MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VÀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 3
I. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 3
1. Khái niệm chính sách thương mại 3
2.Nội dung của chính sách thương mại ở nước ta 4
3. Vai trò của chính sách thương mại đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với hoạt động xuất khẩu nói riêng 5
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU 8
CHỦ LỰC 8
1. Khái niệm 8
2. Quá trình hình thành và đặc điểm 9
3. Ý nghĩa của việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực 10
4. Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam những năm gần đây 11
4.1 Dệt may 11
4.2 Da giày 14
4.3. Sản phẩm gỗ 17
4.4 Sản phẩm nhựa 20
4.5 Dây và cáp điện 21
CHƯƠNG II 23
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM. 23
I. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 – 2008. 23
II. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 27
TỚI VIỆC XUẤT KHẨU SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 27
1. Tác động của một số chính sách thương mại 27
1.1 Tác động của chính sách cơ cấu mặt hàng 27
1.1.1 Nội dung của chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 27
1.1.2 Tác động của chính sách cơ cấu mặt hàng tới hoạt động xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt nam trong thời gian qua 29
1.1.3 Đánh giá kết quả đạt được 33
1.2 Tác động của chính sách thị trường 36
1.2.1 Chính sách và phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực 37
1.2.1 Tác động của chính sách thị trường đối với việc xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam 43
1.3 Hội nhập kinh tế quốc tế 52
2. Đánh giá chung 54
2.1 Kết quả đạt được 54
2.2 Bất cập về chính sách 60
CHƯƠNG III 64
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI 64
I. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG CỦA NƯỚC TA VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MỘT SỐ SĂN PHẨM CÔNG NGHIỆP CHỦ LỰC 64
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 67
1. Xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực 67
2. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại 67
3. Loại bỏ những quy định không phụ hợp với bối cảnh mới 68
4. Vận dụng linh hoạt các định chế của WTO trong phát triển xuất khẩu 68
5. Ưu tiên nguồn lực nhằm phát triển xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực những năm tiếp theo 69
KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
80 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3078 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ảnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuật lạc hậu, thị trường tiêu thụ không lớn. Điều này có thể thực hiện được thông qua biện pháp cơ bản là hợp tác, liên doanh với nước ngoài.
Lựa chọn những mặt hàng sản xuất có hiệu quả có thể được xác định theo cách sau:
- Lựa chọn bước 1: Chọn các mặt hàng đáp ứng được các yêu cầu trên thị trường thế giới hiện nay và trong tương lai gần đang có nhu cầu lớn trong khi sản xuất và khai thác không đủ nhu cầu hoặc không ổn định.
Nhu cầu của thị trường thế giới còn lớn, tuy trong cân đối cung cầu đã được xác lập nhưng nhu cầu đang tăng, tất cả các nước có cơ hội đều được tham gia.
Các sản phẩm Việt nam đang xuất khẩu dưới dạng thô và sơ chế, cần đầu tư phát triển sản xuất với công nghệ cao hiện đại tạo ra những sản phẩm tinh, chất lượng cao có khả năng cạnh tranh khi xuất khẩu ra thị trường thế giới.
- Lựa chọn bước 2: Các mặt hàng đã được lựa chọn ở bước 1 sẽ được lựa chọn tiếp ở bước 2 theo các tiêu chuẩn sau:
+ Các mặt hàng Việt nam có lợi thế so sánh về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, con người.
+ Các mặt hàng mà nếu sản xuất và xuất khẩu sẽ tác động mạnh tới sự phát triển của các ngành khác.
+ Các mặt hàng sử dụng nhiều lao động là thế mạnh của Việt nam
- Lựa chọn bước 3: Căn cứ vào sự lựa chọn của bước 1 và bước 2, bước 3 là sự định hướng các mặt hàng cần đầu tư sản xuất và xuất khẩu nhằm chuyển dịch nhanh cơ cấu nền kinh tế hướng về xuất khẩu. Trong điều kiện thực hiện một chiến lược kinh tế mới, sản phẩm của ta một khi đã cạnh tranh được với hàng ngoại ở thị trường trong nước thì cũng có khả năng chiếm lĩnh được thị trường thế giới. Vì vậy khi xác định cơ cấu mặt hàng ta cần phải tính đến cả yêu cầu của thị trường trong nước và cả thị trường thế giới.
