Khóa luận ASEM và Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5 tại Hà Nội năm 2004

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DIỄN ĐÀN HỢP TÁC Á - ÂU (ASEM)

1.1. Hoàn cảnh ra đời

1.1.1. Bối cảnh thế giới đầu những năm 90

1.1.2. Chiến lược châu Á mới của châu Âu

1.1.3. Sáng kiến của Thủ tướng Xin-ga-po, Gô Chôc Tông

1.2. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động

1.2.1. Mục tiêu

1.2.2. Nguyên tắc hoạt động

1.3. Cơ chế hoạt động

1.4. Các lĩnh vực hợp tác chính của ASEM

1.4.1. Đối thoại chính trị

1.4.2. Hợp tác kinh tế- tài chính

1.4.3. Hợp tác trong các lĩnh vực khác

1.5. Các kỳ Hội nghị Thượng đỉnh ASEM

1.6. Ý nghĩa của Diễn đàn Hợp tác Á – Âu

CHƯƠNG 2: HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐỈNH Á- ÂU LẦN THỨ NĂM (ASEM 5) HÀ NỘI NĂM 2004

2.1. Những nỗ lực của Việt Nam

2.1.1. Kiến nghị đăng cai tổ chức ASEM tại Hà Nội - Việt Nam năm 2004

2.1.2. Công tác chuẩn bị của Việt Nam

2.1.3. Các hoạt động văn hoá - tuyên truyền hướng tới ASEM5

2.3. Các hoạt động hội thảo bên lề hướng tới ASEM 5

2.3.1. Diễn đàn Lãnh đạo trẻ Á - Âu lần thứ 7

2.3.2. Hội nghị Đối tác Nghị viện Á - Âu lần thứ 3 (ASEP 3)

2.3.3. Diễn đàn đối thoại Thanh niên Á - Âu lần thứ 3

2.3.4. Các Cuộc họp các quan chức cấp cao (ASEM SOM) chuẩn bị cho ASEM 5

2.3.5. Diễn đàn Doanh nghiệp Á - Âu lần thứ 9 (AEBF 9)

2.4. Lễ kết nạp 13 thành viên mới vào ASEM

2.5. Hội nghị Thượng đỉnh Á - Âu lần thư năm (ASEM 5)

2.5.1. Những thách thức đặt ra cho ASEM 5

2.5.2. Khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ năm( ASEM 5) tại Hà Nội, Việt Nam năm 2004

2.5.3. Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ năm (ASEM 5)

2.6. Bế mạc ASEM 5

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VỀ ASEM VÀ THÀNH CÔNG CỦA ASEM 5

3.1. Thành tựu và hạn chế trong tiến trình hoạt động của ASEM

3.2. Những nguyên nhân hạn chế thành tựu trong ASEM

3.3. Kết quả của Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ năm (ASEM 5) tại Hà Nội, 2004

3.3.1. Kết quả của Hội nghị

3.3.2. Nội dung ba bản Tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5 Hà Nội, 2004

3.4. Ý nghĩa của ASEM 5

3.4.1. Ý nghĩa đối với Tiến trình ASEM nói chung

3.4.2. Ý nghĩa của ASEM 5 đối với Việt Nam

3.5. Việt Nam trong ASEM

3.5.1. Những khó khăn và thuận lợi của Việt Nam khi tham gia ASEM

3.5.2. Đóng góp của Việt Nam đối với ASEM

3.5.3. Thúc đẩy quan hệ Việt Nam với các nước ASEM

KẾT LUẬN

 

 

