MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG MỞ ĐẦU 5
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 5
II. MỤC ĐÍCH-YÊU CẦU: 5
III. NỘÂI DUNG NGHIÊN CỨU: 6
IV. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN: 6
1. Ý nghĩa khoa học: 6
2. Ý nghĩa thực tiễn: 6
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 6
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN-KINH TẾ- NHÂN VĂN VÙNG NGHIÊN CỨU 7
I. ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN: 7
1. Vị trí địa lý: 7
2. Địa hình: 7
3. Mạng lưới thủy văn: 8
4. Khí hậu- khí tượng: 12
5. Giao thông: 17
6. Tài nguyên nước: 18
7. Thảm thực vật: 18
II. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ-XÃ HỘI: 18
1. Dân cư: 18
2. Cơ sở hạ tầng: 19
3. Cơ cấu kinh tế: 19
4. Định hướng phát triển kinh tế trong những năm tới: 22
CHƯƠNG II: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT 23
I. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT: 23
1. Trước năm 1975: 23
2. Sau năm 1975: 24
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT THỦY VĂN: 25
1. Trước năm 1975: 25
2. Sau năm 1975: 25
III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH: 26
1. Trước năm 1975: 26
2. Sau năm 1975: 26
CHƯƠNG III: CẤU TẠO ĐỊA CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THỦY VĂN 27
I. ĐỊA TẦNG KHU VỰC: 27
II. KIẾN TẠO: 36
1. Các hệ thống đứt gãy: 36
2. Hoạt động kiến tạo: 38
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT: 40
1. Giai đoạn Miocen muộn – Pliocen: 40
2. Giai đoạn Đệ Tứ: 42
III. ĐỊA CHẤT THỦY VĂN: 45
1. Nước trong các trầm tích bở rời Kainozoi: 45
2. Nước trong đá Mezozoi: 51
CHƯƠNG IV: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC 52
I. CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC: 52
1. Hiện tượng địa chất tự nhiên: 52
2. Hiện tượng địa chất công trình động lực: 55
II. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO: 57
1. Kiểu địa hình xâm thực bốc mòn rửa trôi: 57
2. Kiểu địa hình xâm thực tích tụ: 58
3. Kiểu địa hình tích tụ: 58
CHƯƠNG V: KHOÁNG SẢN VÀ VẬT LIỆU XÂY DỰNG 60
CHƯƠNG VI: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NAM THÀNH PHỐ 62
I. SỐ LƯỢNG GIẾNG KHOAN: 62
II. LƯU LƯỢNG KHAI THÁC: 64
III. CHẤT LƯỢNG NƯỚC KHAI THÁC: 66
1. Tầng chứa nước Holocen: 66
2. Tầng Pleistocen: 66
3. Tầng Pliocen trên: 67
4. Tầng chứa nước Pliocen dưới: 67
CHƯƠNG VII: TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN TRỮ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CỦA CÁC TẦNG CHỨA NƯỚC PLIOCEN TRÊN VÀ PLIOCEN DƯỚI 69
I. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC ĐẾN TRỮLƯỢNG: 69
II. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC: 72
1. Nhiễm bẩn hợp chất nitơ: 72
2. Xâm nhập mặn: 74
CHƯƠNG VIII: CÁC GIẢI PHÁP KHAI THÁC HỢP LÝ 76
1. Giải pháp luật pháp: 76
2. Giải pháp quản lý: 76
3. Giải pháp quy hoạch: 76
4. Giải pháp kỹ thuật: 77
CHƯƠNG IX: KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ 78
I. KẾT LUẬN: 78
II. KIẾN NGHỊ: 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC 84
CẤU TRÚC BẢN KHÓA LUẬN
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN-KINH TẾ- NHÂN VĂN VÙNG NGHIÊN CỨU 7
CHƯƠNG II: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT 23
CHƯƠNG III: CẤU TẠO ĐỊA CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THỦY VĂN 27
CHƯƠNG IV: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC 52
CHƯƠNG V: KHOÁNG SẢN VÀ VẬT LIỆU XÂY DỰNG 60
CHƯƠNG VI: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NAM THÀNH PHỐ 62
CHƯƠNG VII: TÁC ĐỘNG CỦA KHAI THÁC NƯỚC DƯỚI ĐẤT ĐẾN TRỮ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG CỦA CÁC TẦNG CHỨA NƯỚC PLIOCEN TRÊN VÀ PLIOCEN DƯỚI 69
CHƯƠNG VIII: CÁC GIẢI PHÁP KHAI THÁC HỢP LÝ 76
CHƯƠNG IX: KẾT LUẬN-KIẾN NGHỊ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC 84
74 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 3086 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận ảnh hưởng của việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng của tầng chứa nước pliocen trên và pliocen dưới khu vực tây nam thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho thấy trầm tích chọn lọc kém, phân bố lệch về phía cấp hạt lớn. Trầm tích hình thành trong môi trường vũng vịnh nửa hở-đầm lầy ngập mặn, chế độ thủy động lực yếu, đồ thị đườøng cong phân bố có 2 đỉnh.
