MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 3
3. Đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát 4
4. Phạm vi nghiên cứu, khảo sát 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
- Nhóm các phương pháp lý thuyết: 4
- Nhóm các phương pháp thực tiễn: 4
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài 4
a. Ý nghĩa khoa học: 5
b. Giá trị thực tiễn: 5
7. Kết cấu của Khóa luận 6
Chương 1: VAI TRÒ CÁC CHƯƠNG TRÌNH THỜI SỰ TRỰC TIẾP TRONG HOẠT ĐỘNG PHÁT THANH HIỆN ĐẠI 7
1.1. Phát thanh truyền thống và phát thanh trực tiếp 7
1.2. Các đặc điểm, quy trình sản xuất chương trình phát thanh và phát thanh trực tiếp. 8
• Khái niệm: 8
a. Phát thanh ghi âm: 10
b. Phát thanh trực tiếp: 10
1.3. Các loại chương trình phát thanh trực tiếp 11
1.4. Vai trò của chương trình thời sự trực tiếp trên sóng phát thanh hệ VOV1 - Đài TNVN 12
a. Thông tin được thực hiện diễn ra đồng thời với sự kiện. 13
b. Thông tin có tính chất hai chiều giao lưu, trao đổi với thính giả. 14
c. Chương trình phát thanh trực tiếp rất sinh động, hấp dẫn. 15
Chương 2: KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG THIẾT KẾ VÀ DÀN DỰNG CHƯƠNG TRÌNH THỜI SỰ TRỰC TIẾP – ĐÀI TNVN 17
2.1. Các nguyên tắc thiết kế và dàn dựng một chương trình trực tiếp trên sóng phát thanh 17
2.2. Hoạt động thiết kế chi tiết chương trình thời sự trực tiếp trên Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp (VOV1) - Đài Tiếng nói Việt Nam thời gian qua. 20
a. Bố trí nhân sự 20
b. Nguyên liệu đầu vào 21
Đạo diễn 21
Biên tập chương trình 22
Kỹ thuật viên 22
Phát thanh viên 22
Người dẫn chương trình 22
Một số lưu ý với người dẫn : 25
2.3. Công tác dàn dựng và sản xuất chương trình thời sự trực tiếp trên hệ VOV1 - Đài Tiếng nói Việt Nam 26
a. Xét trên khía cạnh chủ quan. 26
b. Về các yếu tố khách quan. 27
2.4. Bước đầu đánh giá hiệu quả hoạt động thiết kế và dàn dựng chương trình thời sự trực tiếp hệ VOV1 - Đài TNVN 28
a. Thông tin được thực hiện diễn ra đồng thời với sự kiện. 28
b. Thông tin có tính chất hai chiều giao lưu, trao đổi với thính giả. 29
c. Chương trình phát thanh trực tiếp sinh động và hấp dẫn. 31
d. Khả năng cập nhật tin tức hầu như không có giới hạn. 31
Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG THIẾT KẾ VÀ DÀN DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TRỰC TIẾP TRÊN HỆ VOV1 – ĐÀI TNVN 35
3.1. Tư duy tổ chức sản xuất, biên tập và đạo diễn chương trình phát thanh. 35
a. Chuẩn bị đề cương kịch bản. 35
- Khách mời: 36
- Phẩm chất và năng lực của người làm chương trình: 37
3.2. Tri thức nghề làm báo phát thanh 37
a. Quan điểm chính trị. 37
b. Nghiệp vụ phát thanh. 39
3.3. Khả năng kiểm soát tình huống trong phát thanh trực tiếp - một số kinh nghiệm thực tiễn 45
3.4. Một số đề xuất về mô hình thiết kế và dàn dựng chương trình thời sự trực tiếp hệ VOV1 - Đài Tiếng nói Việt Nam trong tương lai 47
a. Có chức danh "phụ trách nội dung" 47
b. Chức danh "đạo diễn chương trình" 47
c. Tổ chức giao ban, trao đổi theo nhiều cấp. 47
KẾT LUẬN 49
53 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Bước đầu khảo sát hoạt động thiết kế và dàn dựng chương trình Thời sự trực tiếp trên hệ Thời sự Chính trị VOV1 - Đài Tiếng nói Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở tham khảo một số tài liệu, khảo sát thực tế và qua ý kiến của một số phóng viên, biên tập viên đã tham gia làm các chương trình trực tiếp, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét về các đặc điểm cơ bản của Phát thanh trực tiếp như sau:
Công chúng tiếp nhận chương trình đồng thời với sự kiện xảy ra. Nói cách khác, thông tin được chuyển đến thính giả đồng thời với sự kiện.