doc106 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3246 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận ASEM và Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5 tại Hà Nội năm 2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không phải là đối tác chiến lược của EU, họ giành ưu tiên cho đối tác chiến lược của mình là Mỹ, đối tác thương mại lớn nhất ngoài EU của châu Âu. Hơn nữa, trong các đối tác châu Á, châu Âu chỉ tập trung vào một số trọng điểm như Trung Quốc, Nhật Bản, và thực tế các mối quan hệ này đem lại lợi ích cả về chính trị lẫn kinh tế cho EU. Một số con số thống kê cho thấy kết quả hợp tác giữa các quốc gia, châu lục như sau: buôn bán nội bộ EU chiếm 60% tổng buôn bán của EU, với Mỹ chiếm 8,6%, với Nhật Bản chiếm 2,4%, với Trung Quốc là 3%, trong khi đó với ASEAN chỉ có 2% (trong giai đoạn 1999 - 2003) [16;11]. Ngoài ra, việc hoạt động kém hiệu quả của ASEM cũng là nguyên nhân gây ra sự thiếu nhiệt tình của cả hai châu lục này đối với nó. Chính vì thế, “Hiện nay ASEM là vấn đề ít được ưu tiên đối với hầu hết các nước. Không ai muốn đầu tư quá nhiều vào nó. Nhiều người “giữ thái độ chờ xem”. Không có một tầm nhìn lớn hoặc một bản thiết kế, không có ý nghĩa chính trị để thúc đẩy ASEM theo bất cứ hướng đặc biệt nào” Do vậy thách thức của ASEM5 là việc làm thế nào để có những biện pháp cụ thế, thực tế để khắc phục tình trạng trên, khơi lại nhiệt tình của các nước thành viên với ASEM. Thách thức thứ hai liên quan đến việc EU kết nạp thêm 10 thành viên mới, cũng như việc ASEM 5 là Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên được mở rộng số thành viên tham gia từ 26 quốc gia lên 39 nước thành viên. Việc mở rộng thành viên này sẽ có những khó khăn và thuận lợi nhất định cho tiến trình ASEM mà thực tế là không thể bỏ qua. Đặc biệt, vấn đề Mi-an-ma cũng là một khó khăn cho ASEM 5. Trong khi các đối tác châu Á không đặt ra bất kỳ điều kiện gì liên quan tới sự gia nhập của 10 thành viên mới của EU, thì các đối tác châu Âu lại gây khó khăn cho sự tham gia của Mi-an-ma. EU đòi Mi-an-ma phải thả thủ lĩnh phe Dân chủ là bà Ang-san-su-ky và khôi phục các quyền tự do dân chủ ở Mi-an-ma, nếu không EU sẽ ngừng cấp thị thực cho các quan chức Mi-an-ma và tiến hành ngừng các khoản vay quốc tế của nước này. Tháng 6/2004, EU thông tin không tham gia các Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế và Bộ trưởng Tài chính nếu Mi-an-ma tham dự hội nghị này. Thậm chí một số nhà lãnh đạo châu Âu còn nói tới khả năng hoãn họp ASEM 5. Lập trường nêu trên của EU không chỉ đặt ra thách thức cho ASEM nói chung mà cho cả Việt Nam - nước chủ nhà của ASEM 5. Như vậy, cơ hội cũng nhiều mà thách thức cũng không ít, khó khăn đan xen với thuận lợi khiến cho Việt Nam bị đặt trước một câu hỏi lớn là làm thế nào để Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5 thành công tốt đẹp? Bằng những kinh nghiệm tổ chức những hội nghị quốc tế trước đó, cuối cùng, chúng ta đã dàn xếp các quan điểm khác nhau, Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5 vẫn được tiến hành đúng như dự định. 2.5.2. Khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ năm ASEM 5 tại Hà Nội. Sáng ngày 8/10/2004, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội, Hội nghị Cấp cao Diễn đàn hợp tác Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5) khai mạc trọng thể. Tham dự buổi khai mạc có gần 1000 đại biểu của 39 thành viên ASEM, phu nhân, phu quân các vị trưởng đoàn, Đoàn Ngoại giao và các tổ chức quốc tế tại Hà Nội. (Danh sách các đại biểu (xem phụ lục 6)). Mở đầu là không khí sôi động, rực rỡ sắc màu nhưng mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam với màn trình diễn nghệ thuật đặc sắc chào mừng hội nghị do các nghệ sĩ vi-ô-lông Việt Nam biểu diễn. Sau