo ra lực lượng tại chỗ để triển khai các hoạt động chống Việt Nam. Chúng tìm cách nâng cao vai trò của giáo hội với ý đồ tách giáo hội ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, công khai đòi tự do cho các hoạt động của tôn giáo để làm cơ sở pháp lý trong việc đấu tranh với Nhà nước ta. Chúng lợi dụng đổi mới, dân chủ để hợp pháp trong việc đấu tranh với Nhà nước ta. Chúng lợi dụng đổi mới, dân chủ để hợp pháp hoá về tổ chức, khôi phục các hội đoàn tôn giáo, phát triển tín đồ; mở rộng địa bàn hoạt động vào các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa… Hoạt động này được sự chỉ đạo và tảitợ từ bên ngoài như Vaticăng và tổ chức tôn giáo lưu vong (nhất là mặt trận Liên tôn).
ngoài những tôn giáo được Nhà nước ta công nhận (Thiên chúa giáo, Phật giáo, Tin lành, Cao đài, Hoà hảo và Hồi giáo), trong những năm gần đây ở nước ta đã phát triển thêm những đạo mới từ nước ngoài vào mang tính chất tạp giáo, tà giáo như : Đạo Quang Minh, Đạo bà Hai, Thanh Hải vô thượng sư, Long Hoa Di lạc… ở Cao Bằng và một số nơi khác chúng dung lên cái gọi là “Đạo Bác Hồ” để lôi kéo quần chúng tham gia. Những tạp giáo này có xu hướng phát triển, lan rộng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, đe doạ an ninh quốc gia.
Những năm gần đây, Toà thánh Vaticăng cùng các tổ chức tôn giáo phản động lưu vong tích cực can thiệp vào công việc nội bộ của ta, đặc biệt là trong viẹc xắp xếp nhân sự, bổ nhiệm chức sắc giáo hội ở các giáo phận. Hơn thế nữa, chúng còn cấu kết với các tổ chức phản động lưu vong để chỉ đạo bọn phản động tay sai tạo ra các điểm nóng, kích động các tín đồ và các tầng lớp nhân dân chống lại chính quyền các cấp (điển hình nhưvụ ngày 24.5.1993 ở Huế, bạo loạn ở Gia Lai, Đắc Lắc vào đầu năm 2001). Vì vậy, chúng ta phải hết sức cảnh giác với âm mưu lợi dụng vấn dề dân tộc, tôn giáo chống XHCN trong hoạt động “DBHB” của CNĐQ và các thế lực thù địch.
CHƯƠNG II : CHỐNG DIỄN BIẾN HOÀ CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
1. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trong cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cho thấy rằng: mặc dù diễn ra dưới nhiều hình thái khác nhau, song những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự xụp đổ gần giống nhau. Nguyên nhân sâu xa là qúa trình xây dựng CNXH, bên cạnh những thành tựu vĩ đại có những nhược điểm, khuyết điểm chậm được khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Nhưng nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là trong qúa trình cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức, đối ngoại… CNĐQ đứng đầu là đế quốc Mỹ không ngừng triển khai thực hiện chiến lược chống CNXH, chống cộng bằng các thủ đoạn “DBHB” với quan điểm tiến công: “Một trong những uy hiếp lớn nhất với chế độ Xô viết là sự giao tiếp giữa hai hệ tư tưởng, giữa nhân dân nước họ và nhân dân nước ta, giữa xã hội của họ và xã hội của ta” [36, 110].
Phân tích sự tan vỡ của các nước XHCN Liên Xô và Đông Âu, chúng ta cần tỉnh táo nhận ra bộ mặt thật của kẻ thù, phải nhìn thấu đáo về bản chất của “DBHB” để kiên quyết đấu tranh chống việc thẩm thấu vào tư tưởng, văn hoá, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
1.1. Nhận thức đúng đắn về tính sáng tạo và khoa học của chủ nghĩa Má
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT (38).doc