Khóa luận Bảo vệ cổ đông thiểu số

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU 1

 

CHƯƠNG I. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ 5

1.1. Các khái niệm 5

1.1.1. Cổ đông 5

1.1.2. Cổ đông thiểu số 6

1.1.3. Bảo vệ cổ đông thiểu số 10

1.1.4. Nhóm cổ đông 10

1.2. Lý do bảo vệ cổ đông thiểu số 11

1.2.1. Mối quan hệ bất bình đẳng giữa cổ đông lớn và cổ đông thiểu số 11

1.2.2. Ý thức và khả năng tự bảo vệ mình của cổ đông thiểu số 12

1.3. Mục tiêu bảo vệ cổ đông thiểu số 13

1.3.1. Khuyến khích nhà đầu bỏ tiền ra kinh doanh, tăng nguồn vốn cho nền kinh tế

14

1.3.2. Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán 15

1.3.3. Xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh để thu hút đầu tư 16

Kết luận Chương I 19

 

CHƯƠNG II. NHỮNG BẤT CẬP TRONG VIỆC BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 20

2.1. Một số bất cập trong việc cổ đông thiểu số thực thi quyền cổ đông 20

2.1.1. Quyền yêu cầu triệu tập, tham gia và đưa nội dung vào chương trình nghị sự tại cuộc họp Đại hội đông cổ đông 20

2.1.2. Quyền kiểm soát các giao dịch tư lợi 23

2.1.3. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần 26

2.1.4. Quyền tiếp cận, kiểm soát thông tin của công ty 29

2.1.5. Quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài huỷ quyết định của Đại hội đồng cổ đông 34

2.1.6. Áp dụng điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông và tỉ lệ biểu quyết thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông 36

2.2. Một số bất cập về thực trạng cổ đông lớn lạm quyền, chi phối công ty và chèn ép cổ đông thiểu số 39

2.2.1. Cổ đông lớn hạn chế cổ đông thiểu số thực hiện quyền cổ đông 39

2.2.1.1. Hạn chế quyền tham dự, chất vấn và biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của cổ đông thiểu số 39

2.2.1.2. Gửi thông báo mời hợp Đại hội đồng cổ đông kèm theo thư uỷ quyền đương nhiên cho Hội đồng quản trị 42

2.2.2. Cổ đông lớn thông qua Hội đồng quản trị chi phối công ty 44

2.2.2.1. Hội đồng quản trị chi phối Đại hội đồng cổ đông 44

2.2.2.2. Hội đồng quản trị chi phối Ban kiểm soát 46

2.2.2.3. Cổ đông lớn chi phối đại diện của cổ đông thiểu số trong Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát 50

2.2.2.4. Cổ đông Nhà nước lạm quyền chi phối hoạt động của công ty 53

2.2.3. Cổ đông lớn lạm quyền để thâu tóm và chiếm đoạt tài sản của công ty 56

2.2.3.1. Cổ đông lớn sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán 56

2.2.3.2. Cổ đông lớn thâu tóm và chiếm đoạt tài sản của công ty thông qua việc công ty phát hành thêm cổ phần, thực hiện thưởng cổ phần và ưu đãi mua cổ phần 59

2.2.3.3. Cổ đông lớn “rút ruột” công ty bằng cách thức thành lập công ty con và thực hiện các dự án đầu tư 63

2.3. Một số bật cập trong việc thực thi cơ chế thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp 64

2.3.1. Cơ chế thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán 65

2.3.1.1. Thực thi cơ chế thanh tra, giám sát của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán 65

2.3.1.2. Thực thi chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán 66

2.3.2. Một số bất cập của cơ chế giải quyết tranh chấp trong doanh nghiệp 68

2.3.2.1. Phạm vi thẩm quyền khởi kiện của cổ đông thiểu số còn bị hạn chế 69

2.3.2.2. Cơ chế xác định vụ việc tranh chấp để giải quyết còn nhiều bất cập 71

Kết luận Chương II 73

KẾT LUẬN CHUNG 75

 