Đây có thể coi là đặc điểm quan trọng nhất, vì vậy yếu tố "ngay bây giờ, lúc này..." trở nên quan trọng hơn bất cứ yếu tố nào khác như "vừa mới đây, đã...". Đó là những yếu tố rút ngắn khoảng cách thời gian giữa sự kiện - các phóng viên - công chúng. Đây cũng là đặc điểm nổ bật để phân biệt giữa chương trình phát thanh trực tiếp với các chương trình được "đọc thẳng" hoặc các chương trình được dàn dựng trước tại studio rồi phát băng. Cái cốt lõi nhất của chương trình phát thanh trực tiếp có thể được coi là phóng viên, cộng tác viên - người đưa tin, đang có mặt tại hiện trường hoặc là người trong cuộc đang có mặt trực tiếp tại studio. Tiếng nói của người trong cuộc hoặc người đang có mặt gtrực tiếp tại hiện trường sẽ làm tăng độ tin cậy của thông tin và chúng ta có thể nhận thấy điều này trong các chương trình tường thuật trực tiếp các sự kiện quan trọng hoặc sự kiện có tính hấp dẫn đặc biệt như các buổi tường thuật phiên trả lời chất vấn của Quốc hội, ngày kỷ niệm Quốc khánh, các giải đấu thể thao hay sự kiện văn hoá - xã hội đang thu hút sự quan tâm của công chúng.... Dù là sự kiện nào thì người nghe cũng dễ dàng nhận thấy đó là những thông tin được chuyển thẳng từ nơi đang diễn ra sự kiện qua làn sóng phát thanh và có thể cảm nhận không khí sôi động của sự kiện.
Có thể lấy ví dụ: Trong buổi tường thuật trực tiếp phiên trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội với các thành viên Chính phủ (kỳ họp cuối cùng - Quốc hội khoá 11) về khung giá đất và vấn giá đền bù, giải toả đất đai cho các công trình trọng điểm của đất nước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Đất đai là một trong những vấn đề cán bộ lãnh đạo còn nhiều vướng mắc. Đất đai phải có giá đó chính là hàng hóa, nhưng là hàng hóa đặc biệt vì biết bao hi sinh xương máu mới giành được, “một tấc non sông, một dòng máu đỏ”.... Nếu chỉ đơn giản là làm tin và trích dẫn lời Thủ tướng, người nghe (hoặc xem) tin đó sẽ không thể ấn tượng bằng được nghe chính Thủ tướng nói điều đó. Và trên thực tế, ý kiến phản hồi về Đài Tiếng nói Việt Nam cho thấy: Thính giả rất thích cách đặt vấn đề của Thủ tướng như vậy. Chỉ có hiểu đất đai sâu nặng như thế mới tìm ra cách giải quyết thấu lý đạt tình, tính biện chứng giữa người sử dụng với chủ sở hữu là nhà nước mới có cơ sở.
Dưới đây là thống kê về tình hình thính giả, để bổ sung cho những nhận định về tính hiệu quả và hấp dẫn của Hệ Thời sự - Chính trị Tổng hợp mà các Bản tin tổng hợp và các Chương trình Thời sự là phần cốt lõi.
Bảng 1- Tình hình đối tượng nghe đài
Nghề nghiệp
Tỷ lệ (%)
Nông dân
17,9 %
Công nhân
7,0 %
Cán bộ công chức
21,4 %
Học sinh sinh viên
30,4 %
Nghỉ hưu
8,0 %
Nghề tự do
8,6 %
Đối tượng khác
6,7 %
Bảng 2 - Trình độ học vấn người nghe đài
Trình độ
Tỷ lệ (%)
Tiểu học
4,2%
Trung học cơ sở
15,8%
Phổ thông trung học
27,5%
Trung cấp
15,2%
Cao đẳng
7,2%
Đại học
29,3%
Trên đại học
0,9%
Bảng 3 - Giới tính
Giới tính
Tỷ lệ (%)
Nam
60,6%
Nữ
39,4%
Bảng 4 - Tần suất nghe Đài
Tấn suất nghe
Tỷ lệ (%)
Nghe hàng ngày
32,4%
Nghe vài lần một tuần
25,1%
Không nghe, hoặc ít nghe
14,5%
2.2. Hoạt động thiết kế chi tiết chương trình thời sự trực tiếp trên Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp (VOV1) - Đài Tiếng nói Việt Nam thời gian qua.
