MỞ ĐẦU 1
1. tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 1
3. Mục đích, nhiệm vụ và pnhạm vi nghiên cứu của khoá luận 2
4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận 2
5. ý nghĩa khoá luận 2
6. Kết cấu khoá luận : 2
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ VƯƠNG QUỐC CHĂM PA 3
1.1. Sự ra đời và hình thành của Vương quốc Chăm 3
1.2. Vài nét về đặc điểm tự nhiên và xã hội của Vương quốc Chăm Pa 6
1.2.1. Thiên nhiên miền Trung với Vương quốc Chăm pa 6
1.2.2. Hiểu thêm về nền nông nghiệp Chăm pa 7
1.2.3. Ưu thế lâm, ngư, thương nghiệp của Vương quốc Chămpa 9
1.2.4. Cư dân Chămpa 12
CHƯƠNG 2 14
VĂN HOÁ ẤN ĐỘ VÀ DÂN TỘC CHĂM 14
2.1. Những con đường đưa văn hoá Ấn độ đến với xứ sở Chăm pa 14
2.2. Yếu tố bản địa trong quan hệ văn hoá Chăm - Ấn Độ 24
CHƯƠNG 3 29
MỘT SỐ BIỂU HIỆN CỦA ẢNH HƯỞNG VĂN HOÁ ẤN ĐỘ ĐẾN VĂN HOÁ CHĂM 29
3.1. Ngôn ngữ, chữ viết, văn học và lịch pháp 29
3.2. Âm nhạc và Múa 35
3.3. Kiến trúc Chăm 40
3.4. Điêu khắc 43
KẾT LUẬN 52
54 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 4207 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam và người Chăm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưa có đầy đủ cứ liệu để chứng minh người Sa Huỳnh là tiền thân của người Chămpa, nhưng chắc chắn chủ nhân của nền văn hoá Sa Huỳnh - một nền văn hoá kim khí phát triển cao ở Đông Nam Á - phải là một bộ phận cư dân quan trọng của vương quốc Chămpa sau này. Về nhiều mặt, cư dân Chămpa không thua gì người Ấn cả, có thua chăng là thua cách tổ chức một xã hội ở mức cao hơn - mức quốc gia, vì khi người Ấn tới cư dân Chămpa đang còn ở giai đoạn tiền nhà nước, có thua chăng là thua ở một tư tưởng , một tôn giáo với đầy đủ hệ thống giáo lý chặt chẽ và hấp dẫn và có thua chăng là thua một hệ thống văn tự và văn bản hoàn chỉnh, tiện lợi. Hơn thế nữa, văn hoá truyền thống của các cư dân Chămpa có nhiều tương đồng và gần gũi với văn hoá của các dân tộc Ấn Độ, vì thổ dân Chămpa cũng như nước Đông Nam Á, nói chung, về mặt nhân chủng học rất gần với nhiều dân tộc Ấn Độ. Điều này giúp ta phần nào hiểu được vì sao người dân Chămpa cũng như Đông Nam Á dễ dàng chấp nhận và tiếp thu những thành tựu văn hoá, thậm chí cả những thành tựu phát triển cao hơn của Ấn Độ. Hay nói một cách khác , những truyền thống văn hoá của các cư dân Chămpa đã tìm được ở văn hoá Ấn Độ những hình thức thể hiện phù hợp nhưng ở mức cao hơn.
Những bằng chứng về khảo cổ học cũng như dân tộc học cho ta biết, khi người Ấn tới nhiều tộc người ở Đông Nam Á trong đó có những cư dân Chămpa đã sống trong một xã hội tiền nhà nước, nghĩa là trong xã hội đã có một tầng lớp tù trưởng lớn hay những thủ lĩnh lớn . Những người Ấn chắc hẳn sẽ tìm cách bén rễ vào tầng lớp xã hội bên trên này của Chămpa ở giai đoạn đầu khi họ tới đây. Truyền thuyết về Kaundinya là một trong những bằng chứng tuy hoang đường nhưng cũng phần nào phản ánh sự thực đó. Và một điều cũng rất tự nhiên là các thủ lĩnh hay các tư tưởng của Chămpa đã rất nhanh chóng tiếp nhận những cách tổ chức xã hội và chính quyền của Ấn Độ để tạo lập ra những Quốc gia những nhà nước lớn. Mà những cách tổ chức đó hay khoa học về chính trị về luật pháp đã được người Ấn Độ đúc kết thành văn bản chi tiết. Để tổ chức được một nhà nước mang tính chất vương quyền theo kiểu Ấn Độ, không thể không có tôn giáo, mà những tôn giáo đó lại sẵn ở Ấn Độ, vì thiếu một trong ba thứ đó không thể thiết lập lên một vương quyền kiểu Ấn Độ. Do đó, có thể nói, tính vương quyền hay mục đích nhằm thiết lập và củng cố vương quyền là đặc trưng đầu tiên nổi bật nhất của quá trình bành trướng và du nhập văn hóa Ấn Độ vào Chămpa cũng như vào các quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á.