doc76 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7105 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Bảo vệ cổ đông thiểu số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông thể phủ nhận rằng một khi quyết định của ĐHĐCĐ chưa bị Toà án hoặc Trọng tài tuyên huỷ thì rõ ràng quyết định này vẫn có hiệu lực áp dụng. Để đảm bảo quyền lợi cho CĐTS trong trường hợp này, tác giả cho rằng nên quy định khi quyết định của ĐHĐCĐ bị cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty trở lên yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài tuyên huỷ, thì quyết định này sẽ tạm thời ngừng hiệu lực cho đến khi có quyết định của Toà án hoặc Trọng tài giải quyết vấn đề này. Nếu quy định như nêu trên sẽ hạn chế được sự tác động của các quyết định của ĐHĐCĐ bị chi phối bởi cổ đông lớn và HĐQT tới đa số các CĐTS, thông qua đó quyền lợi của CĐTS sẽ được bảo vệ nhiều hơn. Bên cạnh quyền yêu cầu Toà án và Trọng tài huỷ quyết định của ĐHĐCĐ, LDN 2005 còn cho phép cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất một năm có quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện quyết định của HĐQT trong trường hợp quyết định đó trái với quy định của pháp luật và Điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty (khoản 4, Điều 108 LDN 2005). Trong CTCP thì quyết định của HĐQT có vai trò vô cùng quan trọng, có thể mang lại lợi ích lớn cho công ty nhưng cũng có thể gây ra thiệt hại đáng kể, chính vì vậy quy định này đúng là một điều quá tuyệt vời cho các CĐTS, họ sẽ có quyền can thiệp kịp thời để bảo vệ quyền lợi của công ty cũng như quyền lợi của mình khi bị người quản lý công ty gây thiệt hại. Tuy nhiên, đây là một vấn đề mang tính nội bộ của doanh nghiệp mà không phải một quyền năng giúp CĐTS có được sự hậu thuận từ Toà án hoặc Trọng tài, vì vậy trên thực tế hiệu quả mà quyền năng này mang lại là không khả thi, vì pháp luật chỉ quy định cổ đông có quyền yêu cầu mà bỏ ngỏ không quy định chế tài cho việc HĐQT không thực hiện yêu cầu hợp lý đó của cổ đông. Do đó, trường hợp cổ đông có yêu cầu mà HĐQT không thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu của cổ đông thì mọi chuyện đâu lại vào đó. Chính vì vậy, để giải quyết vướng mắc trong vấn đề này, pháp luật nên quy định nghĩa vụ và kèm theo chế tài của HĐQT trong việc thực hiện yêu cầu hợp lý của cổ đông. Chỉ có như vậy quyền lợi của CĐTS mới được đảm bảo, đồng thời cũng góp phần làm cho HĐQT tôn trọng quyền lợi của CĐTS nhiều hơn. Áp dụng điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông và tỉ lệ biểu quyết thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông ĐHĐCĐ là cơ quan làm việc theo nguyên tắc tập thể, mỗi năm họp thường niên ít nhất một lần và có thể họp bất thường với số lần không hạn chế, để thông qua các vấn đề quan trọng nhất của công ty. Do đó, nếu không đặt ra các điều kiện để tiến hành một cuộc họp ĐHĐCĐ hợp lệ thì chắc chắn các cổ đông lớn sẽ bằng nhiều thủ đoạn bỏ qua quyền lợi của CĐTS. Đơn giản như họ có thể tự tiến hành các cuộc họp ĐHĐCĐ và thông qua các quyết định có lợi cho cổ đông lớn, gây ảnh hưởng đến công ty cũng như quyền lợi của CĐTS. Chính vì vậy, LDN 2005 đã đặt ra điều kiện để tiến hành một cuộc họp ĐHĐCĐ là khi số lượng cổ đông đến dự họp đạt tỷ lệ đại diện cho ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết (khoản 1, Điều 102 