1.1.2 Tác động của chính sách cơ cấu mặt hàng tới hoạt động xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt nam trong thời gian qua
Trong những năm vừa qua, cơ cấu cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã có những bước hay đổi tích cực. Nhóm hàng xuất khẩu nguyên liệu thô đã giảm từ 91% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu vào năm 1994 xuống còn 72% vào năm 1998. Tăng trội hơn cả trong các mặt hàng chế biến là các mặt hàng giày dép và may mặc tăng tới 100%/năm và 50% trong năm 1998. Tỷ trọng các mặt hàng chế biến sâu (trong đó có hàng chế tạo) năm 1994 chỉ chiếm 8,5 % năm 1997 đã lên đến 25%. Năm 1999 đã tăng lên thành 30%.
Năm 2001, cơ cấu xuất khẩu tăng tuy chậm nhưng vẫn tiếp tục chyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu. Tỷ trọng của 3 nhóm hàng dệt may, giày dép và sản phẩm gỗ tinh chế trong kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 27,8% lên 31,5%. Đặc biệt ngày 23 tháng 4 năm 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010 theo QĐ số 55/2001/QĐ-TTg. Với chiến lược này ngành dệt may có nhiều cơ hội mới để phát triển đó là: Chính phủ có nhiều chính sách đầu tư hỗ trợ, khuyến khích phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh như được hưởng ưu đãi về tín dụng đầu tư, được Ngân hàng đầu tư và phát triển, các Ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu, cho vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh với lãi suất ưu đãi, được hưởng thuế thu nhập ưu đãi 25%. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đang từng bước đổi mới để hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá của cả thế giới. Năm 2005, nhóm nguyên liệu và khoáng sản chỉ còn chiếm 24,78%, nhóm nông, lâm, thuỷ sản chiếm 21,12% trong tổng kim ngạch xuất khẩu (so với năm 2000 tương ứng là 35,64% và 30,1%). Trong khi đó kim ngạch xuất khẩu nhóm sản phẩm công nghiệp ngày càng tăng, năm 2005 đạt 38,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đây là một bước chuyển tích cực trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt nam, thể hiện :
+ Việt nam đã bắt đầu chuyển từ một nước xuất khẩu nguyên vật liệu sang chế biến các sản phẩm đạt giá trị cao hơn để xuất khẩu. Việc này giúp cho xuất khẩu đóng góp nhiều hơn vào GDP và tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động và từng bước đưa hàng hóa Việt nam có chỗ đứng trên thị trường thế giới.
+ Năng lực sản xuất chế biến của Việt nam đã tăng lên và hàng hóa Việt nam đã dần dần tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới và khu vực.
+ Chủ trương của Đảng và Nhà nước “ xuất khẩu chuyển mạnh sang các mặt hàng chế biến, giảm tối đa xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu thô ” đang được thực hiện đúng hướng và có kết quả:
Bảng 4: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam
Đơn vị: %
Cơ cấu xuất khẩu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2004
2005
Hàng CN nặng & KS
34
28.8
25.5
28.9
24.8
23.9
22.7
24.8
Hàng CN nhẹ & TTCN
17.6
23.1
28.4
28.9
35.5
38.2
40.02
38.4
Nông, lâm, thủy sản
48.4
48.1
46.1
42.2
36.7
37.9
20.67
21.1
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Đi kèm với việc giảm tỷ lệ các mặt hàng xuất khẩu là khoáng sản, nông, lâm, thuỷ sản, xuất khẩu Việt Nam đã tập trung mũi nhọn vào một số mặt hàng công nghiệp chủ lực có triển vọng như: dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, dây điện và cáp điện… Đây là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn, giúp tăng trưởng xuất khẩu nhanh chóng.
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam thời kỳ 1995 – 2008
Đơn vị: Triệu USD
Mặt hàng
1995
2000
2004
2005
2008
Dệt may
850
1.892
4.386
4.838
9.000
Giày dép
296
1.472
2.692
3.040
4.700
Sản phẩm gỗ
97
311
1.139
1.563
2.800
Sản phẩm nhựa
4
105
261
350
930
Dây và cáp điện
130
389
523
1,05
Nguồn: Niên giám thống kê và Tổng cục Hải quan
Trong giai đoạn 1990-1997, chúng ta đã đầu tư để hình thành dần các ngành sản xuất hàng hoá, các khu công nghiệp và mở rộng thị trường tiêu thụ nên đã tạo ra thêm một mặt hàng công nghiệp chủ lực mới có khối lượng và giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dệt may. Nhờ có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Mặc dù phát triển chậm hơn so với các nước láng giềng Châu á, nhưng ngành đã tự đứng dậy vươn lên, phát triển một cách đầy ấn tượng. Bước đầu năm 1993 kim ngạch xuất khẩu đạt 350 triệu USD và đến cuối năm 1997 xuất khẩu đạt 1,35 tỷ USD. Không dừng lại ở con số này, hàng dệt may xuất khẩu đã trở thành một trong 10 mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam nằm trong chiến lược phát triển CNH, HĐH của đất nước.