Các đại diện tầng lớp trên của Chămpa đã tiếp nhận, thông qua người Ấn Độ, hầu như tất cả những thành tựu văn hoá của Ấn Độ để phục vụ cho việc thiết lập và sau đó củng cố vương quyền. Ngay từ những thời kỳ đầu lập quốc, vua chúa và tầng lớp trên của Chămpa đã tiếp nhận chữ Phạn, đã học và làm theo các trước tác về khoa học chính trị và luật pháp của Ấn Độ, đã chọn Ấn Độ giáo ( chủ yếu là Siva giáo ) làm tôn giáo của triều đình.
Cũng hoàn toàn rất tự nhiên, một khi đã chấp nhận chữ viết, các văn bản thành văn và tôn giáo, vua chúa Chămpa phải học và làm theo những hình thức biểu hiện của văn bản, của tôn giáo, nghĩa là phải đọc các tác phẩm văn học tôn giáo, phải xây dựng đền tháp thờ các thần, phải chạm khắc các hình thần linh
Ở Ấn Độ, văn học nghệ thuật, âm nhạc, sân khấu, múa, hội lễ, phong tục tập quán đều gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, với vương quyền. Phục vụ cho thần linh, phải có đền miếu, hình tượng, hội lễ, kinh sách ( cả dưới dạng những tác phẩm văn học, nghệ thuật âm nhạc và múa phục vụ cho việc củng cố vương quyền, ngoài tổ chức chính trị, xã hội và luật pháp, và còn có nhiều thứ khác đi theo tôn giáo, cách sống , cách giải trí chính vì thế mà chúng ta thấy rõ rệt một điều là triều đình Chămpa đã tiếp nhận gần như toàn bộ những thành tựu văn hoá của Ấn Độ, từ chữ viết, văn bản, đến kiến trúc điêu khắc, từ luật, chính trị tới văn học, ca múa, từ cách đi đứng, ăn chơi tới hệ thống đẳng cấp Không phải ngẫu nhiên mà những gì thư tịch cổ Trung quốc và bia ký Chămpa ghi lại cũng như những tác phẩm kiến trúc và điêu khắc mà vương quốc cổ Chămpa để lại là cả một bức tranh phong phú, sinh động và khá đầy đủ về ảnh hưởng nhiều mặt của văn hoá Ấn Độ đối với triều đình và tầng lớp trên của Chămpa.
Tất nhiên, để tạo ra đền tháp, những tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ, để trình diễn những bản nhạc và những vũ điệu Tây thiên đầy quyến rũ phải có sự tham gia, thậm chí là sự tham gia chủ yếu, của những người dân bình thường đã được học hành và đào luyện kỹ lưỡng, nhưng tất cả những cái đó đều nhằm phục vụ cho vương quyền và đều cho vua chúa và tầng lớp trên của quốc gia Chămpa nằm giữ. Không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả những di sản văn hoá Chămpa hiện còn đều mang tính vương quyền và phục vương quyền vì thế, chúng tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa, tính vương quyền là đặc trưng cơ bản nhất của quá trình tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ở Chămpa. Đặc trưng này không riêng cho Chămpa mà còn chung cho cả các quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á . Điều này lý giải vì sao khi các vương triều chịu ảnh hưởng Ấn Độ sụp đổ thì những ảnh hưởng Ấn Độ cũng hoặc biến mất luôn hoặc phải biến đổi cho phù hợp.
