Khóa luận Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của hàng không Việt Nam đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách

MỤC LỤC

 

 

Lời nói đầu

Lời cảm ơn

Những từ viết tắt trong khoá luận

Chương I: Khái quát về BHTNDS của hãng hàng không đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách . .1

I. Khái niệm và đặc điểm của BHTNDS. . .1

I.1. Khái niệm và đặc điểm của BHTNDS.1

I.2. Những rủi ro thường gặp phát sinh TNDS của hãng hàng không . 10

I.3. Vai trò và tính tất yếu của BHHK. .13

II. Các loại hình BHTNDS của hãng hàng không .16

II.1. BHTNDS của hãng hàng không đối với hành khách . 16

II.2.BHTNDS của hãng hàng không đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách . 16

II.3. BHTNDS của hãng hàng không đối với người thứ 3 .19

II.4. BHTNDS của chủ sân bay và người điều hành bay. .19

III. Nội dung BHTNDS của hãng hàng không đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách .20

III.1. Người được bảo hiểm và người được bồi thường .20

III.2. Đối tượng bảo hiểm. . 20

III.3. Phương thức bảo hiểm. . .21

III.4. Phạm vi bảo hiểm và loại trừ bảo hiểm. . .22

III.5. Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm. . .25

III.6. Giám định tổn thất, xác định thiệt hại và giải quyết bồi thường .28

Chương II: Thực trạng nghiệp vụ BHTNDS của HKVN đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách .33

I. Sự ra đời và phát triển BHTNDS của HKVNđối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách. .33

I.1. Khái quát về TCTHKVN. .33

I.2. Hoạt động bảo hiểm của HKVN giai đoạn từ 1995 trở về trước .37

I.3. Hoạt động bảo hiểm của HKVN giai đoạn từ 1995 đến nay.38

II. Cơ sở pháp lý BHTNDS của HKVN. .43

II.1. Các công ước và điều ước quốc tế .45

II.2. Các văn bản pháp luật của Việt Nam . .49

III. Thực trạng BHTNDS của HKVN đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách. .58

III.1. Phí bảo hiểm. .58

III.1.1. Phí BHTNDS của HKVNđối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách. .58

III.1.2. Phí BHTNDS của HKVNđối với hành lý, hàng hoá dưới mức miễn thường . .63

III.2. Công tác giám định và đánh giá thiệt hại. . .64

III.3. Công tác bồi thường. .67

III.4. Hạn mức trách nhiệm. .75

III.5. Công tác ĐP & HCTT. .77

Chương III: Một số vấn đề cần lưu ý về BHTNDS của HKVN đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách. .83

I. Về phía Nhà nước . .83

II. Về phía TCTHKVN. .84

III. Về phía công ty bảo hiểm. .92

IV. Về phía người thứ 3. .94

Lời kết

Tài liệu tham khảo

Phục lục I

Phụ lục II

 

 