LDN 2005). Với quy định này, các cổ đông lớn không thể tuỳ tiện tổ chức các cuộc hợp ĐHĐCĐ mà bỏ mặc CĐTS, họ muốn tiến hành được cuộc họp bắt buộc phải có sự tham gia của CĐTS trong giới hạn chừng mực nhất định. Hay nói cách khác, thông qua quy định này, CĐTS sẽ được các cổ đông lớn tôn trọng hơn. Bên cạnh đó, cổ đông lớn thường xuyên lạm dụng quyền lực để chi phối các quyết định của ĐHĐCĐ và có thể lợi dụng điều này để chèn ép, gây bất lợi cho CĐTS. Vì vậy, LDN 2005 đã đặt ra một tỷ lệ để thông qua quyết định của ĐHĐCĐ là khá cao nhằm hạn chế khả năng thông qua quyết định của ĐHĐCĐ mà không cần đến sự biểu quyết của các CĐTS. Theo đó, quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua tại cuộc họp phải được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận, riêng đối với quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại, giải thể công ty, đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty thì phải được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận (Điều 104 LDN 2005). Nếu so sánh với LDN 1999, thì có thể thấy LDN 2005 đã nâng tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định của ĐHĐCĐ lên một tỷ lệ cao hơn. Theo quy định tại khoản 2, Điều 77 LDN 1999, thì tỷ lệ tương ứng này là 51% và 65%. Ngoài ra, đối với hình thức lấy ý kiến bằng văn bản, nếu LDN 1999 quy định quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua khi được số cổ đông đại diện ít nhất 51% số phiếu biểu quyết chấp thuận, thì nay, LDN 2005 tỷ lệ này đã được nâng lên tới 75%. So với pháp luật công ty của nhiều nước trên thế giới, thì LDN Việt Nam quy định tỷ lệ để thông qua các quyết định của ĐHĐCĐ là khá cao. “Luật công ty Úc, Niu ZeaLand và một số nước khác trên thế giới quy định cần tỷ lệ 51% tổng số phiếu biểu quyết để thông qua các quyết định của ĐHĐCĐ” Nguyễn Thị Thuý Hằng, tlđd, tr. 41. . Chính sự khác biệt này đã tạo ra những rào cản nhất định cho việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như quá trình Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Để gỡ bỏ những rào cản này nhằm mục tiêu gia nhập WTO, Việt Nam đã chấp nhận hạ tỷ lệ triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ hợp lệ và thông qua các quyết định của cơ quan này từ 65% và 75% xuống chỉ còn 51% cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Những cam kết nói trên được thể hiện tại đoạn 502 và đoạn 503, “Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO”. Để thực thi cam kết này, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 về phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Theo quy định của Nghị quyết này thì các cam kết nêu trên của Việt Nam sẽ được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp trong mọi ngành nghề, lĩnh vực. Mục tiêu của pháp luật trong việc quy định tỷ lệ thông qua các quyết định của ĐHĐCĐ cao là nhằm bảo vệ quyền lợi của CĐTS. Nếu áp dụng các quy định của Nghị quyết 71/2006/QH11 thì mục đích này sẽ không đạt được và gây ra bất lợi cho CĐTS, bởi các cổ đông lớn không khó để đạt được tỷ lệ quá bán vừa đủ để thông qua các quyết định của ĐHĐCĐ, đặc biệt là trong CTCP có cổ đông nhà nước. Trên thực tế việc thực thi cam kết này cho đến nay vẫn còn gây nhiều khó khăn, tranh cãi do chưa thống nhất được sự mâu thuẫn về vấn đề này giữa Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO và Nghị quyết 