Tất nhiên, những ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ở Chămpa cũng được dân chúng tiếp nhận, hay nói cách khác, ảnh hưởng của Ấn Độ cũng đã bén rễ ở lớp dưới của xã hội Chămpa; nhưng chủ yếu đời sống và sinh hoạt và văn hoá Chămpa dân gian. Vì vậy, khi có một sự tác động mới vào đó, hoặc theo thời gian, những ảnh hưởng đó mất đi, biến đổi hoặc bị lãng quên. Một trong những bằng chứng đầy thuyết phục cho điều này là, hiện nay khó có thể tìm thấy những ảnh hưởng của Ấn Độ trong người Chăm hiện nay. Ở những người Chăm theo Hồi giáo chúng đã được thay bằng ảnh hưởng của Đạo hồi, còn ở những người Chăm Bàlamôn, thì chúng đã bị hoà nhập vào những yếu tố văn hoá dân gian truyền thống rồi. Kết quả là, những dấu tích còn lại duy nhất cũng như những gì đã được ghi lại thành văn về ảnh hưởng của Ấn Độ đối với Chămpa, lại đều liên quan tới triều đình và tầng lớp trên, hay nói một cách khác, là gắn với văn hoá cung đình của Chămpa. Vì vậy, nói đến ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ở Chămpa cổ, nghĩa là chủ yếu nói đến những dấu ấn của Ấn Độ trong văn hoá cung đình. Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn nhưng khác với Trung hoa hay đế chế LaMã, người Ấn Độ đem văn hoá mình đến cac quôc gia khác băng con đường hoà bình. Một trong những hướng đi mà người Ấn Độ đã chọn, chính là hướng Đông, gió mùa đã dẫn dắt họ đi. Và điểm dừng chân trong hành trình đó khi đến Việt Nam, họ đã chọn Chămpa.
Bắt đầu từ sự xâm nhập của các thương lái vượt biển xa đến đây, văn hoá Ấn Độ dần bén rễ và bắt nhịp vào cuộc sống của xã hội Chăm. Ở mức độ này hay mức khác văn hoá Ấn Độ có thể chỉ đựơc tiếp nhận mạnh mẽ bởi vương quyền Chămpa hoặc chưa tạo lập được ảnh hưởng rộng trong đời sống dân gian. Mặc dầu vậy, một điều không thể phủ nhận đựơc là: những ảnh hưởng Ấn Độ đã góp một phần cực kì quan trọng vào quá trình hình thành ra vương quốc Chămpa cũng như một nền văn hoá phát triển rực rỡ và đầy bản sắc - văn hoá Chăm. Ngược lại chính Chămpa, văn hoá Chămpa đã góp phần làm nên sức sống cũng như giá trị cho Ấn Độ và nền văn minh Ấn Độ.
2.2. Yếu tố bản địa trong quan hệ văn hoá Chăm - Ấn Độ
Cũng như ở những quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á vì tiếp nhận những yếu tố văn hoá Ấn Độ để phục vụ cho vương triều, nên vua chúa và tầng lớp trên của Chămpa đã làm cho những ảnh hưởng Ấn Độ nhanh chóng bén rễ và trùm lên khắp các lĩnh vực văn hoá cung đình. Chữ viết Ấn Độ được dùng như một dạng chữ thiêng, các trước tác và kinh bổn của Ấn Độ đựơc đem ra học tập và áp dụng, đền đài miếu mạo được dựng lên thờ các thần Ấn Độ, các nghi lễ, các trò chơi giải trí của Ấn Độ luôn diễn ra trong cung cấm để phục vụ cho những mục đích khác nhau của vua chúa
Cũng vì nhằm mục đích phục vụ vương triều nên các vua chúa Chămpa đã phải nhanh chóng biến những ảnh hưởng của Ấn Độ cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước và dân chúng của mình. Dù có nhiều nét chung đến mấy đi nữa, thì đối với Chămpa, văn hoá Ấn Độ vẫn cứ là từ bên ngoài vào và có nhiều điều xa lạ đối với văn hoá truyền thống của Chămpa. Vì vậy không có sự thay đổi, thì những yếu tố Ấn Độ khó có thể nhập đựơc vào mảnh đất Chămpa. Người đầu tiên phải làm công việc này, không phải là ai khác, mà chính là vua chúa và tầng lớp trên của triều đình Chămpa. Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, những cái vỏ, những hình thức biểu hiện của Ấn Độ đã nhanh chóng đựơc khuôn vào những nội dung truyền thống bản địa và góp phần đẩy những nội dung đó lên một cấp độ cao hơn.
Với bia ký Đông Yên Châu ( Quảng Nam - Đà Nẵng ) thế kỉ IV - V, Chămpa là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á đã dựa trên văn tự Ấn Độ sáng tạo ra chữ viết của mình. Từ đó trở đi, ở Chămpa, bên cạnh chữ Phạn, đã tồn tại và phổ biến chữ viết của người Chăm. Sau nhiều lần cải tiến từ dạng chữ vuông đến chữ nét cuốn, văn tự một ngày một hoàn hảo để trở thành dạng chữ viết phổ biến ở người Chăm hiện nay.