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3016 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của hàng không Việt Nam đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
USD. Nói chung phí bảo hiểm có xu hướng tăng lên qua các năm đây không biểu hiện xu hướng tiêu cực mà lại thể hiện xu hướng tích cực sự lớn mạnh của HKVN. Tình hình tổn thất đã có dấu hiệu suy giảm nhờ công tác ĐP &HCTT của HKVN đem lại nhiều hiệu quả. Công tác bồi thường đã nhanh chóng và kịp thời giúp cho hành khách khắc phục tổn thất, tạo được uy tín lớn cho HKVN. BHHK ngày càng thể hiện được vai trò và tác dụng quan trọng đối với ngành hàng không Việt Nam vốn đang còn non trẻ. Do đó, cho đến thời điểm này, TCTHKVN đã tham gia hầu hết các nghiệp vụ BHHK như: bảo hiểm thân máy bay, BHTNDS của hãng vận chuyển đối với hành khách, hành lý, hàng hoá, tư trang và bưu chính, BHTNDS của hãng hàng không đối với người thứ 3, BHTNDS đối với sản phẩm, bảo hiểm tai nạn cá nhân, bảo hiểm rủi ro chiến tranh, bảo hiểm rủi ro bắt cóc chiếm đoạt. II. Cơ sở pháp lý BHTNDS của HKVN đối với hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách: Cùng với sự phát triển kỹ thuật chế tạo các phương tiên bay, từ thế kỷ 19, các Luật gia ở các nước Châu âu đã bàn và cho ra đời các quy chế quản lý bay của khinh khí cầu. Rồi tiến tới là máy bay có động cơ ở một số nước như ý và Pháp. Sang đầu thế kỷ 20, khi mà anh em nhà Wright đã chế tạo ra máy bay có động cơ với chuyến bay đầu tiên vào tháng 12/1903 thì ở Châu âu đã xuất hiện khá nhiều tài liệu bàn về Luật Hàng không. Ngay từ ban đầu quá trình phát triển của Luật Hàng không đã tập trung nghiên cứu và đưa ra các giải pháp quản lý bay vượt khỏi khuôn khổ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Hoạt động hàng không chịu sự chi phối của các điều ước quốc tế. Luật HKDD của các quốc gia đó hay điều lệ riêng của các tổ chức hàng không như ICAO - Tổ chức HKDD quốc tế của các Chính phủ và IATA- Hiệp hội vận chuyển hàng không của các hãng hàng không trên thế giới. Do hoạt động của ngành HKDD luôn chịu nhiều áp lực lớn về kinh tế (chi phí cao), chính trị (tính chất quốc gia và quốc tế) và kỹ thuật (an toàn) cho nên ngoài tính chất của các bộ luật khác thì Luật HKDD có một số tính chất sau: * Tính chất đặc thù: Hoạt động HKDD là hoạt động vận tải con người và hàng hoá với những phương tiện vận tải là tàu bay, môi trường hoạt động là trên bầu trời. Vì vậy phạm vi hoạt động của chúng tương đối rộng cả trong nước và ngoài nước nên hoạt động của nó cũng bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khách quan khác nhau. Hơn nữa do vốn đầu tư và chi phí cho hoạt động là rất cao nên cũng luôn được tính toán và kiểm soát chặt chẽ. Chính vì vậy mà cần hình thành ra một nguồn luật riêng biệt mang tính chất đặc thù. * Tính chất kỹ thuật và hiện đại: Hoạt động HKDD mang tính kỹ thuật vì vận chuyển HKDD phải an toàn tuyệt đối, cả kỹ thuật chế tạo và người điều khiển, người sử dụng nên các qui định pháp luật cũng phải chặt chẽ, luôn phải phát triển gắn bó theo kịp sự phát triển kỹ thuật của ngành hàng không. Tính hiện đại là do tính kỹ thuật của ngành hàng không phát triển ngày càng cao nhờ những ứng dụng của khoa học do vậy luật HKDD luôn cần phải đổi mới cho phù hợp với sự phát triển đó. * Tính chất quốc tế: Hoạt động hàng không ngày càng được mở rộng, không chỉ bó hẹp bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà đã và đang mở rộng sang phạm vi quốc tế. Do vậy, các Chính phủ cần phải ngồi lại với nhau nhằm đưa ra những qui chế pháp lý phù hợp. Từ đó, đã hình thành nên các Điều ước quốc tế về công pháp và tư pháp để điều chỉnh