a. Bố trí nhân sự
Hiện nay, việc bố trí nhân sự thực hiện các chương trình Thời sự của Ban Thời sự được chia theo các ca theo từng múi thời gian trong 1 ngày với chức năng sản xuất các sản phẩm lên sóng theo từng khoảng thời gian đó.
- Ca ngày: Gồm các biên tập viên biên tập, dàn dựng chương trình Thời sự 12 giờ; chương trình Thời sự 18 giờ và các bản tin Tổng hợp 9 giờ và 15 giờ.
- Ca tối: Gồm các biên tập viên biên tập, dàn dựng chương trình Thời sự 21 giờ 30 và bản tin Tổng hợp 23 giờ.
- Ca đêm: Gồm các biên tập viên biên tập, dàn dựng chương trình Thời sự 6 giờ sáng (hôm sau) và bản tin tổng hợp 5 giờ 05 sáng (hôm sau)
Như vậy, trong 1 ngày, bộ phận sản xuất Bản tin và Chương trình Thời sự (thuộc biên chế Phòng chương trình - Ban Thời sự) cần ít nhất 5 biên tập viên trực tiếp tham gia sản xuất và quá trình sản xuất diễn ra liên tục suốt ngày đêm với tổng thời lượng 155 phút phát sóng (của các chương trình Thời sự trực tiếp và các bản tin Tổng hợp trực tiếp). Phối hợp làm việc trực tiếp với các biên tập viên là các phát thanh viên do Phòng phát thanh viên - Ban thư ký Biên tập bố trí và các kỹ thuật viên do Trung tâm âm thanh bố trí.
b. Nguyên liệu đầu vào
Nguyên liệu đầu vào của các Bản tin là tin, nguyên liệu đầu vào của các Chương trình Thời sự là tin, bài (các thể loại) và các chuyên mục.
- Nguồn tin trong nước và thế giới lấy từ Trung tâm tin, các cơ quan thường trú của Đài Tiếng nói Việt Nam ở trong nước và nước ngoài; tin khai thác từ mạng Internet, từ thông tấn xã Việt Nam; tin do các phóng viên của Ban Thời sự, các Ban biên tập trong khác và các cộng tác viên từ các nơi gửi về. Biên tập viên thực hiện chương trình có trách nhiệm bố trí bài, chuyên mục được thực hiện theo chỉ đạo của các cấp lãnh đạo và căn cứ vào thời lượng các sản phẩm này để biên tập phần tin cho phù hợp tổng thời lượng chương trình.
Trong quá trình thực hiện các chương trình Thời sự trực tiếp, sự phối hợp giữa các thành viên trong kíp làm việc có tầm quan trọng đặc biệt với một nguyên tắc, ý thức kỷ luật cao nhất.
Qua khảo sát thực tế, có thể thấy vai trò của các thành viên trong một kíp làm việc để thực hiện một chương trình Thời sự trực tiếp như sau:
Đạo diễn
- Là người chịu trách nhiệm chính, tổ chức thực hiện chương trình
- Đề xuất các đề tài, kế hoạch tuyên truyền, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên trong nhóm.
- Duyệt tin bài và chương trình. Có mặt tại phòng thu và phòng phát sóng trực tiếp để chỉ đạo chương trình, cùng với người dẫn chương trình xử lý các sự cố.