chương trình văn nghệ, chủ tịch nước Trần Đức Lương đọc Diễn văn khai mạc hội nghị, nhiệt liệt chào mừng các vị nguyên thủ quốc gia, các vị trưởng đoàn và đại biểu các thành viên ASEM đến thủ đô Hà Nội để tham dự ASEM 5, bày tỏ vinh dự là nước chủ nhà tổ chức Hội nghị Cấp cao ASEM lần này, cảm ơn sự tín nhiệm và đánh giá cao của các nước thành viên ASEM đối với đất nước và nhân dân Việt Nam. Chủ tịch nước khẳng định liên kết Á - Âu là một tất yếu khách quan, tiến trình ASEM đã và đang tạo khuôn khổ phù hợp với việc xây dựng mối quan hệ đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI. Sau khi điểm lại những kết quả to lớn mà tiến trình ASEM đạt được trong gần một thập kỷ qua, Chủ tịch nước Trần Đức Lương nhấn mạnh, chủ đề bao trùm xuyên suốt ASEM 5 là “Tiến tới quan hệ đối tác Á - Âu sống động và thực chất hơn”. Vì vậy Hội nghị Cấp cao lần này có nhiệm vụ quan trọng là đề ra biện pháp và phương hướng thích hợp để đạt được mục tiêu và chú trọng các chủ đề đối thoại chính trị, hợp tác kinh tế hợp tác văn hoá và hợp tác trong các lĩnh vực khác, tương lai của ASEM. Chủ tịch nước cũng khẳng định việc mở rộng thành viên lần đầu tiên này là bước phát triển quan trọng của tiến trình ASEM, gia tăng sự năng động và mở rộng tiềm năng quan hệ đối tác Á - Âu, nâng cao vai trò và vị thế của ASEM trên thế giới. Sau bài diễn văn khai mạc của Chủ tịch nước Trần Đức Lương, có bài phát biểu của các Trưởng đoàn: Thủ tướng Đại công quốc Luc-xăm-bua, Thủ tướng Nhật Bản Cô-i-dư-mi, Chủ tịch Uỷ ban châu Âu (EC) Rô-ma-no Pro- đi, Quyền Thủ tướng Đan Mạch P.Mô-lơ. Các vị lãnh đạo đều bày tỏ tầm quan trọng của việc tổ chức ASEM 5 đối với sự phát triển của hai châu lục nói riêng và đóng góp vào sự bình ổn của tình hình thế giới nói chung. Đặc biệt là việc kết nạp 10 thành viên mới rất được các vị hoan nghênh, coi đây là một dấu mốc quan trọng của tiến trình ASEM. Sau cùng, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Phan Văn Khải và các vị trưởng đoàn thành viên ASEM chụp ảnh chung kết thúc lễ Khai mạc Hội nghị Cấp cao Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5). Các vị lãnh đạo đều đạt được sự thống nhất trong ý nghĩ và hành động về xây dựng ASEM mới. Không khí diễn ra trang nghiêm nhưng cởi mở tạo cảm giác thoải mái và gây ấn tượng tốt cho các vị đại biểu tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu lần thứ 5 (ASEM 5). 2.5.3. Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5 Trong chương trình làm việc của Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5 bao gồm 3 phiên họp kín với các chủ đề thảo luận về chính trị, kinh tế, văn hoá và các lĩnh vực khác. Ngay sau lễ khai mạc, tại trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hà Nội, Thủ tướng Phan Văn Khải đã chủ trì phiên họp kín đầu tiên của ASEM với chủ đề “Tình hình quốc tế và những thách thức toàn cầu mới”. Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh rằng cuộc thảo luận này sẽ giúp các thành viên tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau, sẽ cùng có tiếng nói chung trong các vấn đề quan trọng của ASEM cũng như của thế giới, cùng đề ra phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao sự hợp tác trong khuôn khổ ASEM và góp phần vào việc củng cố hoà bình và an ninh thế giới, phát huy vai trò của các thể chế đa phương khác. Các vị lãnh đạo đã cũng thảo luận về những vấn đề quan trọng và nổi cộm hiện nay trên thế giới như hoà bình và an ninh quốc gia, chủ nghĩa đa phương, vai trò của Liên hợp quốc, khủng bố quốc tế, phổ biến vũ khí hạt nhân, thách thức an ninh phu truyền thống (tội phạm xuyên quốc gia, rửa tiền, buôn bán phụ nữ, trẻ em, bệnh dịch, môi trường,...) cũng trở thành một vấn đề lớn, đặc biệt là ở Bán đảo Triều Tiên, gây căng thẳng trong quan hệ giữa các