Hai năm cuối của kế hoạch 1997 - 1998, Việt Nam chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, tích cực tiến hành CNH - HĐH đất nước nên đã hình thành thêm mặt hàng công nghiệp chủ lực nữa là giầy dép. Như vậy đến cuối năm 1998, trong 9 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chúng ta có 2 mặt hàng công nghiệp chủ lực mà giá trị xuất khẩu của mỗi mặt hàng là trên 100 triệu USD: dệt may và giầy dép. Những mặt hàng này có tốc độ tăng trưởng nhanh, có sức cạnh tranh và có chỗ đứng nhất định trên thị trường thế giới.
Không thể không kể tới sản phẩm gỗ với thị trường đa dạng, có mặt tại hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ với kim ngạch xuất khẩu lớn thư 5 hiện nay.
Sản phẩm nhựa cũng khẳng định được mình với sự tăng trưởng ấn tượng về giá trị xuất khẩu – tính đa dạng của các sản phẩm xuất khẩu cũng như thị trường xuất khẩu (trên 48 thị trường) – mức độ tăng trưởng bình quân từ 25% - 43%.
Tuy có điểm xuất phát thấp nhưng mặt hàng dây và cáp điện trong ba năm qua đã tăng trưởng xuất khẩu ổn định và đang nổi lên là mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Mặt hàng này có khả năng gia tăng xuất khẩu rất lớn do xu hướng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài vào snả xuất mặt hàng này khá mạnh mẽ. Dự kiến giai đoạn 2006-2010, ngành dây và cáp điện có thể duy trì mức tăng trưởng 30%/năm và sẽ đạt hơn 2 tỷ USD vào năm 2010.
1.1.3 Đánh giá kết quả đạt được
• Mặt tích cực:
- Nhóm hàng công nghiệp chế biến có mức độ tăng trưởng ngày càng cao. Điều này thể hiện rõ nét nó sẽ là ưu thế phát triển của Việt nam trong những năm tới bởi đây là ngành tương đối dễ phát triển trong điều kiện nước ta hiện nay (không cần công nghệ cao và thiết bị hiện đại ). Mặt khác, sản phẩm làm ra lại có sức cạnh tranh do tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có ở trong nước như lao động.
- Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tuy có tăng nhưng đây sẽ không phải là ngành hàng chủ lực trong những năm tới bởi công nghiệp nặng không phải là thế mạnh của các nước đang phát triển như nước ta thêm vào đó xuất khẩu khoáng sản đem lại hiệu quả kinh tế thấp, không giúp cho nền kinh tế phát triển theo chiều sâu. Do vậy, trong những năm tới sẽ tăng giảm về tỷ lệ trong kim ngạch xuất khẩu.
- Chất lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt nam đã được nâng lên đáng kể, bước đầu tạo sức cạnh tranh của hàng Việt nam trên thị trường thế giới, đồng thời gây tác động tích cực với chất lượng sản phẩm trong nước. Hiện nay, dệt may và giày dép là hai trong số những sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam đã được thừa nhận đạt chất lượng quốc tế. Đi theo hàng xuất khẩu và để chống lại sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu, các nhà sản xuất hàng tiêu dùng trong nước cũng nâng cao chất lượng khá nhanh, nhiều hàng nội đã có chất lượng như hàng ngoại mà giá cả lại rẻ hơn. Nhìn chung việc sản xuất hàng xuất khẩu đã tác động lớn đến chất lượng hàng ở trong nước và hàng Việt nam đã có sức cạnh tranh với một số hàng cùng loại của một số nước khu vực và thế giới.