71/2006/QH11. Ngay cả các cơ quan nhà nước cũng không có cách hiểu thống nhất về vấn đề này. Theo Vụ Pháp chế - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì những quy định của cam kết phải được áp dụng thống nhất cho tất cả doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề theo quy định của Nghị quyết 71/2006/QH11. Trong khi đó, Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư lại có ý kiến cho rằng các cam kết tại đoạn 502 và đoạn 503, Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp liên doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, thuộc các nhóm ngành Việt Nam có cam kết và các doanh nghiệp liên doanh thành lập trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Tổ Công tác cũng cho rằng văn bản cần được áp dụng trong trường hợp này là Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO chứ không phải Nghị quyết 71/2006/QH11 hay LDN 2005. Cùng với đó, UBCKNN cũng bác bỏ việc nhiều doanh nghiệp áp dụng tỷ lệ biểu quyết quá bán nêu trên vì cho rằng không phù hợp với quy định của LDN 2005. Theo quan điểm của UBCKNN thì tỷ lệ 51% trong các cam kết WTO chỉ áp dụng cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài mà thôi. Báo Đầu tư tài chính, số ra ngày 01/03/2010, tr. 10. Quan điểm tác giả cho rằng, ý kiến của Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư như nêu trên là hợp lý, vì theo quy định tại Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005, thì nếu văn bản pháp luật nội địa và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì điều ước quốc tế đó được ưu tiên áp dụng. Theo đó, trong trường hợp này văn bản được ưu tiên áp dụng phải là Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO chứ không phải Nghị quyết 71/2006/QH11. Mặt khác, Nghị quyết số 71/2006/QH11 cũng quy định trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của WTO, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm, thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập WTO, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm. Đồng thời, theo quy định tại LDN 2005, trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế. Như vậy, chúng ta không cần phải bàn cãi về việc áp dụng Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO trong trường hợp này. Theo cam kết trong Báo cáo này, tỷ lệ biểu quyết quá bán chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp liên doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, thuộc các nhóm ngành Việt Nam có cam kết và các doanh nghiệp liên doanh thành lập trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng nếu không áp dụng thống nhất nội dung này cho tất cả các doanh nghiệp sẽ vi phạm nguyên tắc các doanh nghiệp được đối xử bình đẳng như nhau. Nhưng nếu giảm tỷ lệ biểu quyết xuống chỉ còn 51% như đề xuất của nhiều doanh nghiệp thì rõ ràng đây mà một bước lùi lớn trong việc bảo vệ quyền lợi của CĐTS. Để giải quyết mâu thuẫn này, tác giả cho rằng Chính phủ cần sớm ban hành một Nghị định để thực thi Nghị quyết 71/2006/QH11 theo hướng cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong thực trạng hiện nay. Theo đó, chỉ nên áp dụng nội dung về tỷ lệ biểu quyết quá bán đối với những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề mà chúng ta đã cam kết, đối với các doanh nghiệp còn lại vẫn áp dụng quy định của LDN 2005. Nếu thực hiện theo giải pháp này, sẽ góp