nước. Các vị lãnh đạo cũng chia xẻ mối quan tâm về những thách thức mới của tình hình thế giới sau ASEM 4. Sau phiên họp kín đầu tiên, trưa ngày 8/10/2004 đã có có buổi ăn trưa -làm việc tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hà Nội cùng với chủ đề thảo luận là “Tương lai ASEM”. Dựa trên nền tảng những thành tựu mà ASEM đã đạt được trong gần một thập kỷ qua, các vị lãnh đạo cùng nhất trí trong xây dựng một ASEM trong tương lai, thúc đẩy đối thoại và hợp tác trong ASEM để ASEM ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong việc giải quyết những vấn đề của khu vực và quốc tế, bày tỏ quyết tâm làm cho tiến trình ASEM thêm sống động, thực chất và đi vào chiều sâu hơn để có thể thích nghi và đáp ứng được những thách thức, đòi hỏi của tình hình quốc tế mới, đưa ra những sáng kiến, biện pháp để đối phó với tình hình mới. Cũng nhân dịp này, các vị lãnh đạo nhất trí cần tiếp tục là một tiến trình mở, tiệm tiến và không chính thức, dựa trên các mục tiêu và nguyên tắc đã được xác định trong Khuôn khổ hợp tác Á - Âu, năm 2002; khẳng định tầm quan trọng và cần thiết hợp tác cân bằng trên cả ba lĩnh vực: củng cố đối thoại chính trị, tăng cường hợp tác kinh tế và hợp tác trên các lĩnh vực khác. Chiều ngày 8/10/2004, diễn ra phiên họp kín thứ hai tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phan Văn Khải. Nội dung bàn bạc là các vấn đề kinh tế với chủ đề bao trùm là “Thúc đẩy quan hệ đối tác kinh tế Á - Âu trong bối cảnh toàn cầu hoá và chủ nghĩa khu vực mở”. ASEM là một diễn đàn mở, đa lĩnh vực hợp tác. Song, nhận thức được những thay đổi của tình hình thế giới mới, các vị lãnh đạo ra quyết tâm tăng cường hơn nữa sự hợp tác về kinh tế để phát triển kinh tế, giảm khoảng cách về kinh tế giữa các nước thành viên, mong muốn ASEM là một diễn đàn phát triển đồng đều, cùng có lợi. Đồng thời nâng cao vị thế của ASEM về kinh tế trong sân chơi thương mại quốc tế. Nhằm tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư giữa hai khu vực, các vị lãnh đạo nhất trí làm sâu sắc hơn hợp tác hiện có trong khuôn khổ Kế hoạch Hành động Thuận lợi hoá thương mại, Kế hoạch Hành động xúc tiến đầu tư và các hình thức khác, củng cố quan hệ đối tác Nhà nước và tư nhân, tăng cường đối thoại trong các lĩnh vực cùng quan tâm. Các đại biểu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác tài chính nhằm đối phó với những biến động tài chính có thể xảy ra và hỗ trợ tăng trưởng bền vững, sâu rộng ở châu Âu và châu Á trong tương lai. Các vấn đề khác cùng được quan tâm như công nghệ thông tin-truyền thông, kinh tế tri thức, năng lượng, giao thông vận tải, du lịch, bảo vệ quyền sỏ hữu trí tuệ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối thoại về việc làm và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các đối tác ASEM...các vị lãnh đạo đã cùng bàn bạc để đi đến thống nhất về các vấn đề nêu trên. Các vị lãnh đạo cũng thảo luận về việc khẳng định lại cam kết đối với một hệ thống đa phương mở và công bằng theo khuôn khổ của WTO và nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác và phối hợp của ASEM trong các vấn đề liên quan đến WTO để vòng đàm phán Đô-ha kết thúc thành công. Liên quan đến vấn đề này, các vị lãnh đạo cũng đã khẳng định lại sự ủng hộ mạnh mẽ việc Việt Nam và Lào sớm gia nhập WTO. Các sáng kiến hội nhập kinh tế dựa trên chủ nghĩa khu vực mở, không phân biệt đối xử và phù hợp với các nguyên tắc của WTO cũng được đưa ra thảo luận và đi đến thống nhất ý kiến. Phiên họp kín thứ ba diễn ra vào sáng ngày 9/10/2004 với chủ đề “Đa dạng văn hoá và các nền văn hoá dân tộc trong thời đại thông tin và toàn cầu hoá”. Trong phiên họp này, các nhà lãnh đạo đã thoả thuận một cách sâu sắc về đối thoại văn hoá văn minh, thống nhất trong đa dạng và các biện pháp tăng