• Hạn chế:
Mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu có chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến và chế tạo, tới nay, xuất khẩu nguyên liệu thô và hàng sơ chế vẫn là chủ yếu ( hàng nguyên liệu thô còn chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu ). Đây là vấn đề lớn của xuất khẩu Việt nam: tài nhiên nhiên của nước ta có hạn và đã bị khai thác ở mức cao, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này đã bắt đầu đi xuống. Một nền xuất khẩu dựa trên hàng nguyên liệu thô không thể đảm bảo có mức tăng trưởng vượt bậc của kim ngạch xuất khẩu. Mặt khác nếu tiếp tục xuất khẩu nguyên liệu thô thì không thể sử dụng được lượng nhân công sẵn có trong nước, không giúp giải quyết các vấn đề xã hội và nhiệm vụ CNH - HĐH đất nước và không thể tạo đà để đuổi kịp các nước trong khu vực.
Những năm qua chất lượng hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được cải thiện, tuy nhiên khả năng cạnh tranh của nhiều hàng công nghiệp xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém. Điều đó do các nguyên nhân:
+ Công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu chủ yếu được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã có thời gian sử dụng lâu năm không thích hợp với nền sản xuất kinh tế thị trường. Các xí nghiệp, kho tàng, bến bãi, máy móc thiết bị lạc hậu về công nghệ, hiệu quả kém bởi chịu khấu hao lớn, các định mức khấu hao nguyên vật liệu cao, sản phẩm lầm ra chất lượng thấp và số lượng không cao. Mấy năm gần đây, một số doanh nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thông thường việc đầu tư không đồng bộ và còn chắp vá do không đủ vốn đầu tư, kèm theo là tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh và còn có nhiều bất cập.
+ Các doanh nghiệp Việt nam vừa mới bắt đầu tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới trong điều kiện thế giới đã được phân chia, phân công lao động quốc tế đã được xác lập tương đối ổn định. Các doanh nghiệp Việt nam còn non trẻ đã phải đối đầu với cuộc cạnh tranh với các tập đoàn quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thương trường. Đồng thời công tác tổ chức giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp chưa tốt, chưa kịp thời. Các cơ quan nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng, hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường xuất khẩu. Trình độ tổ chức quản lý điều hành hoạt động xuất khẩu, trình độ tiếp thị của các doanh nghiệp còn yếu.
+ Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi đào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên một dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của Malaysia và 1/10 của Indonesia.
+ Nguồn nguyên phụ liệu hầu như phụ thuộc vào nước ngoài.
Tác động của chính sách thị trường
Mục tiêu thị trường trong tương lai của chúng ta là biến đổi cơ cấu khu vực và cơ cấu bạn hàng hiện nay theo hướng “ đa phương hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng ”. Xác định mục tiêu như vậy chính là nhằm vận dụng đúng đặc điểm thời đại, đó là xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại, tham gia hội nhập khu vực và thế giới.
Dự kiến, khu vực thị trường châu A giảm dần tỷ trọng từ 48,8% năm 2006 xuống còn 45,5% năm 2010 song vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Xuất khẩu vào khu vực thị trường châu Âu tăng nhẹ tỷ trọng từ 18,2% năm 2006 lên 20% vào năm 2010. Xuất khẩu vào khu vực thị trường châu Mỹ tăng dần tỷ trọng từ 221,5% năm 2006 lên 24% năm 2010. Tỷ trọng xuất khẩu vào khu vực thị trường châu Phi tăng khá từ 2,2% năm 2006 lên 2,8% năm 2010.
Bảng 5: Dự kiến cơ cấu thị trường năm 2006 và 2010
Thị trường
Cơ cấu năm 2006
Tăng kim ngạch
bình quân 2006-2010
Cơ cấu năm 2010
Châu A
48,7
14,1
45,5
ASEAN
16,5
12,0
11,5
Trung Quốc
9,7
14,5
10,7
Nhật Bản
14,2
9,2
12,4
Châu Âu
18,2
18,9
22,0
EU-25
16,9
15,0
20,5
Châu Mỹ
21,5
19,4
24,0
Hoa Kỳ
20,4
19,0
23,1
Châu Phi
2,2
23,3
2,8
Nguồn: Bộ thương mại, Đề án phát triển xuất khẩu 2006-2010
1.2.1 Chính sách và phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực
Các nước ASEAN:
Trên quan điểm thương mại và công nghệ, từ năm 1996 đến nay bản thân các nước ASEAN đã có những nỗ lực tạo nên sự ổn định từ thế tiếp cận với các thị trường công nghệ nguồn, có lượng tiêu thụ lớn ( Mỹ, Nhật bản, Tây âu). Ảnh hưởng của ASEAN đối với vùng Châu á và thế giới ngày càng lớn. Đối với Việt nam, ASEAN ngày càng có vai trò quan trọng hơn. Từ khi tham gia tổ chức này, Việt nam đã thực thi tương đối các nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi nước thành viên của mình, thông qua đó đã có tiếng nói, vai trò và vị thế vững mạnh trên trường quốc tế.