phần duy trì được mục đích bảo vệ CĐTS, đồng thời việc áp dụng pháp luật đối với điều ước quốc tế cũng chính xác hơn trong trường hợp này. Một số bất cập về thực trạng cổ đông lớn lạm quyền, chi phối công ty và chèn ép cổ đông thiểu số Xuất phát từ mối quan hệ đối vốn, các cổ đông lớn – những người sở hữu số lượng lớn cổ phần trong công ty luôn nắm giữ quyền lực chi phối trong CTCP. Các cổ đông lớn thường lạm dụng quyền lực và thông qua HĐQT để thực hiện nhiều hành vi vi phạm, nhằm hạn chế, tước bỏ các quyền cổ đông của CĐTS, thâu tóm và chiếm đoạt tài sản của công ty… Các hành vi vi phạm của cổ đông lớn thì rất nhiều, nhưng trong giới hạn phần này, tác giả chỉ đề cập đến một số hành vi vi phạm phổ biến, thể hiện rõ nhất sự xâm phạm quyền lợi của các cổ đông lớn đối với CĐTS. Các hành vi vi phạm của cổ đông lớn mà tác giả đề cập đến bao gồm: (i) việc cổ đông lớn hạn chế CĐTS thực hiện quyền cổ đông; (ii) cổ đông lớn thông qua HĐQT để chi phối công ty; (iii) cổ đông lớn lạm quyền để thâu tóm và chiếm đoạt tài sản của công ty. Các hành vi vi phạm nêu trên của cổ đông lớn đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc bình đẳng giữa các cổ đông trong CTCP và trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi của CĐTS. Cổ đông lớn hạn chế cổ đông thiểu số thực hiện quyền cổ đông Các CĐTS không chỉ gặp phải khó khăn khi thực hiện các quyền cổ đông của mình do những hạn chế, bất cập từ các quy định pháp lý mà họ còn bị các cổ đông lớn tìm mọi cách để hạn chế các quyền năng này. Các hành vi vi phạm này của cổ đông lớn được thực hiện bằng cách sử dụng sức mạnh chi phối của mình, tác động vào ĐHĐCĐ hoặc HĐQT để các cơ quan này đưa ra quyết định theo mong muốn của cổ đông lớn. Các hạn chế mà cổ đông lớn thường đặt ra cho CĐTS chủ yếu là quy định điều kiện về tỷ lệ sở hữu cổ phần để tham dự ĐHĐCĐ, gửi thư mời ĐHĐCĐ mang tính hình thức cho hợp lệ và kèm theo quy định uỷ quyền mặc nhiên cho HĐQT… Hạn chế quyền tham dự, chất vấn và biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của cổ đông thiểu số Khoản 1 Điều 79 LDN 2005 quy định cổ đông “có quyền tham dự và phát biểu trong các ĐHĐCĐ và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện được uỷ quyền; mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết”. Như vậy, theo quy định nêu trên, cổ đông có quyền tham dự ĐHĐCĐ mà không bị hạn chế bởi điều kiện sở hữu về tỷ lệ cổ phần. Tuy nhiên hiện nay, có rất nhiều trường hợp CĐTS không thể tham dự ĐHĐCĐ do HĐQT của một số CTCP quy định về điều kiện để được tham dự ĐHĐCĐ là cổ đông phải sở hữu một tỷ lệ cổ phần nhất định, thông thường là lớn hơn 0,1% cổ phần có quyền biểu quyết hoặc cổ đông phải sở hữu một số lượng cổ phần tương đối lớn. Tác giả xin nêu ra một số trường hợp dưới đây để làm rõ hơn cho vấn đề này. Ngày 14/05/2009, ĐHĐCĐ Công ty Chế biến Thủy sản xuất khẩu Minh Hải (Minh Hải Jostoco) đã quyết định điều kiện tham dự ĐHĐCĐ thường niên bắt đầu từ năm 2010 trở đi là “cổ đông phải sở hữu từ 5.000 cổ phần trở lên mới được tham dự đại hội, cổ đông sở hữu dưới 5.000 cổ phần tập hợp lại cử đại diện tham dự”. Không ít công ty đại chúng khác cũng công khai điều kiện cổ đông phải đạt tỷ lệ sở hữu nhất định thì mới đủ điều kiện tham dự ĐHĐCĐ. Chẳng hạn, cổ đông PVFC Land phải sở hữu từ 0,1% vốn điều lệ trở lên, tương đương với sở hữu 500 triệu đồng mệnh giá