hoạt động hàng không quốc tế nên luật hàng không mang tính quốc tế. II.1. Các công ước và điều ước quốc tế: * Công ước Vacsava (Warsaw): nhằm tạo ra sự nhất trí, đồng bộ về việc xác định trách nhiệm của người vận chuyển đối với hành khách, hành lý, hàng hoá, tư trang cá nhân. Ngày 12/10/1929 tại Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về Luật hàng không (CODDA) được tổ chức tại Vacsava đã cho ra đời Công ước Vacsava. Đây là công ước thống nhất một số qui tắc liên quan đến vận chuyển hàng không quốc tế. Lúc đầu chỉ có 23 quốc gia tham gia và hiện nay có 140 nước trên thế giới tham gia hệ thống công ước này. Việc áp dụng công ước Vacsava chỉ áp dụng cho việc vận chuyển hàng không quốc tế và như vậy thì có sự khác nhau giữa các mức giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển đôí với những thiệt hại về hành khách, hành lý, hàng hoá, tư trang của hành khách giữa đường bay trong nước và đường bay nội địa. Trong Điều 1 và từ điều 17 đến 19 của công ước này qui định người vận chuyển phải có trách nhiệm về những thiệt hại: - Mất mát, thiếu hụt, hư hỏng của hành lý ký gửi hoặc hàng hoá - Thiệt hại xảy ra do vận chuyển chậm trễ hành khách, hành lý, hàng hoá. - Thiệt hại về hành lý xách tay hay tư trang. Tuy nhiên, những thiệt hại này phải xảy ra trong quá trình vận chuyển bằng máy bay, tức là đối với hành lý, hàng hoá thì đó là toàn bộ toàn bộ thời gian mà hành lý, hàng hoá nằm trong sự bảo quản của nhà vận chuyển hàng không không kể nó ở sân bay, máy bay hay trong trường hợp máy bay hạ cánh ở ngoài sân hoặc bất kỳ nơi nào khác. Công ước Vacsava đã qui định mức giới hạn trách nhiệm bồi thường tối đa của nhà vận chuyển là: + 250 Frăng vàng/1kg hàng hoá hay hành lý + 5.000 Frăng vàng/hành lý xách tay, tư trang Ngoài ra đối với những thiệt hại về hàng hoá, hành lý tại khoản 2 điều 20 của công ước qui định nếu khi giao hàng cho người vận chuyển, người gửi có kê khai giá trị và đã trả lệ phí thì người vận chuyển có trách nhiệm bồi thường không vượt quá giá trị đã kế khai, trừ trường hợp người vận chuyển chứng minh được giá trị kê khai lớn hơn giá trị thực tế. Trong trường hợp người vận chuyển hoặc đại lý của họ phạm lỗi cố ý hoặc lỗi tương đương thì người vận chuyển không được hưởng giới hạn trách nhiệm. Tóm lại với sự ra đời của công ước Vacsava là một bước ngoặt lớn trong đời sống ngành HKDD trên thế giới. Nó đã được coi như một nền tảng cơ sở để các quốc gia, các hãng hàng không nghiên cứu, xem xét khi ký kết các Hiệp định, Nghị định thư về hàng không giữa các quốc gia. Tất nhiên, cùng với thời gian nó đã bộc lộ một số thiếu sót, có nhiều điểm không phù hợp với sự phát triển nữa. * Nghị định thư La Hague 1955 (La Hague Protocol) Vì những thiếu sót và hạn chế của công ước Vacsava mà cộng đồng quốc tế trong đó có Mỹ đòi phải sửa đổi, bổ sung nên ngày 28/9/1955 hầu hết các quốc gia đang tham gia công ước Vacsava đã cùng đi đến ký kết Nghị định thư La Hague. + Nghị định thư La Hague vẫn giữ nguyên trách nhiệm dân sự của người vận chuyển mức giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển đối với hành lý ký gửi và hàng hoá trong công ước Vacsava. + Nghị định thư cho phép thoả thuận giảm bớt trách nhiệm hay ấn định giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển thấp hơn giới hạn nêu trong công ước nếu việc mất mát hay tổn thất về hàng hoá là kết quả từ sự thiếu hụt, đặc tính hay khuyết tật vốn có của hàng hoá. + Giới hạn cho việc khiếu nại tổn thất cũng được sửa đổi từ 7 ngày thành 14 ngày đối với hàng hoá kể từ ngày nhận hàng. Từ 3 ngày lên 7 ngày đối với hành lý. Trường hợp chậm trễ, giới hạn để kéo dài từ 14 lên 21 ngày. + Ngoài