Tuy khả năng về vốn công nghệ của các nước ASEAN không phải là lớn nhưng đây là thị trường mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm vì đây là những nước láng giềng. Trong lịch sử đã có những mối quan hệ quốc tế, chính trị, văn hoá lâu đời. Kinh nghiệm phát triển của các nước này đã trở thành bài học quý báu cho Việt Nam, Việt Nam thông qua ASEAN từng bước tham gia thực hiện phân công lao động quốc tế.
Đối với việc phát triển các mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam ở thị trường này, một mặt, chúng ta đã có những xúc tiến quan trọng trong việc đàm phán với các nước trong khu vực nhất là Singapore để hỗ trợ hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU, mặt khác cần đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, dệt may, giày dép vào thị trường Malaysia; dây cáp điện, máy vi tính và linh kiện vào Indonesia… Đó là những mặt hàng thế mạnh của ta tại các thị trường này.
Thực hiện hiệp định CEPT/AFTA, hầu hết thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu của các nước ASEAN chỉ còn ở mức từ 0-5%. Đây là lợi thế mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng để đưa hàng hoá của Việt Nam vào các nước trong khu vực.
Nhật bản:
Với dân số khoảng 127,2 triệu người, GDP đạt 545,5 ngàn tỷ Yên (4.326,4 tỷ USD), GDP bình quân đầu người đạt 34.012 USD, Nhật bản là thị trường tiêu thụ hàng lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ, đồng thời cũng là nước lớn với kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 400 tỷ USD.
Việt Nam cũng có khá nhiều thuận lợi trong việc xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Thực tế cho thấy, Nhật Bản vẫn luôn là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam và trong quan hệ hợp tác kinh tế nói chung, thương mại nói riêng, Việt Nam vẫn còn có nhiều điều kiện tranh thủ sự hợp tác với Nhật Bản để phát triển, bởi Nhật Bản đến nay vẫn là một nước lớn, tiềm lực kinh tế mạnh trong khu vực châu A và trên thế giới. Về chính sách đối ngoại, cả hai nước Việt Nam và Nhật Bản đều tương đồng quan điểm trong việc ưu tiên phát triển mạnh quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện với nhau trên nhiều lĩnh vực, vì lơi ích của sự phát triển mỗi nước, đồng thời góp phần tích cực vào hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Kể từ ngày 26/05/1999, hai nước đã dành cho nhau Quy chế Tối huệ quốc (MFN). Tuy nhiên, Việt Nam và Nhật Bản vẫn chưa có Hiệp định về thương mại nên một số hàng hoá của ta khi xuất khẩu vào Nhật Bản phải chịu mức thuế cao hơn nhiều so với mức thuế mà các nước có Hiệp định thương mại với Nhật Bản được hưởng.
Để đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực sang thị trường Nhật Bản cần thực hiện theo một số phương hướng sau:
- Có thể dựa vào mức thuế suất ưu đãi của Quy chế MFN để thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng như giầy dép và sản phẩm da (thuế suất giảm từ 20% xuống còn 10%), sản phẩm gỗ ( thuế suất thấp chỉ còn 0-3%).
Hợp tác với tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cung cấp các thông tin về thị trường Nhật Bản cho các doanh Việt Nam và các thông tin về thị trường Việt Nam cho cácdoanh nghiệp Nhật Bản.
Hạ giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm, bám sát các khách hàng cũ, phát triển các khách hàng mới. Hiện nay, một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam như hàng dệt may, đồ gỗ, dây cáp điện đang được khách hàng Nhật Bản ưa chuộng. Cần phải phát huy xuất khẩu các mặt hàng này.