Cũng ngay từ thế kỷ IV - V, bia Đông Yên Châu cho chúng ta biết, bên cạnh thờ các vị thần Ấn Độ, các vua chúa Chăm còn duy trì tín ngưỡng bản địa - thờ thần rắn. Bên cạnh thờ thần rắn, các vị thần bản địa cũng dần dần đựơc đẩy lên ngang tầm với các vị thần tối thượng Ấn Độ và nhập vào cái vỏ của thần thoại Ấn Độ. Ví dụ điển hình cho hiện tượng này là sự tôn kính và sùng bái của các vua chúa Chămpa dành cho nữ thần Mẹ của xứ sở - nữ thần Pô Inư Nagar. Muộn hơn việc thờ Pô Nagar là việc triều đình và dân chúng Chămpa đã thần hoá một số vị vua có công với nước như Pô Kaung Garai (1151 - 1205 ). Pô Rômê ( 1627 - 1651 ) và nhờ các vị vua đó dưới dạng Siva tại các tháp lớn. Hiện tượng thờ thần vua ở Chămpa chỉ là một hình thức cao hơn của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền thống của người Chăm. Khi tôn giáo của Ấn Độ ngự trị trong triều đình Chămpa, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không những mất đi mà còn được đẩy cao lên tới tầm cỡ tôn giáo. Các bia ký cổ Chămpa luôn nói tới các vua, các đại thần dựng thánh đường thờ những tổ tiên đã mất dưới dạng các vị thần Ấn Độ. Đặc biệt, đối với các vua, hình thức thờ phụng tổ tiên còn được huyền thoại hoá, được bọc bên ngoài lớp vỏ linh thiêng nhất, cao nhất của các tôn giáo Ấn Độ.
Đúng là các vua chúa Chămpa đã tiếp thu khái niệm " vua là hiện thân của thần linh trên mặt đất " của Ấn Độ. Nhưng việc thần hoá vua ở Chămpa đã nhập luôn vào tục thờ cúng tổ tiên truyền thống. Vì vậy, nếu như ở Ấn Độ vua chỉ được thần hoá trong quan niệm, thì ở Chămpa, vua có được lập thân vào vị thần tối thượng và được thờ phụng như thờ một vị thần tối thượng. Các bia kí cho chúng ta biết, ngay thánh đường dựng đầu tiên ở thánh địa Mĩ Sơn vào thế kỉ V đã là đền thờ thần vua rồi. Từ thời điểm đó trở đi, các vị vua Chămpa luôn được thần hóa, được chôn cất và thờ phụng ngay ở những tháp thờ các vị thần Ấn Độ. Hơn thế nữa, sau khi chết, nhiều vua Chămpa còn được phong miếu hiệu. Mà miếu hiệu của các vua Chămpa bao giờ cũng có nghĩa là hoà nhập vào một vị thần tối thượng nào đó. Không phải ngẫu nhiên mà người Chăm hiện nay gọi tháp thờ các vị thần Balamôn là Kàlằn ( Lăng mộ) hay mun kàlằn ( đền lăng ).
Ngay ở tục thờ phụng tổ tiên các vị thần bản địa thôi chúng ta đã thấy cái vỏ vững chắc nhất của Ấn Độ - cái vỏ tôn giáo - đã phải bị vỡ ra để nhập vào những truyền thống bản địa như thế nào ở Chămpa. Cũng thật tự nhiên và hợp quy luật, một khi cái hạt nhân đã biến đổi, sẽ kéo theo những biến đổi khác của những thành tố phụ trợ. Do việc thờ thần hoà nhập vào với tục thờ vua và tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên nên chức năng của các thánh đường Chămpa phải chuyển thành chức năng của đền lăng. Mà một khi nội dung thay đổi thì các hình thức thể hiện nội dung đó cũng phải biến đổi theo, chính vì thế, tuy vẫn trung thành phỏng theo mô hình và các đề tài Ấn Độ, tháp thờ, các hình tượng thờ phụng, hay nói một cách khác là nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ của Chămpa, vẫn có sắc thái riêng, vẻ đẹp riêng, chứ không giống hệt những nguyên mẫu của Ấn Độ.
Cho dù văn hóa Ấn Độ có cả một quá trình ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài nền văn hoá Chămpa thì những yếu tố bản địa vẫn tìm cách vượt lên để khẳng đínhức sống mãnh liệt và tiềm tàng của nó. Nếu như Ấn Độ hiện hữu với thiếu nữ ApSara hay vũ điệu quồng nhiệt Tanđava, thì trong cuộc sống sinh hoạt của người Chăm vẫn tồn tại những điệu múa cổ gắn liền với cộng đồng - Đó là múa vãi chài miêu tả cuộc sống đi biển, vượt sóng hay đánh bắt cá của người Chăm, múa pụ ( đội nước ) thể hiện những điệu bộ động tác múa di chuyển, đội nước của các cô gái Chăm - một việc làm , một nhu cầu trong đời sống khô hạn, khắc nhiệt trên xứ sở Chămpa. Rồi múa lửa hay múa Piđiền ( múa chim công ) đều thể hiện trong đó những nội dung, quan niệm, phong cách của người Chăm.