ra Nghị định thư đã sửa đổi về qui định trách nhiệm bồi thường của người gửi hàng trong trường hợp gây tổn thất cho người vận chuyển hay người nào khác vì lý do kê khai không hợp lệ hay không chính xác, không đầy đủ về chi tiết liên quan đến hàng hoá. Bổ sung cách tính tổn thất đối với các vật khác. * Thoả ước Montreal 1966: Thoả ước này với mức trách nhiệm giới hạn đối với hành lý, hàng hoá và tư trang không thay đổi giống Nghị định thư La Hague 1955. * Nghị định thư Guatemala 1971: Được ra đời ngày 28/9/1971 đưa ra các thay đổi lớn về các mức giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển đối với hành khách, hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách. + 15.000 Frăng vàng (= 1.200USD) đối với những trường hợp mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hay chậm trễ hành lý (bao gồm cả hành lý ký gửi và hành lý xách tay) + 250 Frăng vàng (= 20USD) đối với mỗi kg hàng hoá * Nghị định thư Montreal 1975: Nhằm chuyển đổi đồng Frăng vàng sang đồng SDR (Special Drawing Right) trong việc thực hiện mức trách nhiệm. Do vậy, năm 1975 Hội nghị quốc tế về luật hàng không đã đưa ra 3 Nghị định thư. + Nghị định thư số 1: sửa đổi mức giới hạn trách nhiệm trong công ước Vacsava + Nghị định thư số 2: sửa đổi mức giới hạn trách nhiệm trong công ước Vacsava đã được sửa đổi trong Nghị định thư La Hague + Nghị định thư số 3: sửa đổi mức giới hạn trách nhiệm trong công ước Vacsava đã được sửa đổi trong Nghị định thư La Hague trên cơ sở áp đặt trách nhiệm nghiêm ngặt hơn đối với hãng vận chuyển. Nhưng họ được miễn trách nhiệm trong các trường hợp tổn thất do: hàng xấu, chất lượng kém, chiến tranh xung đột vũ trang, hoạt động của các cấp chính quyền có liên quan đến quá cảnh hàng hoá. * Công ước Montreal 1999: Xu hướng của hãng hàng không trên thế giới là trách nhiệm của nhà vận chuyển đối với hành khách sẽ thường xuyên được xem xét để nâng cao mức trách nhiệm cho phù hợp với điều kiện mức sống và nền KT - XH ở các quốc gia không ngừng phát triển. Đó cũng chính là mục tiêu của các hãng hàng không nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, làm cho sản phẩm hàng không ngày càng thu hút được nhiều khách hàng hơn. Công ước Montreal 1999 có 57 điều ước mang tính lịch sử trong lĩnh vực tư pháp hàng không quốc tế thể hiện nỗ lực của cộng đồng HKDD quốc tế trong việc phát điển hoá và hiện đại hoá hệ thống công ước Vacsava liên quan đến trách nhiệm của hãng vận chuyển khi có tổn thất. Công ước mới được thông qua sẽ khắc phục được tình trạng manh mún, chắp vá của hệ thống công ước Vacsava liên quan đến chế độ trách nhiệm của nhà vận chuyển hàng không. Đồng thời cũng thể hiện được thể trạng phát triển KH - KT trong lĩnh vực HKDD và điều kiện KT- XH trên phạm vi toàn cầu. Công ước đã thể hiện xu hướng cân bằng lợi ích của nhà vận chuyển với người sử dụng phương tiện vận tải hàng không, mở rộng thêm trách nhiệm của nhà vận chuyển và đề cao quyền lợi của hành khách. Hiện nay thì đã có 53 quốc gia tham công ước này, và Việt Nam cũng đã tham gia hạn mức trách nhiệm không hạn chế vào 8/2000. Tuy nhiên, công ước này vẫn còn nhiều điểm đang gây tranh cãi nên tác giả không đưa ra cụ thể hạn mức trách nhiệm (cụ thể chi tiết của công ước này được đề cập trong phụ lục 2 để bạn đọc tham khảo thêm). Việt Nam đã tham gia ký kết công ước Vacsava và Nghị định thư La Hague vào ngày 13/03/1980 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 12/04/1980. Như vậy, điều chỉnh hoạt động vận tải hàng không quốc tế bên cạnh Công ước Vacsava năm 1929, Nghị định thư LaHague1955 còn có các văn bản pháp luật khác điều chỉnh. II.2.Các văn bản pháp luật của