Cả hai tập đều xuất hiện phong phú tập hợp tảo nước mặn, thuộc môi trường biển nông được Đào Thị Miên xác định như Cyclotella striata, C. stylorum, Paralia sulcata, Thalassiosira decipiens, Coscinodiscus nodulifer, C. lineatus, Actinocyclus ellipticus, Schuettia annulata, Thalassionema nitzschioides, Aulacosira sp., Thalassiosira lineatus, Actinocyclus sp., A. ohrenbergii, Diploneis interrupta, Planktonielea Sol.. Phức hệ trùng lỗ được Ma Văn Lạc xác định gồm những giống loài thuộc biển ven bờ và biển nông Asterorotalia pulchel1a, Ammonia japonica, Ammonia beccarii, Elphidium crispum, El.phidium adventur. Phức hệ bào tử phấn hoa được Nguyễn Đức Tùng xác định gồm có Rhizophoraceae, Sonneratiaceae, Acrostichum aureum,…v.v. thuộc môi trường đầm lầy ven biển.
e) Thống Holocen-bậc giữa-trên. Hệ tầng Cần Giờ (QIV2-3cg):
Được hình thành trong thời kì biển lùi, tiếp theo sau kì biển tiến Flandri. Chúng lộ ra gần hoàn toàn trên địa hình đồng bằng thấp với nhiều cụm tướng khác nhau.
Khu vực Bình Chánh các thành tạo trầm tích của hệ tầng thuộc cụm tướng tiền châu thổ. Mặt cắt lõi khoan 813 tại xã An Lạc, các trầm tích thuộc hệ tầng Cần Giờ gặp ở độ sâu 0-5m, gồm 2 tập:
YTập dưới: Sét màu xám đen chứa mùn thực vật, dày 1m. Tập này phủ trực tiếp trên lớp sét màu xám xanh thuộc hệ tầng Bình Chánh. Tỷ lệ phân bố hạt bột sét chiếm 99% còn lại là cát. Đường kính trung bình 0,004mm. Trầm tích thuộc tướng bùn lầy ngập mặn ven biển, có chế độ thủy động lực yếu và ổn định. Các thông số trầm tích khác cho thấy trầm tích chọn lọc kém, lệch về phía cấp hạt nhỏ. Trong trầm tích có chứa di tích tảo nước mặn khá phong phú.
YTập trên: Bột, sét, bột sét pha cát màu xám đen, xám nhạt chứa thực vật phân hủy yếu, dày 4m. Trong tập này chứa tảo nước ngọt, nước lợ và thân mềm nước lợ và nước mặn ven bờ.
Trong các trầm tích kể trên gặp những lớp than bùn dạng thấu kính có chứa bào tử phấn hoa điển hình cho các vùng đồng bằng ngập mặn ven biển.
Khu vực nghiên cứu thuộc phía Tây Nam của Thành phố, là địa hình trũng thấp nên phần lớn bị phủ bởi trầm tích bở rời thuộc hệ tầng Cần Giờ, hệ tầng Bình Chánh và hệ tầng Củ Chi.
KIẾN TẠO:
Các hệ thống đứt gãy:
Khu vực nghiên cứu có hai hệ thống đứt gãy chính: Tây Bắc – Đông Nam và Đông Bắc – Tây Nam. Hai hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam của sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ Đông là hai hệ thống đứt gãy cấp I của khu vực, phân định miền cấu trúc.
Hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam:
Hệ thống đứt gãy sông Sài Gòn được xem là hệ thống đứt gãy cấp II nằm song song với hai hệ thống đứt gãy sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ Đông, có tác dụng phân định miền cấu trúc ở hai bên của đứt gãy này, cùng với hệ thống sông đứt gãy sông Vàm Cỏ Đông và sông Đồng Nai tạo cấu trúc bậc thang của móng với biên độ sụt lún theo phương Tây Nam hướng về đới sụt Cửu Long.
Đứt gãy sông Sài Gòn kéo dài dọc theo sông Lái Thiêu – Rạch Gò Dưa – Cát Lái, các tài liệu dị thường Bouger chứng minh đây là đứt gãy thuận, có độ sâu 40 km, mặt trượt cắm về phía Tây Nam với góc 600 – 800 ở gần mặt và thoải dần 400 – 500 ở độ sâu 40 km, cự li dịch chuyển trong Neogen là 100m. Cánh Đông Bắc được nâng lên với dịch chuyển đá móng trước Pliocen là 60m, Pliocen thượng là 22m. Cùng phương với đứt gãy sông Sài Gòn còn có đứt gãy Bình Chánh- Cần Giuộc, đứt gãy Hoóc Môn – Bình Thạnh.
Hệ thống đứt gãy Đông Bắc – Tây Nam:
Hệ thống đứt gãy này gần như thẳng góc với hệ thống đứt gãy Tây Bắc – Đông Nam. Phần lớn chúng bị mờ đi. Tuy nhiên cũng có hệ thống thể hiện rõ như hệ thống Bình Chánh – Nhà Bè – Thủ Đức. Hệ thống này và còn một vài đứt gãy nữa có thể kéo dài ra khỏi phạm vi Thành phố. Góp phần vào quá trình phân dị khối tảng khu vực của hệ thống đứt gãy Đông Bắc – Tây Nam này đã làm cho cấu trúc khu vực nghiêng sụt về biển Đông và cấu trúc sụt Tây Nam Bộ.