cường hợp tác văn hoá và giao lưu giữa hai khu vực. Các nước thành viên của ASEM với những đặc trưng văn hoá khá biệt, cả phương Đông và phương Tây. Muốn hợp tác hiệu quả thì cần tăng cường hiểu biết lẫn nhau, đặc biệt là về văn hoá. Chủ tịch nước Trần Đức Lương nhấn mạnh rằng ASEM là một tiến trình độc đáo liên kết hơn 2,3 tỷ người đến từ các nền văn minh khác nhau, vượt qua khoảng cách về địa lý, những rào cản về sắc tộc, tôn giáo cũng như sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Châu Á và châu Âu là cái nôi của nền văn hoá của loài người, là quê hương của biết bao thiên tài với những phát minh, sáng chế và những kiệt tác nghệ thuật đóng góp cho văn minh của nhân loại. Hai châu lục đang gìn giữ một di sản quý báu, đó là sự đa dạng về văn hoá, đặc biệt trong kỷ nguyên toàn cầu hoá và công nghê thông tin. ASEM là một khuôn khổ phù hợp để tạo dựng sự thống nhất trong đa dạng, hướng tới quan hệ đối tác Á - Âu toàn diện hơn trong thế kỷ XXI. Sức mạnh kết hợp to lớn của cả hai châu lục chỉ được phát huy đầy đủ khi quan hệ đối tác mới Á - Âu được xây dnựg trên cơ sở hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi. Nhân dân Việt Nam, nhất là người dân thủ đô Hà Nội rất vinh dự và tự hào khi được đăng cai tổ chức Hội nghị Cấp cao ASEM 5, một hội nghị có ý nghĩa to lớn đối với tiến trình Á - Âu. Chủ tịch Trần Đức Lương cũng bày tỏ sự tin tưởng rằng, trong những ngày tham dự hội nghị, các vị quan khách sẽ cảm nhận được không khí của tình hữu nghị, đoàn kết và lòng mến khách của người dân Hà Nội nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Đây cũng là dịp để bạn bè quốc tế có dịp hiểu rõ hơn về con người và đất nước Việt Nam, hiểu rõ hơn về một dân tộc nghìn năm văn hiến, với bề dày lịch sử dụng nước và giữ nước, nơi còn lưu giữ những tinh hoa văn hoá và bản sắc dân tộc riêng biệt không giống ai. Và một đất nước hứa hẹn nhiều thành tựu rực rỡ trong thiên niên kỷ mới của thời kỳ đổi mới. Kết thúc Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5, các nhà lãnh đạo đã nhất trí ra ba Tuyên bố quan trọng: Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị Á - Âu lần thứ năm, Tuyên bố Hà Nội về quan hệ đối tác kinh tế Á - Âu chặt chẽ hơn, Tuyên bố ASEM về đối thoại văn hoá và văn minh. 2.6. Bế mạc ASEM 5 Trưa ngày 9/10/2004, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hội nghị Thượng đỉnh Á - Âu (ASEM 5) đã họp phiên bế mạc với sự tham gia của các trưởng đoàn 39 nước thành viên ASEM, các Bộ trưởng và các quan chức cao cấp của ASEM (ASEM SOM) Phát biểu bế mạc Hội nghị ASEM 5, Thủ tướng Phan Văn Khải nói: “ASEM5 sẽ luôn được nhớ đến như là Cấp cao đầu tiên của một ASEM mở rộng, là Cấp cao của tầm nhìn và quyết tâm đổi mới nhằm đưa quan hệ đối tác Á- Âu chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn hợp tác thực chất và hiệu quả hơn, nhất là về hợp tác kinh tế và văn hoá” Điểm lại nội dung mà Hội nghị đã thảo luận, Thủ tướng Phan Văn Khải cho biết ASEM 5 đã tập trung chủ yếu vào các chủ đề chính của hợp tác Á - Âu: Đối thoại chính trị, hợp tác kinh tế và các lĩnh vực khác, cùng với luận bàn về Tương lai ASEM. Thủ tướng nhấn mạnh kết quả trên là thể hiện trách nhiệm cao và quyết tâm của các vị lãnh đạo đối với tương lai quan hệ đối tác Á - Âu cũng như đóng góp của ASEM vào việc đảm bảo hoà bình, an ninh và phát triển trên toàn thế giới. Ngài Van-he-nen Ma-ti, Thủ tướng Cộng hoà Phần Lan, nước đăng cai Hội nghị Thượng đỉnh Á - Âu lần thứ 6 (ASEM 6) đã thay mặt các vị lãnh đạo phát biểu cảm ơn nước chủ nhà Việt Nam đã tổ chức thành công ASEM 5, để lại thật nhiều ấn tượng tốt đẹp cho bạn bè quốc tế. Ông nhấn mạnh Hội nghị có ý nghĩa lịch sử, là mốc phát triển mới của ASEM. Thủ tướng Phần Lan cũng công bố ASEM6 sẽ được tổ chức vào ngày 14 và 