Việt nam: II.2.1.Luật HKDDVN: Ngày 26/12/1991, Luật HKDDVN đã được Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 10 thông qua và được công bố theo lệnh số 63/LCT/HĐNN ngày 04/01/1992. Luật HKDD đã ra đời trên cơ sở đối chiếu các Hiệp ước, Công ước, Nghị định thư mà Việt Nam đã tham gia cũng như các thoả thuận riêng đối với mỗi quốc gia có đường bay của HKVN đến hoặc trung gian. Và hiện nay thì HKVN đã tham gia công ước Vacsava và Nghị định thư La Hague. Trong luật HKDDVN thì có một phần qui định liên quan đến lĩnh vực BHTNDS đối với hành khách, hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách. Mục 5 trách nhiệm dân sự trong chương VI “Vận chuyển hàng không” từ Điều 72 đến Điều 81 và các điều khoản khác có liên quan chặt chẽ đến hợp đồng vận chuyển hàng không (hành khách, hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách). Tóm tắt ý chính của phần này như sau: * Trách nhiệm bảo hiểm: Luật HKDDVN khẳng định hãng vận chuyển phải mua BHTNDS của mình đối với tính mạng, sức khoẻ, thương tích của hành khách tới mức giới hạn trách nhiệm dân sự của người vận chuyển và theo qui định của pháp luật về bảo hiểm (Điều 72). Xu hướng của luật thiên về bảo vệ quyền lợi của khách hàng, về dân sự đó cũng là mặt tích cực ưu việt trong xây dựng đất nước và phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Bởi vì về mặt vật chất thì vận chuyển hàng không có nhiều rủi ro, giá trị tài sản thiệt hại rất lớn thậm chí không tính được bằng tiền - giá trị liên quan đến sức khoẻ tính mạng của con người. Nhằm đảm bảo cho hãng hàng không hoạt động được bình thường thì khi rủi ro phát sinh và bù đắp phần nào những thiệt hại liên quan đến tính mạng của khách hàng - rủi ro khách quan vẫn thường xảy ra mà con người không thể tiên liệu trước. Việc áp dụng phương thức bảo hiểm bắt buộc đối với hành khách, hành lý, hàng hoá và tư trang của hành khách của luật HKDDVN là đúng đắn và bảo vệ quyền lợi cho cả người vận chuyển hàng không cùng hành khách. * Trách nhiệm bồi thường: Trách nhiệm bồi thường của người vận chuyển dựa trên nguyên tắc xác định trách nhiệm dân sự trên cơ sở rủi ro(khách quan) và lỗi lầm(chủ quan của sự kiện pháp lý phát sinh).Theo đó: + Trách nhiệm về “rủi ro” thì dựa trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm + Trách nhiệm về ‘lỗi lầm” thì xét trên yếu tố lỗi là chính Nguyên tắc xác định là phải xem xét tới các yếu tố, hành vi vi phạm, hậu quả, mối quan hệ nhân quả(hành vi là nguyên nhân trực tiếp đối với hậu quả) và lỗi lầm (lỗi cố ý, và lỗi vô ý- Điều 310 Bộ Luật dân sự) chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ người vi phạm. Cụ thể đối với hành lý, hàng hoá như sau: Người vận chuyển có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mất mát, hư hỏng, hay thiếu hụt hành lý, hàng hoá ký gửi trong quá trình vận chuyển bằng tàu bay. Và trong quá trình vận chuyển hàng hoá, hành lý ký gửi bằng tàu bay thì được tính từ thời điểm sau: + Người gửi hàng giao hàng hoá, hành lý cho người vận chuyển tới thời điểm người vận chuyển giao hành lý, hàng hóa cho người có quyền nhận (Người có tên trong vé hoặc vận đơn hàng không). Riêng đối với trường hợp hành lý, hàng hoá thì người vận chuyển chỉ chịu trách nhiệm bồi thường, nếu người vận chuyển có lỗi gây ra thiệt hại đó (Điều 74, khoản 2 - Luật HKDDVN). Vấn đề xác định lỗi (chủ quan) phải căn cứ vào các định ước trong hợp đồng vận chuyển và theo các quy định của pháp luật. * Bồi thường thiệt hại do vận chuyển chậm trễ: Người vận chuyển có trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra do vận chuyển chậm trễ, nếu anh ta không chứng minh được rằng anh ta hay đại lý