Ngoài hai hệ thống đứt gãy này còn có một số đứt gãy khác (Bản đồ tỷ lệ 1:50.000) có phương kinh tuyến như đứt gãy Soài Rạp; phương á vĩ tuyến như đứt gãy Hậu Nghĩa – An Thạnh, đứt gãy Đức Hòa – Long Thành, phương vĩ tuyến như: đứt gãy Lý Nhơn, đứt gãy Thôn Tam Hiệp.
-Hình 1- Sơ đồ kiến tạo khu vực Thành phố Hồ Chí Minh-
(Dựa trên tài liệu Luận văn cao học của Ngô Trần Thiện Quý)
Hoạt động kiến tạo:
Hoạt động kiến tạo khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận có thể chia thành cổ kiến tạo và tân kiến tạo.
ØCổ kiến tạo (trước kỷ Thứ Tư):
Bắt đầu từ cuối Liat (J1) đến đầu Creta (K1), một chuyển động mang tính toàn cầu, đó là chuyển động Cimeri (Trần Kim Thạch, Hứa Văn Hoàng, 1997) và một vài chuyển động phụ của nó trước đó vào cuối Triat (T3) đã để lại nhiều hệ quả trong khu vực vùng Đông Nam bộ như làm uốn nếp các trầm tích Mezozoi đã thành tạo trước đó (khu vực Bửu Long, Châu Thới, Long Bình), gây các hoạt động đứt gãy, phun trào magma.
ØTân kiến tạo:
Tân kiến tạo có ảnh hưởng lớn đến việc thành tạo nên bề mặt địa hình hiện tại của khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và vùng lân cận.
Vào đầu Kainozoi, lục địa Ấn Độ xô đụng vào lục địa Âu Á, xảy ra quá trình chuyển động tạo núi Hymalaya. Các hoạt động này đã hình thành nên hệ thống đứt gãy phương Tây Bắc – Đông Nam, đồng thời các đứt gãy có trước thuộc hệ thống Đông Bắc – Tây Nam cũng tái hoạt động trở lại. Hai hệ thống đứt gãy khu vực này cùng hoạt động đã tạo nên sự phân dị khối tảng khác biệt về độ cao, đồng thời cả đồng bằng Nam Bộ cũng sụt lún thành một vùng trũng tích tụ các vật liệu trầm tích từ các vùng xung quanh.
Dọc theo các đứt gãy, magma phun trào đi lên tạo nên các lớp phủ bazan phân bố trên diện tích rộng lớn của miền Đông Nam Bộ. Theo tác giả Nguyễn Kinh Quốc thì hoạt động phun trào có thể được chia thành 4 thời kỳ chính: Neogen, Eopleistocen, Pleistocen, Holocen, xen giữa các kỳ hoạt động phun trào này là các loạt trầm tích. Vào cuối Pleistocen sớm, các hoạt động nâng đã biến khối Đông Nam Bộ thành khối nâng tương đối (Lê Đức An, 1980).
Vào Holocen, hoạt động kiến tạo sụt lún cùng với mực biển dâng làm cho toàn bộ Đồng bằng sông Cửu Long và phần lớn diện tích cấu trúc Đông Nam Bộ bị chìm trong nước biển.
Hoạt động kiến tạo đến nay vẫn còn thể hiện qua các đứt gãy còn hoạt động. Hoạt động magma phun trào ở Hòn Tre năm 1923 và các suối nước nóng hiện tại là dấu hiệu thể hiện sự hoạt động kiến tạo ngày nay.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT:
Khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh nằm ở rìa đồng bằng trũng Kainozoi Cửu Long có móng là các đá Mezozoi (MZ) mang tính chất là đá phủ hoạt hoá trên nền biến chất tiền Cambri. Các hoạt động kiến tạo nâng cao cùng các hoạt động xâm thực, bóc mòn vào giai đoạn Kreta muộn và Paleogen cũng như các hoạt động tân kiến tạo vào đầu Kainozoi với tính chất hoạt động khối tảng, đã tạo nên bề mặt móng của vùng nghiên cứu có dạng bậc thang thấp từ Đông Bắc sang Tây Nam.
Trong Kainozoi một phần diện tích hoạt động bị hạ thấp, hình thành trũng Neogen – Đệ Tứ Cửu Long, trong đó có trũng Kainozoi Thành phố Hồ Chí Minh.
Lịch sử phát triển địa chất Kainozoi của Thành phố Hồ Chí Minh trải qua 2 giai đoạn chính: Miocen muộn – Pliocen và Đệ Tứ, tương ứng với 2 phụ tầng cấu trúc của tầng cấu trúc lớp phủ Kainozoi. Quá trình phát triển này gắn liền với các hoạt động Tân kiến tạo và sự hình thành địa hình.