15/9/2006 tại Hen-xinh-ki, thủ đô của Phần Lan. Với quyết tâm tổ chức ASEM 5, sự kiện chính trị - kinh tế và văn hoá - xã hội lớn nhất trong năm 2004, nước chủ nhà Việt Nam đã nỗ lực hết mình, đem tất cả nhân lực và vật lực để chuẩn bị ở mức tốt nhất có thể cho ASEM5. Từ công tác bảo đảm an ninh, y tế, đến chỗ ăn ở, phương tiện đi lại... cho các quan khách đều được chú ý kỹ lưỡng để không xảy một chút sai sót đáng tiếc nào. Tinh thần cả Hà Nội vì ASEM 5 được thể hiện một cách rõ ràng thông qua việc tổ chức hội nghị quốc tế lớn nhất của năm này. Đáp lại những nỗ lực của nước chủ nhà Việt Nam, các hoạt động hội thảo bên lề ASEM 5 và ASEM 5 đã diễn ra tốt đẹp hơn cả mong đợi của các nước tham gia. Tất cả 39 đoàn quan khách cao cấp cùng các nhà báo, phóng viên... quốc tế đều ghi nhận những nỗ lực trong công tác chuẩn bị và tổ chức của nước chủ nhà Việt Nam. CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ VỀ ASEM VÀ THÀNH CÔNG CỦA ASEM 5 3.1. Thành tựu và hạn chế trong tiến trình hoạt động của ASEM Kể từ khi thành lập cho đến nay, đã qua hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, tuy tuổi đời còn trẻ, nhưng ASEM đã có được những thành tựu nhất định, đóng góp vào sự phát triển của hai châu lục nói riêng và cho sự ổn định, phát triển của thế giới nói chung. Hoạt động của ASEM tập trung vào 3 trụ cột chính là đối thoại chính trị, hợp tác kinh tế và hợp tác trong các lĩnh vực khác. Chúng ta sẽ tìm hiểu những thành tựu mà ASEM đã đạt được dựa trên 3 trụ cột trên. Về đối thoại chính trị, ASEM tập trung chủ yếu vào những vấn đề các bên cùng quan tâm, trên cơ sở đối thoại bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, thúc đẩy và củng cố sự nhất trí chung, thông qua các cuộc gặp gỡ, các sự kiện diễn ra sau mỗi kỳ hội nghị. Các nội dung đối thoại chính trị của ASEM rất đa dạng và phong phú, bao gồm những vấn đề phát triển trong từng khu vực, vấn đề thời sự quốc tế như tình hình Trung Đông, khủng bố quốc tế, vũ khí huỷ diệt, các mối đe doạ an ninh truyền thống và phi truyền thống, môi trường, dịch bệnh, di cư, ly khai, vấn đề pháp quyền, .... Thành công về đối thoại chính trị còn thể hiện trong những tiến bộ đạt được rất cụ thể như việc tăng cường đối thoại về sự ổn định ở khu vực Ban-căng, đàm phán về hoà bình ở bán đảo Triều Tiên, chống khủng bố quốc tế và tội phạm xuyên quốc gia... Một số kết quả cụ thể về đối thoại chính trị như: Tuyên bố Xê-un về hoà bình trên bán đảo Triều Tiên tại ASEM 3 và được đề cập lại tại ASEM 4 nhằm khẳng định mạnh mẽ cam kết của ASEM về vấn đề này, khẳng định sự ủng hộ của ASEM với tiến trình hoà bình và hợp tác trong nội bộ Triều Tiên. Tuyên bố về hợp tác và chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế tại ASEM 4. Tuyên bố này thể hiện phản ứng kịp thời của ASEM sau sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, đồng thời thể hiện ý chí quyết tâm hợp tác chặt chẽ của ASEM với cộng đồng quốc tế trong đấu tranh chống khủng bố và tội phạm quốc tế, bảo vệ hoà bình, an ninh trên toàn thế giới. Về hợp tác kinh tế, tài chính. Sau gần một thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEM đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc thu hẹp sự khác biệt về nhận thức đối với các vấn đề chính sách kinh tế thương mại quốc tế, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và giảm các rào cản thương mại, đầu tư cho doanh nghiệp hai châu lục. Ưu tiên hợp tác kinh tế là tập trung vào tăng cường đối thoại và hợp tác chính sách, hỗ trợ và thúc đẩy các nỗ lực tăng cường hệ thống thương mại mở và đa phương trong khuôn khổ WTO, thúc đẩy thương mại và đầu tư cả ở hai chiều Á-Âu, cụ thể là thông qua việc thực hiện tích cực Kế hoạch hành động thuận lợi hoá thương mại (TFAP) và Kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (IPIA). Và