Biên tập chương trình
- Trên cơ sở các tin, bài và ý đồ tuyên truyền, biên tập viên phải sắp xếp các tin bài vào từng phần, từng chuyên mục cụ thể. BTV sẽ cắt gọt những phần quá dài dòng hoặc đề nghị phóng viên viết bổ sung thêm những thông tin khác. Đảm bảo phần nội dung của chương trình phù hợp với thời lượng
Kỹ thuật viên
- Đảm bảo về mặt âm lượng đều và tốt
- Thực hiện các thao tác kỹ thuật theo ý đồ đạo diễn
- Nhanh nhạy phối hợp xử lý các tình huống bất ngờ có thể xảy ra
Phát thanh viên
- Là người sử dụng giọng đọc của mình để thể hiện các tin,bài đã được duyệt trên sóng. Phát thanh viên cũng phải tuân thủ ý đồ của đạo diễn trong chương trình phát sóng và phối hợp tốt với người dẫn chương trình, kỹ thuật viên
Người dẫn chương trình
- Dẫn chương trình là khâu cuối cùng trong dây chuyền sản xuất chương trình phát thanh, do đó Người dẫn chương đóng vai trò dẫn dắt, liên kết các phần khác nhau thành một tổng thể hoàn chỉnh khi phát sóng đồng thời họ là người hướng dẫn bạn nghe đài nghe các nội dung chương trình
Mục đích của việc dẫn chương trình:
+ Tăng tính hấp dẫn cho chương trình
+ Tạo sự liên kết chặt chẽ trong một chương trình và các chương trình phát thanh khác nhau.
+ Tạo sự sinh động trong 1 chương trình.
+ Tạo bản sắc riêng cho từng chương trình hoặc cụm chương trình.
Các hình thức dẫn chương trình
+ Dẫn chương trình tin tức (Thời sự)
+ Dẫn cụm chương trình, hệ phát thanh.
+ Dẫn cầu phát thanh.
+ Dẫn chương trình phát thanh đặc biệt (như chương trình đón năm mới, chương trình kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị quan trọng) trong đó có nhiều cầu phát thanh, nhiều tin bài, phỏng vấn, phóng sự khác nhau.
+ Dẫn toạ đàm trực tiếp (từ 2 khách mời trở lên)
Yêu cầu với người dẫn chương trình
+ Có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiến thức sâu rộng, am hiểu nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Ngôn từ phong phú, khả năng ứng khẩu nhanh.
+ Có giọng nói truyền cảm , biết cách xử lý văn bản.
+ Có sức khoẻ tốt.
- Hiểu biết về tâm lý, thói quen của các đối tác trong kíp làm việc.
Công việc của người dẫn chương trình
Là khâu cuối cùng trong dây chuyền sản xuất phát thanh nên người dẫn phải đảm nhận những công việc sau:
+ Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của người đạo diễn chương trình (thông thường là người lãnh đạo) về tuyên truyền trong từng ngày, từng thời gian cụ thể, bám sát "thời tiết" chính trị - xã hội của đất nước và quốc tế. Trong quá trình thực hiện chương trình phải thường xuyên trao đổi với lãnh đạo về việc dẫn dắt theo hướng nào, như thế nào cho đạt hiệu quả.
+ Tiếp nhận các sản phẩm: tin, bài, chương trình, phỏng vấn, nội dung toạ đàm.... để viết lời dẫn.
+ Bàn bạc, thống nhất với đạo diễn, kỹ thuật viên về sử dụng âm nhạc, tiếng động nền.
Hiện nay, ở Ban Thời sự Đài Tiếng nói Việt Nam, người dẫn chương trình đảm đương luôn nhiệm vụ là biên tập chương trình. Vì vậy tạo lợi thế cho người dẫn trong việc viết lời dẫn, ráp nối các nội dung bởi họ hiểu rõ và biên tập theo ý đồ của mình. Tuy vậy do cùng làm cả hai công việc nên nhiều lúc tin bài về quá nhiều, liên tục phải xử lý khiến người dẫn ít có thời gian trau chuốt lời dẫn. Khi viết lời dẫn, nguyên tắc là phải sử dụng những câu ngắn gọn, dễ hiểu, ngôn từ phải đại chúng. Độ dài của lời dẫn thường vào khoảng 25 đến 30 giây (tức là khoảng 80 đến 90 từ). Tránh tình trạng viết lời dẫn quá dài, đôi khi dài bằng độ dài của tin. Lời dẫn có vai trò gợi mở vấn đề, tạo ra sự chú ý của thính giả với các nội dung. Nói một cách nôm na, người dẫn như chủ nhà giới thiệu với thính giả là những người chưa biết ở bên trong nhà có gì, những cái hay, cái đẹp của căn nhà mình..