Giai đoạn Miocen muộn – Pliocen:
Vào cuối Miocen muộn, các hệ thống đứt gãy trước đó hoạt động lại. Phần phía Tây Thành phố (Tây đứt gãy Vàm Cỏ Đông) là đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục sụt lún. Phía Đông Thành phố (Đông đứt gãy Bà Rịa – Biên Hoà – Lộc Ninh) là cấu trúc Nam Trung Bộ, về cơ bản được nâng lên. Dọc theo đứt gãy Bà Rịa – Biên Hoà – Lộc Ninh, sông Vàm Cỏ Đông được lấp đầy bởi các trầm tích lục địa, thành phần chủ yếu là cát, sạn, sỏi màu xám.
Vào đầu Pliocen, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có sự sụt lún sảy ra với tốc độ lớn, ở phía Nam biển tiến vào phá huỷ các thành tạo trước và sau đó hình thành các trầm tích phần giữa châu thổ (frondelta). Các trầm tích này chủ yếu là cát kết vôi màu xám chứa các di tích tảo nước mặn. Sự sụt lún có tính chất phân dị theo các khối tảng. Theo hướng Tây Nam, các khối bị sụt lún sâu hơn, bề dày trầm tích lớn hơn. Căn cứ vào đường đẳng dày và các hướng phân bố của cát có thể dự đoán hướng dòng chảy từ Thủ Đức xuống Bình Chánh. Giới hạn phía Đông của đợt biển tiến này là đứt gãy Bà Rịa – Biên Hoà – Lộc Ninh. Các khối nâng Thủ Đức và Giồng Chùa lúc này chịu tác động của xâm thực và mài mòn.
Cuối Pliocen sớm, khu vực Thành phố có thể chịu ảnh hưởng của các hoạt động nâng cục bộ, tạo nên các gián đoạn trầm tích. Thời gian gián đoạn trầm tích có thể không dài do không phát hiện được các bề mặt bào mòn lớn nào giữa các trầm tích thuộc Hệ tầng Nhà Bè (N21 nb) với các trầm tích thuộc Điệp Bà Miêu (N22 bm).
Vào Pliocen muộn, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục sụt lún với tốc độ và qui mô lớn hơn thời kỳ Pliocen sớm. Biển bao phủ phần lớn diện tích miền Đông Nam Bộ tạo nên các lớp trầm tích cát bột màu xám chứa các di tích Tảo nước mặn và Foraminifera. Ở nhiều nơi hình thành nên các trầm tích đầm lầy ven biển. Quá trình sụt lún được lấp đầy rất nhanh bởi các vật liệu chủ yếu là cát đã tạo thành châu thổ Nam Bộ rộng lớn, khi đó khu vực Thành phố Hồ Chí Minh vẫn thuộc phần giữa Châu thổ. Dựa vào các đường đẳng dày trầm tích và sự phân bố của cát nhận thấy các dòng chảy có hướng từ Đông Bắc xuống Tây Nam.
Ở các lỗ khoan sâu, các trầm tích thuộc Điệp Bà Miêu (N22 bm) thường có màu xám nằm xen kẹp các tập sét, cát màu đỏ, vàng loang lổ. Điều đó chứng tỏ trong khi các vùng trũng lắng đọng vật liệu thì các vùng nổi cao đã xảy ra quá trình phong hoá hoá học theo kiểu Feralit.
Giai đoạn Đệ Tứ:
Cuối Pliocen muộn – đầu Pleistocen, vận động nâng xảy ra trên toàn bộ khu vực phía Đông và phía Bắc Thành phố (thuộc 2 tỉnh Đồng Nai và Bình Dương), hoạt động phun trào bazan xảy ra rầm rộ, quá trình xâm thực bóc mòn phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này điều kiện khí hậu rất thuận lợi để hình thành các vỏ phong hoá Laterit trên nóc các trầm tích Điệp Bà Miêu (N22 bm) và các đá khác; hiện tượng nâng lên kèm theo biển lùi và sông lấn biển.
Vào cuối Pleistocen sớm, sông Đồng Nai đã vận chuyển một khối lượng phù sa rất lớn bồi đắp lên phần lớn diện tích miền Đông Nam Bộ. Các tập cát, sạn, cát bột màu xám trắng, đỏ, vàng với bề dày 20m (ở Thủ Đức) đến 55m (ở Bình Chánh) được thành tạo. Kết quả của đợt biển lùi này đã hình thành Đông Nam Bộ, mở rộng phần phía Nam bán đảo Đông Dương ra ngoài thềm lục địa tạo thành một lục địa rộng lớn. Trong trầm tích thuộc Tầng Trảng Bom (QI3 tb) phát hiện được các di tích Tảo nước mặn ở các LK 802, 808. Điều này chứng tỏ lúc lắng đọng trầm tích thì Tây Thành phố vẫn chịu ảnh hưởng của thuỷ triều. Như vậy, vào cuối Pleistocen sớm, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh là một phần nhỏ của Đồng bằng châu thổ Đông Nam Bộ.