Khu vực EU:
Ngày 1/05/2004 Liên minh Châu Âu (EU) bắt đầu mở rộng bao gồm 25 nước thành viên với dân số trên 450 triệu dân, GDP khoảng 11.777 tỷ USD
(khoảng 9.700 tỷ Euro), chiếm khoảng 28,7% GDP và 19,8% lượng thương mại thế giới. EU coi trọng vai trò và vị trí của Việt Nam trong khu vực Đông Nam á, trong quan hệ hợp tấc á -Âu tại các diễn đàn quốc tế và Việt Nam là một đối tác có tiền năng về kinh tế, thương mại, đầu tư… trong tương lai.
Khi buôn bán với khu vực này cần chú ý 5 đặc tiểm chính sau:
Thứ nhất, EU là thị trường rộng lớn, có sức mua lớn và đây là thị trường tự do lưu thông hàng hoá nhất thế giới.
Thứ hai, người dân Châu Âu ưu chuộng hàng hoá có nhãn hiệu nổi tiếng. Do vậy giá cả không phải là giải pháp cạnh tranh tối ưu.
Thứ ba, thị trưòng EU là thị trường khó tính coi trọng mẫu mã và thời trang. Người tiêu dùng luôn tỏ ra thận trọng và bảo thủ.
Thứ tư, hàng hoá đưa vào thị trường EU theo hai kênh: tập đoàn và không tập đoàn.
Thứ năm, thị trường EU luôn bảo vệ người tiêu dùng, họ xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia và khu vực để buộc các nước xuất khẩu phải thực hiện.
Thị trường EU đưa ra các yêu cầu khá khắt khe đối với hàng nhập khẩu. Mặc dù thuế quan thấp nhưng là thị trường bảo hộ chặt chẽ bởi rào cản kỹ thuật rất nghiêm ngặt như tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn về lao động và trách nhiệm xã hội (không sử dụng lao động cưỡng bức, lao động trẻ em …). Chẳng hạn, hiện nay EU đã khởi xướng Hiệp định “Tăng cường thực thi Luật lâm nghiệp, quản trị rừng và buôn bán gỗ” (FLEGT). Theo Hiệp định này, tất cả các chuyến hàng xuất khẩu vào thị trường này sẽ được cơ quan thẩm quyền cấp phép sau khi kiểm tra tính hợp pháp của các lô hàng thông qua các bằng chứng gốc. Cơ quan cấp phép cũng sẽ kiểm tra từng doanh nghiệp cụ thể xem hệ thống kiểm soát các chứng từ gốc của doanh nghiệp có đảm bảo tính hợp pháp hay không. Tất cả những hành động này nhằm chống lại việc khai thác gỗ lậu, huỷ hoại môi trường sinh thái.
Việt Nam khi xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực sang khối EU có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Về thuận lợi, EU là một trong những thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới, có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hoá, nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU về những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là rất lớn và chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam đang dần hoàn thiện. Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và EU cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi phổ cập (GSP), EU cũng đã bãi bỏ quy định chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi cũng có những khó khăn. Quy mô thị trường rộng lớn, khó mà đáp ứng được hết. Đặc biệt, từ đầu năm 2009, hàng giày dép Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này không còn được hưởng chế độ đãi ngộ GSP. Hàng dệt may Việt Nam và các nước khác sẽ phải cạnh tranh gay gắt nhất là với hàng Trung Quốc do EU đã bãi bỏ hạn ngạch vơi nước này, hơn nữa, Trung Quốc có năng lực cạnh tranh lớn, chủ động được nguồn nguyên liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng hoá.
Tóm lại EU là một thị trường khó tính, khó thâm nhập. Để thúc đẩy hơn nữa việc xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực của ta sang thị trường này, chúng ta cần phải năng động hơn, đa dạng mặt hàng, tăng chất lượng, tìm hiểu luật lệ của EU, nắm bắt cơ hội tốt, cập nhật thông tin về thị trường và bạn hàng. Ngoài ra, phải tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của các cơ quan xúc tiến thương mại của ta ở thị trường này để mở rộng hơn nữa thị phần hàng hoá nói chung và hàng công nghiệp chủ lực Việt Nam nói riêng.