của mình đã áp dụng mọi biện pháp đề phòng tránh thiệt hại hoặc có thể áp dụng biện pháp nào để khắc phục được. Quy định này nhằm nhấn mạnh đến yếu tố mẫn cảm của người vận chuyển, luôn có trách nhiệm quan tâm đến hàng hoá. Nhưng trong thực tế việc giải quyết tranh chấp người ta thiên về xét yếu tố lỗi là chính. + Đối với hàng bị mất: Nếu sau 07 ngày, kể từ ngày lẽ ra hàng phải được vận chuyển tới địa điểm giao hàng mà hàng không tới thì được coi là hàng bị mất và người vận chuyển có trách nhiệm phải bồi thường. Nếu trường hợp sau đó tìm lại được thì người nhận hàng vẫn có quyền nhận lại hàng và trả lại cho người vận chuyển số tiền bồi thường đã nhận. Hiện tại HKVN đang áp dụng đối với hàng hoá, hành lý thời hạn sau 14 ngày nếu hàng hóa, hành lý đáng lẽ phải đến địa điểm giao hàng nhưng hàng hoá, hành lý không đến thì HKVN tiến hành bồi thường hàng hoá, hành lý mất cho khách. Trường hợp đặc biệt có thể giải quyết sớm hơn thời hạn trên (nếu hành khách có yêu cầu). Chi tiết Quy định 323/HKVN ngày 10/03/1997 được trình bày ở Phụ lục 1. Mức bồi thường thiệt hại do vận chuyển chậm trễ không vượt quá mức giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển (Điều 77, Khoản 2). Mức bồi thường đối với việc mất mát, thiếu hụt hay hư hỏng hành lý, hàng hoá(Điều 76) người vận chuyển phải bồi thường + Theo mức giá trị hàng hoá đã kê khai + Theo giá trị thực tế (nếu người vận chuyển chứng minh được rằng giá trị hàng hoá đã kê khai cao hơn giá trị thực tế hoặc hàng hoá không kê khai giá trị, hoặc đối với hành lý xách tay, cộng cả cước và phụ phí). + Đối với hàng hoá, hành lý không kê khai gía trị hoặc xách tay, thì mức bồi thường không được vượt quá mức giới hạn trách nhiệm dân sự của người vận chuyển. + Trường hợp không xác định được giá trị thực tế thì mức bồi thường được tính theo mức giá trị trách nhiệm dân sự của người vận chuyển. * Giới hạn trách nhiệm dân sự (Điều 78): Người vận chuyển chỉ được hưởng mức giới hạn trách nhiệm dân sự trong các trường hợp sau: + Không có lỗi (cố ý hoặc vô ý) gây ra thiệt hại. + Mức giới hạn trách nhiệm dân sự như mức giới hạn trách nhiệm dân sự trong việc vận chuyển hàng không quốc tế theo các điều ước mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Và theo luật HKDDVN thì có thể thoả thuận để mở rộng trách nhiệm dân sự của người vận chuyển (Điều 78, khoản 2) nhưng không cho phép việc thoả thuận nhằm giảm hoặc miễn trách nhiệm của người vận chuyển ngoài quy định của luật này (Điều 78, khoản 3). * Trường hợp miễn trách nhiệm người vận chuyển: Trong một số trường hợp thì người vận chuyển có thể miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do một số nguyên nhân sau: + Do đặc tính tự chọn hoặc khuyết tật vốn có của hàng hoá, hành lý. + Do hành động bắt giữ hoặc cưỡng chế của nhà chức trách hoặc Toà án đối với hành lý ký gửi. + Do xung đột vũ trang do lỗi của người gửi, người nhận hàng, hành lý hoặc do lỗi của người áp tải người gửi hoặc người nhận cử đi kèm theo hàng hoá. * Khiếu nại và khởi kiện người vận chuyển: Điều 80 - Luật HKDDVN quy định người gửi, khách hàng và người có quyền nhận hàng hoặc đại diện hợp pháp của họ có quyền và kiện người vận chuyển. + Khiếu nại: Phải gửi khiếu nại trong thời hạn - Tổn thất hành lý sau 7 ngày kể từ ngày nhận. - Thiếu hụt, hư hỏng hàng hoá, hành lý - 14 ngày - Mất hàng - 21 ngày kể từ ngày trả hàng. - Vận chuyển chậm trễ - 21 ngày kể từ ngày lẽ người có quyền nhận hàng, hành lý phải nhận được hàng. + Trả lời khiếu nại: Trong vòng 30 ngày, người vận chuyển phải trả lời người khiếu nại chấp nhận hay không nếu khiếu nại không được chấp nhận hoặc quá thời hạn trên mà không được