Vào đầu Pleistocen giữa, hoạt động nâng tân kiến tạo kèm theo phun trào bazan Xuân Lộc, Lộc Ninh, Hớn Quảng phủ lên cát, cuội, sỏi của Tầng Trảng Bom (QI3 tb) ở một số nơi. Tầng cát cuội sỏi này tạo nên các bãi bồi hay các đồng bằng thấp trước núi. Kết quả của vận động nâng là hình thành thềm bậc IV và các quá trình phong hóa bóc mòn. Đây là thời điểm bắt đầu cho giai đoạn phong hóa thứ hai ở Đông Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Cuối Pleistocen giữa – đầu Pleistocen muộn, khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận từ từ hạ lún. Biển tiến, diện tích Thành phố trầm đọng các trầm tích thuộc tướng ven bờ, các doi cát cửa sông và doi cát ven biển. Căn cứ vào các đường đẳng dày trầm tích thấy rằng: các doi cát có phương kéo dài Tây Bắc – Đông Nam và theo phương này có thể tìm thấy chúng ở Trảng Bàng – Tây Ninh.
Trầm tích Tầng Thủ Đức (QII3 – QIII1 tđ) có bề dày lớn nhất theo trục Hoóc Môn – Củ Chi đạt 40m, ở Bình Chánh và Thủ Đức 30m – 35m, ở Tây Bắc Cần Giờ 15 – 25m. Do tài liệu cổ sinh quá ít nên khó phân biệt giữa các doi cát cửa sông và doi cát ven biển. Tuy vậy, dựa vào sự phân bố vật liệu, hướng chuyển vật chất kết hợp với tài liệu Diatome và thạch học cho phép xác định các doi cát cửa sông phân bố theo trục Thủ Đức, Hoóc Môn, Bình Chánh; còn hai bên cánh cửa trục (Cần Giờ, Củ Chi) thường phân bố theo doi cát ven biển.
Sang hồi Pleistocen muộn, lúc đầu khu vực Đông Nam Bộ được nâng lên kèm theo phun trào bazan ở Sóc Lu, Trị An, Phước Tân (Đồng Nai) và hình thành thềm bậc III. Các trầm tích thuộc Tầng Thủ Đức (QII3 – QIII1 tđ), Tầng Trảng Bom (QI3 tb) bị xâm thực, phong hóa. Tiếp theo là biển tiến vào rìa phía Tây và Đông Nam khu vực Thành phố Hồ Chí Minh tạo nên các trầm tích hỗn hợp sông biển và trầm tích biển, chủ yếu là cát sạn, bột sét màu xám trắng cấu tạo nên Đồng bằng châu thổ mới. Các tài liệu về cổ sinh và địa mạo đã xác nhận là rìa phía Tây của Thành phố từ Củ Chi tới Cần Giờ là đới ven bờ chịu ảnh hưởng của hoạt động thuỷ triều.
Vào cuối Pleistocen muộn, hoạt động nâng lại xảy ra thành tạo nên thềm bậc II. Lúc này toàn bộ Đồng bằng Nam Bộ đã hoàn toàn giải phóng khỏi mực nước biển. Quá trình phong hóa, xâm thực diễn ra trên bề mặt đồng bằng rộng lớn kéo dài đến đầu Holocen. Các sông Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ bị xâm thực tạo nên những thung lũng rộng từ 3m – 6km.
Vào cuối Holocen sớm, một đợt biển tiến mới lại tràn vào Thành phố từ hướng Tây Nam. Biển phủ lên toàn bộ diện tích Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ; lấn theo trũng Lê Minh Xuân và sông Sài Gòn qua thung lũng sông phía Bắc Hoóc Môn.
Vào Holocen giữa, biển tiến cực đại. Kết quả của đợt biển tiến này đã hình thành các trầm tích của Tầng Bình Chánh (QIV1 – 2 bc). Vết tích của đợt biển tiến này được ghi lại trên bậc mài mòn 4m ở núi sót Giồng Chùa, các di tích Trùng lỗ đa dạng trong trầm tích của tầng Bình Chánh và những ngấn sóng vỗ ở độ cao 4m trên vách đá vôi ở Hà Tiên. Căn cứ vào các di tích trùng lỗ phát hiện được, dễ dàng nhận thấy điều kiện biển hở giảm dần từ Cần Giờ đến Nhà Bè, Bình Chánh, Củ Chi. Các tài liệu về đẳng dày trầm tích và tài liệu về cổ sinh cho thấy vị trí của sông lúc này ở khu vực Nhà Bè.
Từ cuối Holocen giữa đến nay hoạt động nâng yếu xảy ra, biển từ từ rút ra theo hướng Đông Nam, hình thành thềm bậc I. Theo hướng này, các sông Nhà Bè và sông Lòng Tàu lấn ra biển Đông. Dọc theo thung lũng sông cổ và các bãi lầy ven biển hình thành một lớp sét màu xám xanh, xám nâu. Phủ trên lớp sét trên là than bùn hoặc sét chứa than bùn. Kết quả của đợt biển thoái này đã tạo nên bề mặt địa hình hiện nay của Thành phố Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ.