Cũng như múa, trong âm nhạc Chăm dù cho sự hiện diện của các loại nhạc cổ Ấn Độ, nhưng người Chăm có những loại nhạc cụ truyền thống đặc trưng như trống baramưng, kèn saranai., nhị muarùa ( kanhí ) họ cũng có thể biến đổi, hay thể hiện những nhạc cụ Ấn Độ theo phong cách Chăm.
Như vậy, trong ba nguồn gốc của văn hoá Chăm, nguồn ảnh hưởng Ấn Độ có vẻ nổi bật nhất, nhưng thực chất thì nguồn bản địa và khu vực mới giữ vai trò quan trọng. Thực tế, có lẽ phần lớn người Chăm bình dân không hề biết đến các triết lý Bàlamôn giáo cùng các vị thần, các truyền thuyết Ấn Độ xa lạ. Đó là việc của các sỹ Bàlamôn. Tu sĩ Bàlamôn thì chỉ đạo xây dựng đền, tạc tượng theo những khuôn mẫu Ấn Độ, con người nghệ sỹ dân gian thì xây và tạc theo cảm hứng và những khuôn mẫu truyền thống của nhân dân mình.
Từ chỗ cả ba vị thần BalaMôn đều được dựng tháp thờ khi đạo này mới du nhập dần chỉ có một mình Siva được đề cao bởi lẽ tính cách Siva phù hợp hơn cả tính cách bản địa của người Chăm. Và trong Siva muôn mặt với hàng trăm tên chỉ có Siva dưới dạng Linga hoặc với Linga được phổ biến bởi lẽ tục thờ cột đá như một dạng tín ngưỡng phồn thực vốn là truyền thống lâu đời của người nông nghiệp. Cuối cùng, Siva thì được hình dung thành người Chăm (ngay cả con bò thần Nanđin cũng được thể hiện dưới dạng con trâu quen thuộc) còn Linga thì ở chỗ này được thay bằng ông vua – anh hùng dân tộc Chăm,ở chỗ khác thì được thay bằng nữ thần Mẹ quê hương xứ sở. thành ra trên thực tế, thần Siva cùng bạn bè, bộ hạ của ông với những lý lịch Ấn Độ xa lạ chỉ còn tồn tại trong ý nghiã của tầng lớp trí thức và tu sĩ Bàlamôn, đối với số đông người dân Chăm, Thần Siva, tượng Linga... chỉ là hình thức, còn ước vọng phồn thực và lòng sùng kính các Nữ thần địa phương, các anh hùng dân tộc mới là nội dung. Cũng dễ hiểu khi đạo Bàlamôn xa lạ đã được người Chăm biến cải thành Đạo Bà Chăm gần gũi, đạo Bà Chăm này đã không còn là BalaMôn giáo Ấn Độ nữa mà chỉ có thể xem như một biến thể của nó. Bởi người Chăm luôn hướng tới cội nguồn và mảnh đất xứ sở nơi mình đã sinh ra và lớn lên.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ BIỂU HIỆN CỦA ẢNH HƯỞNG VĂN HOÁ ẤN ĐỘ ĐẾN VĂN HOÁ CHĂM
3.1. Ngôn ngữ, chữ viết, văn học và lịch pháp
Khi nghiên cứu quá trình bành trướng và du nhập ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ vào Đông Nam Á, các nhà khoa học cho rằng, các trước tác được ghi chép thành văn bản (sastra) của Ấn Độ đóng một vai trò cực kì quan trọng. Thậm chí, có nhà nghiên cứu còn đánh giá tầm quan trọng của sách vở lớn hơn cả vai trò của người Âu trong việc truyền bá ảnh hưởng của Ấn Độ ở Đông Nam Á. Ví dụ, trong công trình “ảnh hưởng của Ấn Độ trong vùng Thái Bình Dương” W.F Stutterheim cho rằng: “Toàn bộ nền văn hoá Ấn Độ ở Inđônêxia đã được học tập trong sách vở, còn người Ấn chỉ đóng một vai trò không đáng kể, thậm chí còn không đóng một vai trò nào cả”. Có thể ý kiến trên có phần hơi thái quá, nhưng một điều chắc chắn là ở Chămpa cũng như ở một số quốc gia cổ đại khác trong khu vực Đông Nam Á, những tác phẩm văn của Ấn Độ có vai trò không phải là nhỏ trong việc truyền bá và củng cố những ảnh hưởng của văn minh Ấn.