người vận chuyển trả lời thì người khiếu nại có quyền khởi kiện. + Khởi kiện: Thời hạn để khởi kiện người vận chuyển về tổn thất hàng hoá, hành lý là một năm kể từ ngày hành lý, hàng hoá được vận chuyển tới địa điểm đến hoặc từ ngày vận chuyển bị đình chỉ (Điều 81). Trên đây là một số tóm tắt về những điều khoản liên quan đến phần trách nhiệm bồi thường của chủ hãng vận chuyển đối với hành lý, hàng hoá đối với các đường bay trong nước. Ngoài ra, việc áp dụng với các đường bay quốc tế thì phải tuân thủ những qui định của luật pháp quốc tế (tất nhiên là chỉ áp dụng những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết). Điều 82 luật HKDDVN có nêu rõ: các qui định đối với chương này (Chương VI - vận chuyển hàng không) cũng được áp dụng đối với việc vận chuyển quốc tế bằng tàu bay do các doanh nghiệp vận chuyển HKVN tiến hành, nếu điều ước quốc tế về hàng không mà Việt Nam ký kết được tham gia không qui định khác. Mức giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển theo Công ước Vácsava được tính: - Hành lý, hàng hoá: 250 Frăng vàng/kg - Hành khách: 125.000 Frăng vàng/ hành khách - Những vật do hành khách tự bảo quản ( Hành lý xách tay và tư trang ) là 5000 Frăng vàng/Hành khách (Đồng Frăng vàng = 65 miligram vàng 900/1000 được chuyển đổi ra bất kỳ tiền tệ quốc nào khi xử lý, giải quyết tranh chấp) Trong trường hợp hành lý, hàng hoá bị thiệt hại, người được quyền nhận hàng, hoặc gửi hàng phải khiếu nại người chuyên chở trong vòng 3 ngày đối với hành lý và 7 ngày đối với hàng hoá kể từ ngày nhận. Trường hợp chậm trễ, đơn khiếu nại phải được làm muộn nhất 14 ngày kể từ ngày mà hành lý hoặc hàng hoá lẽ ra phải được định đoạt của người nhận (Điều 26 - Khoản 2 Công ước Vácsava). Việc khiếu nại mà không thành thì thời hạn của khởi kiện là 2 năm kể từ ngày mà tàu bay đến địa điểm đến, hoặc từ ngày mà lẽ ra tàu bay phải đến hoặc kể từ ngày mà việc vận chuyển chấm dứt. Tóm lại, luật HKDDVN ra đời là một điều cần thiết đáp ứng được nhu cầu vận chuyển HKDD cả nội địa lẫn quốc tế đang phát triển nhanh chóng trong những năm qua. Và cũng có ý nghĩa là với nền tảng là công pháp, tư pháp thì luật HKDDVN cũng cần được thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của ngành HKDDVN. II.2.2. Bộ luật dân sự: Bộ luật dân sự của Việt Nam ra đời ngày 28/10/1995 và có hiệu lực từ 01/7/1996 là công cụ pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển KT - XH của đất nước. Bộ luật dân sự có một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật nước nhà, tạo cơ sở pháp lý nhằm tiếp tục giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội và quyền con người về dân sự. Bộ luật dân sự góp phần bảo đảm cuộc sống cộng đồng, ổn định, lành mạnh, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết tương thân tương ái, thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hoá dân tộc hình thành trong lịch sử lâu đời xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, góp phần xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Ngay tại Mục 3 (Trách nhiệm dân sự) từ Điều 308 đến Điều 314 nêu rõ: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần”. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được bằng tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút (Điều 30). Vì vậy, đối với ngành HKDD nếu có gây thiệt hại cho hành khách, hành lý, hàng hoá và tư trang cá nhân, hay người thứ 3 thì phát sinh trách nhiệm dân sự phải bồi thường theo qui định cũng như phù hợp với các Công ước quốc tế. II.2.3. Luật kinh doanh bảo hiểm Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm; góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền KT - XH, ổn định đời sống nhân dân; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nên ngày09/12/2000 Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam đã ra đời và có hiệu lực từ 01/4/2001. Tại Điều 8 - Các qui định BHTNDS của người vận chuyển hàng không đối với hành khách là loại hình bảo hiểm bắt buộc nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Vì vậy, việc HKVN tham gia BHTNDS không chỉ là nghĩa vụ và trách nhiệm của hãng vận chuyển mà còn là quyền lợi của cả hành khách và HKVN II.2.4. Thể lệ vận chuyển hàng không: Điều lệ được Cục HKDDVN thông qua ngày 29/6/1996. Trách nhiệm của người vận chuyển được qui định trong điều lệ này như sau: Trách nhiệm của người vận chuyển về thiệt hại đối với hành lý, hàng hoá ký gửi được giới hạn ở mức 20USD/kg (Điều 19 mục 5d). Ngoài ra, TCTHKVN còn đề ra một số công văn hướng dẫn việc tham gia bảo hiểm, việc giải quyết khiếu nại bồi thường và công tác ĐP & HCTT như sau: * Hướng dẫn công tác BHHK hàng năm * Qui định 323/HKVN ngày 10/3/1997 về giải quyết khiếu nại và bồi thường đối với hành khách, hành lý, hàng hoá và tư trang, bưu kiện của TCTHKVN. Qui định 323/HKVN có phạm vi áp dụng: + Các trường hợp tổn thất đối hành khách (về người và tài sản) thuộc trách nhiệm của HKVN trong hoạt động kinh doanh vận tải hàng không. + Các trường hợp hãng hàng không nước ngoài uỷ quyền cho HKVN giải quyết khiếu nại và bồi thường cho hành khách của họ + Trường hợp khiếu nại thuộc chuyến bay và trách nhiệm của các hãng hàng không nước ngoài mà HKVN làm đại lý phục vụ sẽ được HKVN thực hiện các thủ tục pháp lý và giúp đỡ hướng dẫn khách hàng thực hiện tiếp quyền khiếu nại của họ đối với hãng hàng không chuyển chở. + Đối tượng được bồi thường và cơ quan giải quyết khiếu nại. + Thủ tục khiếu nại và hồ sơ khiếu nại có liên quan đến hành khách, hành lý, hàng hoá, tư trang và bưu chính. + Đồng tiền thanh toán và phân cấp giải quyết bồi thường. Giới hạn trách nhiệm của HKVN được qui định như sau: - Đối với hành lý, hàng hoá mức giới hạn trách nhiệm tối đa là 20USD/kg - Đối với hành lý xách tay, tư trang đối với hành khách mức giới hạn trách nhiệm tối đa không quá 400USD/hành khách. - Đối với hành lý bị hư hại, rách vỡ bao bì mức trách nhiệm tối đa không quá 100USD/ cho một bao bì. - Đối với hành lý ký gửi bị vận chuyển chậm. Chế độ bồi thường được áp dụng theo bảng dưới đây: Nhóm Điểm đến Mức bồi thường cho 01 khách đi hạng ghế Y Mức bồi thường cho 01 khách đi hạng ghế C I Việt Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia, Trung Quốc, và các nước khác 40 50 II SNG,Singapore, Philippin, Malaxia, Đài Loan, Hàn Quốc, Pháp và các nước Tây Âu khác 50 70 III Bắc Mỹ, Nhật Bản 80 100 (Nguồn: Quy định 323/HKVN ngày 10/3/1997) (Chi tiết quy định 323 được trình bày chi tiết trong phần Phục lục 1) II.2.5. Qui tắc BHHK: Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả thuận đàm phán, ký kết hợp đồng của các công ty bảo hiểm và hãng vận chuyển thì công ty bảo hiểm thiết lập bản Quy tắc về bảo hiểm. Quy tắc này được dựa trên hệ thống pháp luật của quốc gia và những văn bản pháp qui có liên quan. ở Việt Nam khi việc ký kết hợp đồng BHHK giữa hãng vận chuyển và Bảo Việt thì được dựa trên Qui tắc BHHK của Bảo Việt ngày 08/3/1991. Sau này khi HKVN tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm với Bảo Minh thì trong hợp đồng phần Qui tắc BHHK vẫn được Bảo Minh dựa trên bản Qui tắc cũ của Bảo Việt có tham khảo thêm các hợp đồng BHHK trên thế giới. Sau đây là một s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNOIDUNG CHUONGI-III.doc
  • docBIALUAN+LOINOIDAU.doc
  • docLOIKET+PHULUCI-II.doc
Tài liệu liên quan