ĐỊA CHẤT THỦY VĂN:
Khu vực Tây Nam có các thành tạo chứa nước chính như sau:
Nước trong các trầm tích bở rời Kainozoi:
Đối với loại trầm tích chứa nước này, trong vùng nghiên cứu đã chia ra thành 4 phân vị chứa nước chủ yếu sau:
Nước trong trầm tích Holocen (QIV):
Tầng chứa nước Holocen được hình thành từ các trầm tích đa nguồn gốc (sông, sông biển, sông đầm lầy). Tầng nước này phân bố trên các vùng có độ cao địa hình thấp, từ nhỏ hơn 2-5m, vài nơi phân bố ở độ cao địa hình từ 7-8m nhưng chiều dày nhỏ. Chiều dày thay đổi rất lớn, từ 2-5m đến 5-42m và chiều dày tăng dần từ Bắc xuống Nam.
Thành phần đất đá chủ yếu bùn sét, bột sét, bột lẫn cát mịn và các thấu kính cát hạt mịn lẫn bùn thực vật có màu xám tro, xám nâu. Mực nước tĩnh thay đổi trong khoảng từ 0,5-2,12m hoặc nhỏ hơn, có nơi ngang bằng mặt đất. Lưu lượng tại các giếng thay đổi từ 0,07-0,15l/s. Khả năng chứa nước kém, phần lớn nước của tầng chứa nước này thường đục và có màu hơi vàng, trên mặt có lớp ván gỉ sắt mỏng, vị hơi chua, nước từ lợ đến mặn. Độ pH dao động trong khoảng từ 4,38-7,96. Độ tổng khoáng hóa thay đổi từ 0,05-0,1g/l đến 3 -10g/l, có nơi cao tới 47,62g/l tai khu vực Nhà Bè, Cần Giờ, Bình Chánh và quận 9 và nước ở đây bị nhiễm mặn, chứa nhiều sắt do đó không dùng cho sinh hoạt được.
Tầng nước Holocen này chứa trong các cồn cát ven biển Cần Giờ. Bề dày tầng cát thay đổi từ 6,5-10m ở khu vực Đông Hòa; 3,5-5m ở khu vực Long Hòa và 10m ở vùng Cần Thạnh. Tuy nhiên nước ngọt không phải chứa hòan toàn trong tầng Holocen này mà còn có cả nước mặn. Nước nhạt chỉ phân bố ở đỉnh cũa các gò cát còn phần dưới vẫn là nước lợ–mặn.
Nước sử dụng tốt cho hộ gia đình nhưng bị cạn vào mùa khô vì tầng có mối quan hệ thủy lực với sông và chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự thay đổi mực thủy triều. Điều kiện thủy địa hóa rất phức tạp, phía Nam hầu hết bị nhiễm mặn và nhiễm phèn, độ tổng khoáng hóa thay đổi từ 1,25g/l-12,43g/l với loại hình nước Cl-Na chiếm ưu thế. Đối với những khu vực không bị nhiễm mặn thì độ tổng khoáng hóa thay đổi từ 0,13g/l-0,31 g/l và loại hình nước chủ yếu là Bicacbonat-clorua hoặc Clorua-bicacbonat.
Thành phần hóa học của nước biểu diễn dưới dạng công thức Kurlov như sau:
Hoặc là hỗn hợp Clorua – Sunfat:
Kết luận: Đây là tầng chứa nước không áp, mực nước nông, động thái của nước dao động theo mùa và theo thủy triều. Nguồn bổ cấp quan trọng là nước mưa, nước mặt ngấm trực tiếp vào tầng chứa. Mức độ chứa nghèo, chất lượng kém, nguy cơ ô nhiễm cao do đó không phải là đối tượng của khai thác nước dưới đất.
Nước trong các trầm tích Pleistocen(QI-III):
Tầng chứa Pleistocen phân bố rộng khắp trên toàn vùng, lộ ra ở trung tâm Thành phố, quận Tân Bình, quận Tân Phú, quận 12, quận Gò Vấp, xã Bình Trị Đông-huyện Bình Tân, xã Vĩnh Lộc A –huyện Bình Chánh, Hoóc Môn, Củ Chi và Thủ Đức. Phần còn lại bị các trầm tích Holocen phủ trực tiếp lên. Tầng cấu tạo gồm hai phần:
Phần trên là lớp cách nước yếu với thành phần thạch học là sét bột, bột đến bột cát, cát bột lẫn cát mịn, chiều dày 0 đến 10-15m, phổ biến là 5-10m. Phần dưới là đất đá chứa nước, gồm cát mịn đến trung và thô nhiều nơi lẫn sạn sỏi, màu xám tro, xám xanh, xám vàng trắng xen lẫn và có chen kẹp các lớp sét, bột, cát bột mỏng. Chiều dày lớp chứa nước dao động từ 3,2 đến 72m.