Như đã đề cập ở phần trước, hầu như tất cả những trước tác về luật pháp chính trị và tôn giáo của Ấn Độ đều đã có mặt ở Chăm pa, được các vua chúa Chămpa áp dụng và ưa thích. Tất nhiên, cái chìa khoá để hiểu được những tác phẩm văn đó không thể là cái gì khác ngoài ngôn ngữ và chữ viết. Chỉ qua những gì hiện có và được biết chúng ta đã thấy chữ Phạn (Sanskrit) đã được người Chămpa tiếp thu từ thế kỷ dầu công nguyên. Bia Võ Cạnh (tấm bia cổ nhất bằng chữ Phạn ở Đông Nam Á) với cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký Amaravati ở Nam Ấn Độ, đã được các nhà nghiên cứu định niên đại thế kỷ 3-4 là bằng chứng đầu tiên về sự du nhập chữ Phạn vào Chămpa. Từ thời điểm đó cho tới khi Vương quốc Chămpa chấm dứt dưới sự tồn tại của mình, chữ Phạn luôn là chữ viết được dùng trong triều đình Chămpa. Một điều rất đặc biệt là diễn biến dạng tự chữ Phạn ở Chămpa gần như đồng thời với sự biến đổi ở Ấn Độ.
Nếu nhìn vào sự tiến triển của văn tự Sanskrit ở Chămpa, ta thấy từ trước thế kỷ 4 mà bia Võ Cạnh là tài liệu duy nhất chữ viết có dạng cong của Nam Ấn, sau đó, trong những thế kỷ từ 6-8 lại có dạng tự vuông của Bắc Âu, rồi từ thế kỷ 8 trở đi dạng tự chữ Phạn của Chămpa chuyển sang kiểu tròn Nam Ấn. Ngay sự diễn biến của chữ Phạn ở Chămpa cũng phần nào chứng tỏ giữa Ấn Độ và Chămpa thời cổ luôn có sự giao lưu thường xuyên về văn hoá.
Cũng như ở các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, người Chămpa đã sớm tiếp thu hệ thống văn tự cổ Ấn Độ để sáng tạo ra chữ viết của chính mình. Theo những tài liệu hiện được biết, một điều mà chúng ta biết chắc là: Chămpa là một quốc gia có chữ viết sớm nhất ở Đông Nam Á. Ngay vào thế kỉ 4-5, vua Bhađravanrman đã cho khắc tấm bia (bia Đông Yên Châu) bằng chữ Chămpa cổ nói về vị thánh Naga của nhà vua. Xét về mặt dạng tự chữ Chămpa cổ được viết theo dạng cong như của Nam Ấn. Sau đó từ thế kỷ 13 trở đi, chữ Chămpa trở lại nét cong và móc nhưng phóng khoáng hơn.
Ngay ở bia Đông Yên Châu đã xuất hiện xu hướng cải biên văn tự kiểu chữ thảo (chữ cong - akhar thrah) của Ấn Độ bằng cách bỏ các kí hiệu phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm . Sau đó , một số kí hiệu được bổ sung, một số kí hiệu viết trên hoặc dưới dòng được đưa về cùng hàng với kí hiệu cơ bản. Theo các nhà nghiên cứu, tiếng Chăm có 65 kí hiệu, trong đó có 41 chữ cái (6 nguyên âm a và 35 phụ âm) và 24 chân chữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (akhar thrah) của Ấn Độ. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ và chữ viết Chăm nổi tiếng A.Cabaton cho rằng, trong suốt quá trình lịch sử, người Chăm đã dùng một số kiểu chữ Ấn Độ như akharik (chữ Thánh), akharkalaming (chữ con nhện), akhartapuk (chữ sách) akharjok (chữ thần bí), akharator (chữ treo) và phổ biến hơn cả là akharthrah (chữ thảo). Chữ thảo là loại chữ mà người Chăm hiện còn dùng và E.Aymonier và A.Cabaton sử dụng để biên soạn từ điển Chăm - Pháp vào năm 1906. Ngoài những tài liệu bia kí, các sử liệu Trung Quốc còn cho chúng ta biết, ngay từ trước thế kỷ 7, người Chăm đã dùng văn tự của mình để ghi chép kinh sách và trao đổi thư từ. Sử liệu Trung Quốc cho biết vào năm 605, Lưu Phương - vị tướng nhà Tuỳ đem quân đánh Lâm Ấp và đã thu về hơn 1.350 bộ kinh Phật và nhiều sách viết bằng chữ Chiêm Bà ... Hiện nay, ngoài chữ thảo được dùng trong những mục đích thế tục, người Chăm còn sử dụng loại chữ akhartapuk (chữ sách) để ghi trên những thẻ lá buôn, một số thi phú cổ.