đặc biệt. thông qua Diễn đàn doanh nghiệp Á-Âu đã thiết lập được môi trường thuận lợi cho đối thoại, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm và thúc đẩy sự hợp tác giữa chính phủ với giới doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp hai châu lục với nhau, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực công nghiệp tiên tiến và công nghệ cao. Một số kết quả về thương mại như kim ngạch thương mại của cả hai khu vực Á-Âu tăng mạnh, trong đó kim ngạch thương mại của các nước EU vào các nước thành viên châu Á tăng từ 275 tỷ USD năm 1995 lên 310 tỷ USD năm 1999. Riêng kim ngạch thương mại của EU vào ASEAN tăng từ 74 tỷ USD năm 1994 lên 94 tỷ USD năm 1995, 108 tỷ USD năm 1997 và 112 tỷ USD năm 2001. Về hợp tác đầu tư, đầu tư của EU vào châu Á tăng từ 6,5 tỷ USD năm 1995 lên 7,8 tỷ USD năm 1998. Trong 10 nước dẫn đầu về tiếp nhận đầu tư của EU thì có tới 2 nước châu Á thuộc ASEM, đó là Ma-lai-xi-a (đứng thứ 5) và Hàn Quốc (đứng thứ 9), các nhà đầu tư chủ yếu vẫn là Anh, Đức và Hà Lan [27]. Bên cạnh đó, để tăng cường hợp tác tài chính, các thành viên ASEM đã thành lập Nhóm Đặc trách kinh tế ASEM vào tháng 9/2002 và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 3/2003. Về hợp tác tài chính, đây là lĩnh vực đạt được nhiều thành công đáng kể nhất. Ngoài các kênh như Hội nghị Bộ trưởng và Thứ trưởng Tài chính, việc thành lập Quỹ Tín thác ASEM được coi là một thành công nổi bật trong hoạt động hợp tác kinh tế tài chính của ASEM. Quỹ Tín thác có chức năng hỗ trợ các nước thành viên khi gặp khó khăn về tài chính. Ví dụ, quỹ này đã hỗ trợ các nước Đông Nam Á khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ năm 1997.... Hợp tác trong các lĩnh vực khác Có thể nói đây là mảng hợp tác có nhiều hoạt động được triển khai thành công nhất, góp phần tăng cường hiểu biết giữa nhân dân hai châu lục trên các mặt, nhất là về văn hoá, giáo dục và xã hội. Nội dung hợp tác của trụ cột này rất phong phú: văn hoá, giáo dục, đối thoại văn hoá-văn minh, hợp tác trong việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá, trao đổi sinh viên, khoa học, công nghệ, môi trường, ... Trong mỗi mảng hợp tác lại có các kênh thực hiện khác nhau. Ví dụ như Quỹ ASEF giúp tăng cường hiểu biết và giao lưu nhân dân hai châu lục qua bốn chương trình: giao lưu nhân dân, giao lưu trí thức, giao lưu văn hoá và các chương trình tuyên truyền. Các chương trình này thu hút được sự quan tâm của đông đảo các tầng lớp, các giới của nhân dân dân hai châu lục. Đã có hơn 200 dự án với sự tham gia của hơn 5000 công nhân hai châu lục dưới sự tài trợ của ASEF. Về văn hoá, có Hội nghị ASEM cấp Bộ trưởng về văn hoá và văn minh lần đầu tiên được tổ chức tại Bắc Kinh – Trung Quốc năm 2003, đây là hội nghị nhằm tăng cường sự hiểu biết về văn hoá và văn minh của nhân dân hai châu lục. Tổ chức Hợp tác Thanh niên Á-Âu (AEYC), chương trình học bổng ASEM nhằm đào tạo nhân lực, tri thức trẻ cho các nước ASEM tiếp cận với khoa học, công nghệ hiện đại. Chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông cũng đạt được hiệu quả cao. Về môi trường, đây là lĩnh vực được ưu tiên, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững. Do đó, các thành viên ASEM đã thành lập Trung tâm Công nghệ môi trường Á - Âu có trụ sở tại Thái Lan. Hoạt động trong bốn lĩnh vực ưu tiên là môi trường đô thị của các thành phố lớn, sự tham gia của công chúng vào công tác bảo vệ môi trường, các giải pháp về môi trường bằng công nghệ sinh học và dự báo rủi ro về môi trường . Về khoa học công nghệ, ASEM đã tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Khoa học-công nghệ lần thứ nhất tại Bắc Kinh với chủ đề “Hợp tác khoa học-công nghệ trong thế kỷ XXI”. Tại ASEM 3, các nhà lãnh đạo cũng đã