Khả năng chứa nước của tầng nước Pleistocen là tốt nhất, phân bố trong các khu vực Củ Chi, Hoóc Môn, Thủ Đức và các quận nội thành, các khu vực khác có khả năng chứa tốt nhưng chất lượng xấu như Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ.
Kết quả bơm thí nghiệm cho thấy lưu lượng (Q) từ 0,35-8,5 l/s mực nước hạ thấp (S) trong khoảng 2,35-12,81m, tỷ lưu lượng(q) từ 0,0025 đến 3,617 l/sm. Hệ số dẫn nước (Km) từ 15,85 m2/ngày đến 647,5 m2/ngày, phổ biến từ 200 m2/ngày đến 400 m2/ngày. Hệ số phóng thích nước (m) từ 1,53x10-3 đến 8,46x10-3.
Khu vực Cần Giờ, Củ Chi và một phần Tây và Nam huyện Bình Chánh, một phần huyện Hoóc Môn và Thủ Đức, mực nước ở độ cao từ 0m tới 15,07m, dao động theo mùa rõ rệt và ở vùng Củ Chi mực nước có xu hướng tăng dần. Khu vực gồm các quận nội thành và phía Đông Bắc của huyện Bình Chánh và phần phía Tây Bắc huyện Nhà Bè, mực nước thay đổi từ 0m đến 6,95m. Hướng dòng chảy nước dưới đất nhìn chung theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và hướng Bắc Nam.
Tầng chứa nước được cung cấp từ nước mưa, nước Kênh Đông, nước tưới và nước các dòng mặt. Chất lượng nước biến đổi khá phức tạp, nước mặn đến lợ có tổng khoáng hóa M>1g/l gặp ở phía Nam nội thành, Nhà Bè, Cần Giờ, Đông Bắc Bình Chánh và phía Nam Thủ Đức cũ. Phần còn lại là nước nhạt phục vụ cho sinh hoạt và ăn uống.
Các trầm tích Pleistocen không lộ ra mà bị các trầm tích Holocen phủ lên, thành phần gồm các lớp hạt mịn gồm sét, sét bột, cát sét lẫn sạn sỏi laterite có bề dày thay đổi từ 35,6m - 82,5m. Nước trong các các trầm tích Pleistocen bao gồm hai lớp chứa nước: lớp trên có bề dày 10m -12m, lớp này có thành phần bao gồm sét, bột sét, cát sét lẫn sạn sỏi laterit. Lớp này mức độ chứa nước yếu, khả năng cung cấp không đáng kể.
Lớp dưới là lớp hạt thô có lẫn ít sạn và cát hạt mịn, khả năng chứa nước trung bình khá. Lớp này có thể cung cấp tốt cho nhu cầu sinh hoạt của khu vực. Chất lượng nuớc trong tầng chứa Pleistocen thay đổi theo mùa, độ tổng khoáng hóa thay đổi rất lớn. Loại hình nước chủ yếu là Bicacbonat - Clorua và Bicacbonat.
Kết quả phân tích thành phần hóa học của nước trong tầng Pleistocen có thể biểu điễn dưới dạng công thức Kurlov như sau:
Tầng chứa nước Pleistocen không có quan hệ thủy lực với tầng chứa nước Holocen nằm trên và tầng Pliocen nằm dưới. Nguồn cung câp chủ yếu là sông Sài Gòn và dòng ngầm từ phía Đông Bắc chảy xuống. Miền thoát chủ yếu là dòng ngầm về phía Tây.
Tóm lại: tầng chứa nước Pleistocen là tầng chứa nước có ý nghĩa trong cung cấp nước nhưng chất lượng nước không đồng điều nên triển vọng khai thác không lớn.
Nước trong trầm tích Pliocen trên:
Không lộ ra trên mặt mà bị phủ bởi các trầm tích trẻ hơn, chúng nằm kề dưới trầm tích Pleistocen (QI-III). Chiều dày tầng Pliocen trên tương đối lớn và có xu hướng tăng dần về phía Đông Nam và Tây Nam.
Đây là tầng nước có áp, chứa nước tốt và rất giàu nước, là đối tượng cung cấp nước chủ yếu cho khu vực.
Tầng chứa nước trầm tích Pliocen trên được chia làm hai phần riêng biệt. Phần phía trên có bề dày thay đổi từ 5,5m - 31,2m, thành phần gồm bột sét, sét. Lớp này không có khả năng chứa nước, thực tế là lớp cách nước Pleistocen nằm bên trên. Phần dưới có tàhnh phần thô hơn bao gồm cát hạt trung đến thô lẫn nhiều sạn sỏi, đây là lớp chứa nước chính của tầng chứa nứơc Pliocen trên, chiều dày thay đổi từ 53m -104 m, là tầng chứa nước lớn và ổn định, khả năng chứa nước phong phú do thành phần hạt thô chiếm ưu thế.