Do nhiều nguyên nhân lịch sử, chúng ta hiện nay không có một văn bản văn học cổ nào của người Chăm. Nhưng bia kí và những tác phẩm nghệ thuật điều khắc lại cho biết hầu như tất cả những tác phẩm văn học cổ đại nổi tiếng của Ấn Độ đều có mặt và được biết đến ở Chăm pa. Bia ký thế kỷ 7-8 của hai vị vua Vikrantavarman I và II có nói tới việc dựng đền thờ cho đại Rsi Valmiki” tác giả của bộ sử thi cổ đại nổi tiếng Ramayara của Ấn Độ. Việc thờ Valmiki, chứng tỏ ngay từ thế kỷ 7, tác phẩm Ramayana của Ấn Độ đã phải được biết đến, nếu không nói là được ưa thích ở Chămpa. Tuy không có văn bản nhưng chúng ta biết chắc là cho đến tận thế kỷ 15, sử thi Ramayana vẫn còn được lưu truyền ở Chămpa. Bằng chứng là, trong Lĩnh Nam Chích quái - tập truyện cổ dân gian thế kỷ 15 của người Việt do Vũ Quỳnh, Kiều Phú biên soạn - có truyện Lĩnh Nam Chích Quái, tuy rất ngắn, nhưng lại tóm tắt được hầu như toàn bộ nội dung sử thi Ramayana của Ấn Độ. Truyện kể lại rằng: “Thời thượng cổ, ở ngoài nước Âu lạc có nước Diệu Nhiêm . Chúa nước ấy hiên là Dạ Thoa Vương, còn gọi là Trường Minh Vương hay Thập Đầu Vương (vua 10 đầu). Nước này phía Bắc giáp Hồ Tôn Tinh quốc. Nước Hồ Tôn Tinh có vua là Thập Xa Vương (vua 10 xe) có thái tử là Vi Bà. Vợ Vi Bà là Bạch Tinh Chiếu Nương dung mạo rất đẹp đẽ. Dạ Thoa nghe nói, rất thích bèn đánh Hồ Tôn để cướp vợ Vi Bà. Vi Bà tức giận, bèn đem loài vượn đi hầu phá núi, lấp bể thành đường phẳng để công phá nước Diệu Nhiêm, giết Dạ Thoa Vương cướp vợ y mà trở về. Chúng ta có thể nhận thấy ở Truyện Dạ Thoa những nguyên mẫn nhân vật và địa danh của Ramayana: Nước Diệu Nhiên chính là đảo Lanka, Dạ Thoa Vương là quỷ Ravana mười đầu. Hồ Tôn Tinh quốc là nước Kosala, Thập Xa Vương - vua Dasaratha, thái tử Vi Bà - Rama, Bạch Tinh chiếm Nương - Si Ta đoàn quân vượn - đoàn quân khỉ của Hanuman.
Có lẽ hiện vật vật chất duy nhất còn loại chứng tỏ sự hiện diện của sử thi Ramayana ở Chămpa là bốn bức phù điện thế kỷ 10 (hiện có ở Bảo Tàng Chăm - Đà Nẵng) minh hoạ một vài cảnh rút từ sử thi. Tuy không đầy đủ nhưng ta dễ nhận ra các nhân vật chính của Ramayana là Rama, Si Ta HaNuman, Laksman ... trên bốn bức phù điên này của Chămpa.
“Viện các bia kí ở Đông Dương và Pô - Nagar mà chúng tôi đã dẫn nói tới các vị tổ huyền thoại của các vua Chămpa là những người trong dòng họ Parđava đã phần nào nói lên sự phổ biến của bộ sử thi nổi tiếng thứ 2 của Ấn Độ - sử thi Mahablarata - ở Chămpa. Theo nghiên cứu gần đây của chúng tôi bức phù điêu mang kí hiệu 47-70 ở Bảo tàng Chăm Đà Nẵng có xuất xứ từ thành Bình Định thể hiện cảnh Acgiunna cùng hoàng tử Utara ra trận - một trong những tình tiết quan trọng của sử thi Mahabharata.