đưa ra một loạt các sáng kiến về tăng cường hợp tác khoa học-công nghệ: bảo tồn sự đa dạng sinh học, an toàn sinh học, phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử,... Về y tế, các thành viên đã có các chương trình hợp tác chống lại các đại dịch như Hội thảo về đại dịch SARS “Xử lý các dịch bệnh bùng phát trong cộng đồng” tại Trung Quốc tháng 10/2003. Rồi Việt Nam cũng đã đưa ra sáng kiến “Kết hợp y dược học cổ truyền và y dược học hiện đại trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng”... Về tư pháp, ASEM quan tâm đến hợp tác trong việc thực thi pháp luật, chống tội phạm xuyên quốc gia, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em... Như vậy, trong quá trình hoạt động của mình, ASEM đã thu được những thành tựu đáng mừng trong từng lĩnh vực cụ thể, nhất là trong hợp tác kinh tế giữa Liên minh châu Âu với các nước Đông Á. Song, cần nhận thấy rằng, trên thế giới hiện nay có rất nhiều đánh giá khác nhau về ASEM. Bên cạnh những nhận định tích cực, còn có những đánh giá tiêu cực. ASEM mới chỉ là diễn đàn đối thoại, chưa có những chương trình, dự án đi vào thực chất và thực sự có hiệu quả. Hay nói như GS. Rô-bet Sca-la-pi-no - một chuyên gia nổi tiếng về Đông Á của Mỹ, rằng ASEM chỉ là một nơi để nói chuyện (Talk shop) chứ chưa phải là một nơi để hoạt động (operation body). ASEM còn quá mờ nhạt, chưa trở thành một từ vựng được biết tới nhiều như APEC [16;14]. Cứ cho rằng, những đánh giá trên đây có thể là quá khắt khe với một tiến trình hợp tác liên khu vực mới chỉ được thành lập cách đây một thập kỷ. Nhưng, quả thực, ASEM chưa khai thác được hết lợi thế và tiềm năng hợp tác của châu Á và châu Âu nói chung, giữa EU và Đông Á nói riêng.Vậy đâu là nguyên nhân của những hạn chế này? 3.2. Những nguyên nhân hạn chế thành tựu trong ASEM Đầu tiên, có thể đề cập đến chính là cách tiếp cận khác nhau về Hợp tác Á-Âu. Với các nước ASEAN, ASEM chính là chìa khoá giúp họ mở cửa pháo đài châu Âu, để dành được những ưu đãi tương tự như các đối tác khác của châu Âu. Trung Quốc thì muốn mở của thị trường EU, thu hút FDI từ EU để nhanh chóng tạo thành cạnh thứ ba trong tam giác kinh tế toàn cầu Tây Âu- Bắc Mỹ và Đông Á, trong đó Trung Quốc là một cấu thành quan trọng của Đông Á. Với Nhật Bản, ASEM giúp họ giảm bớt phụ thuộc vào Mỹ về kinh tế và an ninh, kiềm chế Trung Quốc và thu lợi từ một thị trường EU rộng lớn và đơn nhất. Về phần Hàn Quốc, ASEM sẽ giúp họ nâng cao vị thế của Xêun trong các vấn đề khu vực, đặc biệt là giải quyết vấn đề bán đảo Triều Tiên. Về phần mình, EU mong muốn với ASEM, họ sẽ nâng cao vị thế cả về kinh tế và chính trị của mình ở châu Á - một khu vực được dự báo là đầu tàu kinh tế của thế giới trong thế kỷ XXI, nơi mà EU đang cảm thấy mình bị gạt ra ngoài lề bởi các đối thủ khác (như Mỹ với APEC ở châu Á). EU cũng hi vọng có thể cùng các đối tác châu Á kiềm chế bớt chủ nghĩa đơn phương của Mỹ. Như vậy, lợi ích mà Châu Á mong chờ nhiều nhất ở ASEM là về kinh tế, còn EU lại muốn thoả mãn cả về lợi ích chính trị và kinh tế. Cách tiếp cận khác nhau đang cản trở sự hợp tác Á - Âu. Thứ hai, là những ưu tiên chiến lược khác nhau. Với EU, ưu tiên chiến lược của họ là dành cho chính khu vực của họ, cho các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương, châu Phi, Nam Thái Bình Dương và các nước Caribê. Quan hệ với các nước châu Á, đặc biệt là Đông Á rất quan trọng về kinh tế, chính trị, nhưng lại không mấy quan trọng về góc độ chiến lược, vì EU không có lợi ích chính trị sống còn ở châu Á hay Đông Á. Ngược lại, các nước châu Á cũng không thể bỏ qua Mỹ, không thể cùng các nước khác như Anh, Pháp, Đức ... hình thành mặt trận chống lại chủ nghĩa đơn phương của Mỹ. Các nước châu Á cũng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docqth32.doc