Hoa Kỳ:
Từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay (12/7/1995), buôn bán giữa hai nước đã có những bước nhảy vọt, đặc biệt là xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Hoa Kỳ. Nếu năm 1995, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam mới đạt 130 triệu USD thì đến năm 2000, năm Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) được ký kết, đã tăng lên 733 triệu USD; tiếp đến năm 2001, năm BTA có hiệu lực (10/12/2001), tăng lên 1.065 triệu USD và đến năm 2003 đạt gần 4.555 triệu USD. Việt Nam trở thành bạn hàng thương mại lớn thứ 40 của Hoa Kỳ (tính riêng xuất khẩu, Việt Nam là nước xuất khẩu thứ 35 và Hoa Kỳ). Hoa Kỳ trở thành thị trường lớn nhất cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Chủng loại hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chủ yếu là may mặc, giày dép, ngoài ra còn có sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ…
Thách thức doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt tại thị trường Hoa Kỳ.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đang vấp phải hàng rào bảo hộ (dệt may bị hạn chế bởi hạn ngạch, sản phẩm gỗ gặp phải đạo luật Lacey-đạo luật nhằm thắt chặt hơn việc kiểm soát nguồn gốc sản phẩm gỗ. Căn cứ đạo luật này, hành động lấy gỗ, khai thác, sở hữu, vận chuyển, bán hoặc xuất khẩu không tuân thủ quy định của luật pháp ở bất cứ quốc gia nào cùng được xem là vi phạm tại Mỹ).
Năng lực cung và khả năng tiếp thị xuất khẩu của Việt Nam còn yếu, đặt biệt do quy mô sản xuất nhỏ, nên khó đáp ứng các đơn đặt hàng lớn của Hoa kỳ.
Việt Nam mới chỉ thực sự thâm nhập thị trường Hoa Kỳ năm 2002 sau khi BTA có hiệu lực, trong khi đó các nước khác đã có hệ thống bạn hàng nhập khẩu và phân phối tài thị trường này từ lâu.
Nhiều mặt hàng của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải chịu mức thuế nhập khẩu cao hơn so với nhập khẩu từ các nước được hưởng GSP, ưu đãi thương mại của Hoa Kỹ hoặc có hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ.
Các phí vận chuyển hàng từ Việt Nam sang Hoa Kỳ thường cao và lâu hơn so với từ các nước khác.
Hệ thống pháp luật thương mại và hàng rào kỹ thuật của Hoa Kỳ rất phức tạp. Chúng ta cần phải có nhiều cố gắng mới có thể thâm nhập được thị trường này.
1.2.1 Tác động của chính sách thị trường đối với việc xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam
Cùng với sự tăng trưởng nhanh kim ngạch xuất khẩu, sự chuyển biến tích cực cơ cấu hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu của Việt nam những năm gần đây đã có sự phát triển mở rộng, cơ cấu các khu vực thị trường và nước “bạn hàng” đã có những thay đổi lớn, hiện nay thị trường xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chủ lực chủ yếu của Việt Nam là EU, Mỹ, Nhật, ASEAN.
Nếu năm 1994 thị trường Châu á chiếm tới 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam thì năm 1997 giảm xuống còn 75,8 %, năm 2001 chỉ còn chiếm 61,3% (trong đó khu vực ASEAN chiếm 24,3%) và năm 2007 chỉ là 43,2%. Thị trường xuất khẩu Việt nam phát triển theo hướng mở rộng sang Châu âu, đặc biệt là Tây Bắc Âu, thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu có dấu hiệu phục hồi. Nếu năm 1994 thị trường Châu Âu mới chỉ chiếm tỷ trọng 9,79% trong tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt nam thì đến năm 1997 đã tăng lên gấp 2 đạt 17,16 % và năm 2000 tiếp tục tăng lên 21,5%. Năm 2001 là 27,7% ( trong đó EU là 22,5% ).
Châu Mỹ và đặc biệt là Hoa Kỳ là một hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt nam. Nếu năm 1994 Châu Mỹ mới chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim ngạch của Việt nam thì năm 1997 đã tăng lên 2,76% năm 2000 chiếm tới 4,48%, và năm 2006 chiếm 21.5%. Thị trướng xuất khẩu của Việt Nam cũng đang được mở rộng đáng kể sang Châu Phi và Trung Đông. Năm 1995 xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường châu Phi mới chỉ đạt 38 triệu USD nhưng đến năm 2005 đã tăng lên 681 triệu USD.
Đồ thị: Kim ngạch xuất khẩu phân theo thị trường thời kỳ 1986-2005
Đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt nam từ năm 1994 đến nay cho thấy: một mặt quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu không ngừng mở rộng đồng thời Việt nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa ( Tây Bắc Mỹ, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương ). Việt nam đã chuyển dần cơ cấu từ các nước Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu sang các khu vực thị tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ảnh hưởng của chính sách thương mại tới việc xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam.doc