Theo G.Xơdes những hình khắc trên bốn mặt của bệ tượng Trà Kiệu (thế kỉ 10) nổi tiếng thể hiện các cảnh tiêu biểu rút ra từ bộ Bhagavata pivana. Như vậy là, không chỉ các bộ sử thi mà các truyện cổ tích (pinara) của Ấn Độ đã có mặt ở Chămpa.
Nếu rút ra rồi lên danh sách tên các vị thần mà bia kí nhắc tới hoặc các hình điêu khắc thể hiện, thì có thể nói, hầu như tất cả các tôn giáo chính của Ấn Độ đều được thờ phụng hay được nhắc tới ở Chămpa. Hơn thế nữa không ít những phù điêu Chămpa lại là hình ảnh nghệ thuật cô đúc về một truyện thần thoại hay một truyền thuyết nào đó của Ấn Độ. Ta có thể đưa ra dẫn chứng để minh hoạ. Mi nhà bằng đá ở tháp Mỉ Sơn E1 (thế kỷ 5-6) thể hiện thần Visnu nằm trên mình rắn Sesa (hay Ananta) hình ảnh cô đọng rút ra từ thần thoại Visnu Amantasayana kể về việc thần Visnu nằm nghỉ ngơi trên mình con rắn Sesa đang bồng bềnh trên đại dương nguyên sơ. Chiếc lá nhĩ của Mĩ Sơn F1 là cả một truyện thần thoại về quỷ dữ Ravana lay động núi thần Kailasa (Ravanna - grahamenti) Hai lá nhĩ Mỹ Sơn C1 và A’1 minh hoạ truyền thuyết về nguồn gốc vũ điệu Tanvađa của thần Siva ...
Ngoài những hình phù điêu thể hiện các nội dung một thần thoại hay truyền thuyết Ấn Độ nào đó, hàng chục hình ảnh tượng trưng trên phù điêu đá của Chămpa cũng là hình ảnh những vị thần của hệ thống thần thoại Ấn Độ. Ta có thể thấy trên điêu khắc Chămpa hình ảnh của hầu như tất cả các vị thần lớn nhỏ của Ấn Độ: Brahma cùng vợ là Uma, Bhagavati, Đurga và các con là Skarđa, Ganesa, các thiên nữ Apxara và các nhạc công thiên giới Ganđharva ...
Như vậy, qua bia kí và những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, chúng ta thấy, ở Chămpa đã có mặt hầu như toàn bộ những tác phẩm văn học cổ nổi tiếng cũng như các hệ thống thần thoại và truyền thuyết chính thuộc những tôn giáo khác nhau của Ấn Độ.
Cùng với các tác phẩm thành văn, cả một hệ thống lịch Pháp của Ấn Độ, không phải ngày dương (ngày tính theo mặt trời) mà ngày âm (ngày tính theo mặt trăng) - tithi - là đơn vị cơ bản. Mỗi tháng được chia làm hai nửa (paksa) nửa đầu gọi là purnimavasyce và được tính từ ngày trăng tròn, nửa sau gọi là amavasyce hay bakulavasya - được tính từ hôm trăng non mới mọc. Nửa bắt đầu từ hôm trăng non gọi là nửa sáng (suklapaksa) nửa bắt đầu từ hôm trăng tròn gọi là nửa tối (krisna - paksa). Người Ấn tính đầu tháng và cuối tháng bằng ngày trăng tròn.
Mỗi năm, theo lịch Ấn, có 12 tháng âm (Tháng tính theo mặt trăng): Traitra (vào khoảng tháng 3 và tháng dương lịch), Vaiskha (Tháng tư/tháng năm) Djaytha (tháng năm/tháng sáu), Asađha (Tháng sáu/tháng bảy), Sravana (tháng bảy/tháng tám) Bhađrapađa hay Pruusthapađa (tháng tám/tháng chín), Asvina hay Asvauđja (tháng 9/ tháng 10), Karttika (tháng 10/tháng 11) Margasirsa hay Agrahyaana (tháng 11/tháng 12) Dausa haftaisa (tháng 12, tháng 1) Magha (tháng 1/tháng 2) và Phalguna (tháng 2/tháng 3) Năm được tính bắt đầy từ Traitra.
Cứ hai tháng hợp với nhau tạo thành một mùa (ritu). Như vậy, theo lịch Ấn, có 6 mùa trong năm: (Mười hai tháng): Vasanta (mùa xân - từ tháng 3 ® tháng 5 dương lịch) Grisma (mùa hạ - tháng 5/tháng 7), Varsa (mùa mưa - tháng 7®9) Sarađ (mùa thu - tháng 9 ® 11) Hemanta (mùa đông: tháng 11 ® tháng 1) và Sisira (mùa lạnh - thán
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0173.doc