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy nước trong tầng chứa nước Pliocen thuộc loại nước nhạt đến siêu nhạt. Độ tổng khoáng hóa thay đổi từ 0,1g/l - 0,96g/l. Thành phần hóa học của nước là bicacbonat - clorua hoặc clorua - bicacbonat. Hàm lượng clorua thay đổi từ 12mg/l – 569mg/l. Công thức Kurlov biểu diễn thành phần hóa học của nước trong tầng chứa nước Pliocen trên như sau:
Nguồn cung cấp chủ yếu là dòng ngầm chảy từ hướng Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc xuống, miền thoát cũng theo dòng ngầm về phía Tây Nam và Đông Nam. Tầng chứa nước Pliocen trên không có quan hệ thủy lực với tầng chứa nước Pleistocen phía trên và chịu ảnh hưởng của thủy triều trong khu vực.
Nói chung, nước trong tầng chứa nước Pliocen trên có thành phần hóa học tốt, trữ lượng khai thác lớn và ổn định nên đây là nguồn cung cấp nước lớn phục vụ cho sinh hoạt của khu vực.
Nước trong các trầm tích Pliocen dưới:
Các trầm tích Pliocen dưới không lộ ra trên mặt, chúng nằm trực tiếp dưới tầng Pliocen trên, chiều dày thay đổi tử 40m-118m. Nước chứa trong tầng chứa nước Pliocen dưới thuộc tầng nước có áp cao, mức độ chứa nước trung bình đến giàu.
Dựa vào tính chất và đặc điểm thạch học có thể chia tầng Pliocen dưới thành hai phần: phần trên thành phần gồm hạt mịn gồm sét, sét bột có chiều dày từ 1m-8m. Do bề dày nhỏ, hàm lượng sét cao nên khả năng cách nước của tầng này rất tốt. Phần dưới thành phần bao gồm hạt thô lẫn ít sạn sỏivà bột đôi khi có xen kẹp các thấu kính bột và sét, có chiều dày trung bình 72,6m. Đây là phần chứa nước chính của tầng chứa nước Pliocen dưới.
Kết quả bơm nước thí nghiệm cho thấy tầng chứa nước Pliocen dưới tương đối giàu nước. Nhìn chung chất lượng nước tốt, độ tổng khoáng hóa từ 0,2g/l - 0,96g/l nhưng cũng có vai trò nơi nước là nước lợ.
Kết quả phân tích vi lượng và vi trùng cho thấy nước đạt yêu cầu sử dụng. Tuy nhiên hàm lượng sắt cao từ 8,06mg/l -18,85mg/l, ranh giới rìa bị nhiễm mặn.
Nước trong tầng Pliocen dưới thường có thành phần là clorua hoặc hỗn hợp clorua – bicacbonat, hàm lượng clo từ 150mg/l -726mg/l, thành phần hóa học có thể biểu diễn dưới dạng công thức Kurlov như sau:
Tầng chứa nước Pliocen dưới có quan hệ thủy lực với tầng Pliocen trên và chịu ảnh hưởng của thủy triều khu vực, độ dao động mực nước dưới đất tuân theo chế độ bán nhật triều.
Nguồn cung cấp cho tầng chứa nước Pliocen dưới chủ yếu là dòng chảy ngầm chảy từ Bắc và Tây Bắc xuống, miền thoát theo dòng ngầm về phía Đông Nam.
Tóm lại, tầng chứa nước Pliocen dưới rất phong phú, chất lượng nước tốt có thể khai thác với quy mô công nghiệp.
Nước trong đá Mezozoi:
Các đá Mezozoi phân bố ở độ sâu từ 168m -350m với bề dày khoảng 2000m và không lộ ra trong khu vực nghiên cứu. Mức độ nghiêm cứu nước trong tầng chứa này hạn chế. Qua các kết quả nghiên cứu ta thấy thành phần của đá bao gồm cát kết, bột kết, cát kết tuf, mức độ nứt nẻ kém vì vậy khả năng chứa nước rất hạn chế. Nước là nước nhạt, có thành phần hóa học là bicacbonat hay hỗn hợp clorua – bicacbonat.
ØØTóm lại: qua quá trình nghiên cứu và phân tích ta thấy trong khu vực huyện Bình Chánh tầng chứa nước Pliocen trên và Pliocen dưới là có triển vọng khai thác.
Nước của 2 tầng chứa nước này phong phú và có chất lượng tốt. Tuy nhiên tầng chứa nước Pliocen trên là có triển vọng hơn cả do phân bố ở độ sau không lớn và có thể đáp ứng nhu cầu khai thác với trữ lượng lớn. Các tầng chứa nước khác ở độ sâu lớn nên khả năng khai thác không lớn trong khai thác phục vụ cho sinh hoạt và công nghiệp.
Y
CHƯƠNG IV: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH ĐỘNG LỰC
Các hiện tượng địa chất công trình động lực thường xảy ra trong tự nhiên, ảnh hưởng đến đời sống của con người. Chúng gây ra những phá hủy ở những mức độ khác nhau, làm phá hủy các công trình xây dựng một cách dễ dàng, không những thế còn có thể gây nguy hiểm cho tín
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ảnh hưởng của việc khai thác nước dưới đất đến trữ lượng, chất lượng của tầng chứa nước pliocen trên và pliocen dưới khu vực tây nam thành phố hồ chí .doc