mới được tham dự ĐHĐCĐ của công ty. Tương tự như vậy, Thông báo số 22/2009/TB-HĐQT ngày 06/03/2009 của HĐQT Công ty cổ phần Giày Sài Gòn về việc chốt danh sách cổ đông họp ĐHĐCĐ thường niên năm 2009 thì “thành viên HĐQT, Ban kiểm soát và cổ đông sở hữu hoặc đại diện sở hữu cho ít nhất 1% vốn điều lệ trở lên (16.000 cổ phần) mới được dự họp”. Trường hợp có điều kiện dự họp ĐHĐCĐ cao nhất theo ghi nhận của UBCKNN đến thời điểm này là CTCP Đầu tư PV-Inconess. Trong giấy mời họp ĐHĐCĐ thường niên năm 2009, PV-Inconess ghi rõ: "Cổ đông phải sở hữu từ 100.000 cổ phần trở lên (tương đương 1 tỷ đồng mệnh giá) mới được tham dự ĐHĐCĐ. Các cổ đông sở hữu dưới 100.000 cổ phần phải làm giấy ủy quyền cho cổ đông khác để có đủ sở hữu từ 100.000 cổ phần trở lên tham dự" . Ngược lại, một số CTCP như Ngân hàng Sacombank và Quỹ Đầu tư VF1 cho phép các cổ đông tham gia ĐHĐCĐ nhưng Ban điều hành lại hạn chế quyền chất vấn của cổ đông dưới nhiều hình thức khác nhau, như hạn chế thời gian chất vấn, chất vấn bằng ghi câu hỏi ra giấy và gửi lên bàn chủ toạ hoặc gửi và được trả lời sau trên website của công ty… . Đây mới chỉ là một số trường hợp điển hình về việc các cổ đông lớn ngăn cản CĐTS thực hiện quyền tham dự, chất vấn và biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ. Các vi phạm này thường xảy ra chủ yếu đối với các công ty đại chúng hay công ty niêm yết bởi theo cách lý giải của họ, do số lượng cổ đông quá nhiều nên không có địa điểm phù hợp để tổ chức ĐHĐCĐ, vì vậy mới đặt ra điều kiện về tỷ lệ cổ phần được tham dự ĐHĐCĐ để giới hạn bớt số lượng CĐTS không cần thiết tham gia. Tuy nhiên cách giải thích đó là không thuyết phục, bởi lẽ việc đặt ra điều kiện tham dự ĐHĐCĐ như nêu trên đã vi phạm quy định của LDN, Quy chế quản trị công ty niêm yết về quyền của cổ đông, trực tiếp tước bỏ quyền tham dự, chất vấn và biểu quyết tại ĐHĐCĐ của CĐTS. Theo quy định của pháp luật Anh, quyền biểu quyết trước ĐHĐCĐ được xem là quyền tài sản và cổ đông được quyền bỏ phiếu để phục vụ cho lợi ích của riêng mình Nguyễn Thị Thuý Hằng, tlđd, tr. 27. . Do vậy, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của CĐTS ở Việt Nam, tác giả cho rằng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là UBCKNN phải tăng cường thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các CTCP và nghiêm khắc xử lý đối với những trường hợp vi phạm như nêu trên. Bên cạnh đó, cũng cần phải có những giải pháp hữu hiệu trong việc tạo điều kiện cho các CTCP có số lượng lớn cổ đông thuận lợi tiến hành ĐHĐCĐ, để tránh tình trạng các công ty này vi phạm do không có địa điểm họp phù hợp. Theo quy định hiện hành, việc tiến hành hợp ĐHĐCĐ như hiện nay thường bằng con đường trực tiếp tại hội trường, việc biểu quyết thông qua quyết định của ĐHĐCĐ có thể trực tiếp tại cuộc họp hoặc bằng văn bản. Tất cả những quy định này không thể giải quyết được bài toán về địa điểm họp để giúp các CTCP có số lượng lớn cổ đông tổ chức thành công ĐHĐCĐ hợp lệ. Do đó, tác giả cho rằng nên bổ sung vào quy định của LDN 2005 cách thức họp ĐHĐCĐ trực tiếp thông qua các thiết bị truyền thông. Mặc dù điều này là khó thực hiện đối với mặt bằng chung của các doanh nghiệp Việt Nam, do chi phí đầu tư để tiến hành một cuộc họp theo cách thức này là tương đối tốn kém. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh phát triển của đất nước trong thời gian tới, cùng với đại đa số các công ty đại chúng và công ty niêm yết có tiềm lực về tài chính ở Việt Nam hiện hay như FPT, CMC, VNM, HAG, ACB, SSI… hoàn toàn có đủ điều kiện để thực hiện cách thức họp trực tuyến này. Hiện nay trên thế giới, đặc biệt là hầu hết các quốc gia Châu Âu đã sử dụng biện pháp họp trực tuyến để tiến hành các cuộc họp của ĐHĐCĐ và ở Việt Nam, các cuộc họp của Chính phủ với các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương đã sử dụng rất thành công hình thức họp này . Vì vậy, nếu như pháp luật xây dựng một cơ chế tương tự như nêu trên đối với các CTCP thì rõ ràng đây cũng là một biện pháp hữu ích giúp các CTCP tiến hành họp ĐHĐCĐ với sự tôn trọng quyền lợi của các CĐTS nhiều hơn. Gửi thông báo mời hợp Đại hội đồng cổ đông kèm theo thư uỷ quyền đương nhiên cho Hội đồng quản trị Nhằm nhanh chóng thực hiện được cuộc họp ĐHĐCĐ, đồng thời cũng để tận dụng được quyền cổ đông của những CĐTS không đến dự ĐHĐCĐ, nhiều CTCP trong thông báo mời họp ĐHĐCĐ nêu rõ nếu cổ đông không đăng ký dự họp (theo mẫu giấy đăng ký dự họp gửi kèm thư mời) và cũng không có ủy quyền khác, thì coi như cổ đông đó ủy quyền biểu quyết tại ĐHCĐ cho HĐQT. Chẳng hạn như theo Thông báo triệu tập ĐHĐCĐ thường niên năm 2010 của Tổng CTCP Y tế DANAMECO ngày 12/04/2010 thì “đến thời hạn ngày 20/04/2010, nếu Quý cổ đông nào không đăng ký tham dự hoặc uỷ quyền tham dự Đại hội, thì mặc nhiên được hiểu là không thực hiện quyền cổ đông và HĐQT có toàn quyền quyết định đối với số cổ phần của cổ đông đó” . Cách thức uỷ quyền đường nhiên như nêu trên là vi phạm quy định của pháp luật và xâm hại tới quyền lợi của các CĐTS. Cả LDN 2005 và Bộ luật Dân sự 2005 đều không có quy định về trường hợp “đương nhiên ủy quyền”. Ủy quyền theo quy định của pháp luật phải là sự thỏa thuận của người ủy quyền và người được ủy quyền, theo đó bên ủy quyền phải chịu trách nhiệm về cam kết do bên được ủy quyền thực hiện trong phạm vi ủy quyền. Vậy, nếu trong trường hợp thành viên HĐQT đương nhiên được ủy quyền từ CĐTS và độc lập cam kết một vấn đề gì đó gây ra thiệt hại cho bên thứ ba hoặc cho công ty, thì CĐTS không dự họp có phải chịu trách nhiệm không? Rõ ràng có rất nhiều vấn đề cần đặt ra ở đây, cả dưới góc độ phù hợp với chế định pháp lý hiện hành về uỷ quyền và trách nhiệm phát sinh từ việc thực hiện các giao dịch, công việc trong phạm vi uỷ quyền. Nếu mặc nhiên ủy quyền biểu quyết cho HĐQT như cách thức nêu trên, thì sẽ vô tình vô hiệu hoá vai trò của ĐHĐCĐ. Vì thông thường, HĐQT quyết định như thế nào thì ĐHĐCĐ gần như sẽ theo như thế, từ đó gây thiệt hại đến quyền lợi của CĐTS. Bởi lẽ, cá nhân thành viên HĐQT mà thường là các cổ đông lớn được uỷ quyền sẽ biểu quyết có lợi cho chính họ, mà đó thường đồng thời là cổ đông lớn. Đó là chưa kể nhiều trường hợp HĐQT sẽ lợi dụng điều này để cố tình gửi thông báo mời họp không đến được CĐTS, nhằm chiếm đoạt luôn quyền tham dự và biểu quyết tại ĐHĐCĐ của họ. Hay chẳng hạn nếu có cổ đông phản đối các quyết định của công ty bằng cách thức không tham dự ĐHĐCĐ, thì trong trường hợp này HĐQT được uỷ quyền đương nhiên sẽ là điều vô cùng bất hợp lý và rõ ràng quyền lợi của CĐTS sẽ không được bảo vệ. Nhiều thông tin cho hay đây cũng là nội dung nằm trong Dự thảo Nghị định 139 (sửa đổi) hướng dẫn thi hành LDN 2005, đang được lấy ý kiến rộng rãi lần thứ tư . Nếu quy định này được thông qua thì đây sẽ là một “bước lùi” trong mục đích bảo vệ quyền lợi của CĐTS do vi phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của CĐTS và trái với quy định của LDN 2005. Tác giả cho rằng không nên đặt ra chế định “đương nhiên uỷ quyền” cho HĐQT trong trường hợp này, bởi lẽ các cổ đông lớn, thành viên HĐQT sẽ dễ dàng lợi dụng quy định này để xâm phạm quyền lợi của CĐTS. Đồng thời, việc uỷ quyền đương nhiên cho HĐQT cũng là không phù hợp với các quy định pháp lý hiện hành. Tuy nhiên, để đảm bảo cho việc tiến hành cuộc họp ĐHĐCĐ một cách hiệu quả, pháp luật nên quy định việc ủy quyền đương nhiên cho cổ đông đại diện của nhóm cổ đông bắt buộc. Nghĩa là trong CTCP nên yêu cầu các CĐTS tập hợp lại thành nhóm cổ đông và cử ra người đại diện cho nhóm, sau đó đăng ký với công ty. Trong mọi trường hợp, nếu CĐTS không thể trực tiếp tham dự ĐHĐCĐ thì được hiểu là CĐTS này uỷ quyền đương nhiên cho người đại diện của nhóm cổ đông mà họ tham gia. Chắc chắn cơ chế này sẽ đảm bảo quyền lợi cho CĐTS hơn rất nhiều, bởi lẽ việc CĐTS tham gia nhóm cổ đông là vì họ có chung mục đích, quan điểm với những CĐTS khác trong nhóm cổ đông. Do vậy, việc CĐTS hay người đại diện của họ tham dự ĐHĐCĐ sẽ có ý nghĩa không khác nhau nhiều. Điều này chắc chắn sẽ khắc phục được tình trạng HĐQT lạm quyền chiếm đoạt quyền tham dự ĐHĐCĐ của CĐTS như nêu trên, đồng thời đảm bảo được quyền lợi cho CĐTS một cách tốt hơn. Tuy nhiên, trước tiên là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là UBCKNN cần phải nghiêm khắc xử lý các vi phạm về việc gửi thông báo mời hợp ĐHĐCĐ kèm theo giấy uỷ quyền đương nhiên như những trường hợp đã đề cập ở trên, để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho CĐTS. Cổ đông lớn thông qua Hội đồng quản trị chi phối công ty HĐQT là cơ quan thường trực, thay mặt ĐHĐCĐ và đại diện cho cổ đông công ty thực hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Thành viên HĐQT đại đa số hoặc hầu hết là cổ đông lớn hoặc đại diện của cổ đông lớn, chính vì vậy các cổ đông lớn thường xuyên biết cách sử dụng quyền lực và sức mạnh của HĐQT để chi phối tới ĐHĐCĐ và BKS để thao túng, chi phối mọi hoạt động của CTCP, nhằm mục địch trục lợi cho riêng mình. Do vậy, khi đề cập đến việc HĐQT chi phối ĐHĐCĐ và BKS cũng đồng nghĩa với việc cổ đông lớn của công ty chi phối tới các cơ quan này. Hội đồng quản trị chi phối Đại hội đồng cổ đông Theo quy định của pháp luật, ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao nhất trong CTCP. Nhưng trên thực tế hiện nay, vai trò của ĐHĐCĐ trong các CTCP - nơi để các CĐTS có thể thực hiện quyền cổ đông của mình lại thường bị mờ nhạt bởi vai trò nổi bật và sự chi phối của HĐQT. Điều đó, đã dẫn đến nhiều quyết định của ĐHĐCĐ chỉ mang tính phụ hoạ hoặc hợp thức hoá cho đề xuất, quyết định của HĐQT - cơ quan đại diện chủ yếu và phần lớn cho quyền lợi của các cổ đông lớn. Chẳng hạn đầu năm 2010, CTCP Đầu tư - Kinh doanh nhà Thành phố Hồ Chí Minh (ITC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6. Nội dung Khoá luận Bao ve co dong thieu so - Final.doc
  • doc1. Trang bìa cứng in nhũ da.doc
  • doc2. Trang phụ bìa khoá luận.doc
  • doc3. Lời cam đoan.doc
  • doc4. Danh mục những từ viết tắt.doc
  • doc5. Mục lục.doc
  • doc7. Danh mục tài liệu tham khảo.doc
  • docThuyết minh Khoá luận tốt nghiệp.doc