Người dẫn cũng có trách nhiệm phối hợp với đạo diễn chỉ huy và kiểm soát tình hình trong phòng thu. Xử lý các tình huống xảy ra như các trục trặc, các tình huống mới phát sinh. Đặc biệt chú ý tới kiểm soát thời gian của chương trình để không để kết thúc sớm quá (non chương trình) hoặc kết thúc quá muộn (già chương trình). Đây chính là việc rất quan trọng bởi liên quan trực tiếp tới việc xử lý tin, bài: cần phải cắt ngắn hay phải bổ sung thêm cho phù hợp với tình hình thực tế.
Một số lưu ý với người dẫn :
+ Người dẫn phải có mặt tại phòng phát thanh trực tiếp hoặc phòng thu trước giờ phát sóng ít nhất 15 phút; Kiểm tra, lập danh sách các băng âm thanh trong chương trình và xác nhận chất lượng, số lượng các băng âm thanh.
+ Làm trực tiếp phải có các phương án dự phòng trong trường hợp có trục trặc xảy ra.
+ Thông báo cho Kỹ thuật viên và Phát thanh viên về diễn tiến của chương trình.
+ Phối hợp với kỹ thuật kiểm tra micrô, tín hiệu điện thoại ( nếu làm cầu phát thanh), bố trí chỗ ngồi cho khách mời....
+ Bảo đảm sự có mặt tham gia của khách mời (nếu có) vào phút cuối và thống nhất lại với khách mời các tình huống, câu hỏi có thể phát sinh.
Hiện nay, ở một số Đài Phát thanh - Truyền hình địa phương và cả ở một số Ban Biên tập của Đài Tiếng nói Việt Nam hiện nay, người làm chương trình phát thanh đảm đương một lúc nhiều việc: Phóng viên, Biên tập viên, Kỹ thuật viên, Phát thanh viên.... Điều này giúp người làm chương trình chủ động và kiểm soát được tình hình dễ dàng nhưng nhưng cái không có lợi là sẽ có rất ít thời gian để làm tốt một khâu nào đó trong sản xuất chương trình.
2.3. Công tác dàn dựng và sản xuất chương trình thời sự trực tiếp trên hệ VOV1 - Đài Tiếng nói Việt Nam
Ngay từ năm 1946, trong điều kiện còn tất nhiều khó khăn, Đài Tiếng nói Việt Nam đã tường thuật trực tiếp thành công Lễ đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đi dự Hội nghị Fontainebleau trở về (21/10/1946) tại Hải Phòng và trên suốt tuyến đường Người về Hà Nội. Từ hàng chục năm nay, các buổi tường thuật bóng đá của Đài Tiếng nói Việt Nam đã được hàng triệu thính giả yêu thể thao chờ đón..... Có thể nói, Phát thanh trực tiếp đã được sử dụng trên làn sóng Tiếng nói Việt Nam từ rất sớm và đang tiếp tục phát triển - dù không ít chương trình vẫn nặng về "đọc văn bản" trực tiếp. Trong thời gian gần đây, các chương trình Thời sự của Đài Tiếng nói Việt Nam cũng nhận được nhiều phản hồi tích cực từ phía thính giả trong và ngoài nước, đồng thời với nhiều đóng góp ý kiến để nâng cao hơn nữa chất lượng các chương trình và hiệu quả tuyên truyền qua sóng phát thanh.
Việc thực hiện các chương trình phát thanh trực tiếp nói chung và chương trình Thời sự trực tiếp nói riêng và quyết tâm đổi mới nội dung, hình thức thể hiện chương trình đã tạo ra một bước chuyển trong tác phong làm việc của đội ngũ phóng viên, biên tập viên và những người dẫn chương trình trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam, từng bước đáp ứng yêu cầu của bạn yêu Đài trong cả nước và trên khắp thế giới.
a. Xét trên khía cạnh chủ quan.
- Tính đến thời điểm này, đội ngũ biên tập viên/dẫn chương trình và cả đạo diễn chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam nói riêng và ngành phát thanh cả nước nói chung vẫn chưa thực sự chuyên nghiệp. Vẫn chưa có những người dẫn chương trình nổi tiếng, chuyên dẫn các chương trình phát thanh trực tiếp mà chủ yếu vẫn sử dụng biên tập viên kiêm nhiệm để dẫn các chương trình phát thanh. Điều này có thể thuận lợi trong giai đoạn hiện nay do các biên tập viên có thể chủ động hoàn toàn với chương trình của mình nhưng có lẽ, sẽ không còn còn là ưu điểm khi ngành phát thanh hướng tới mục tiêu chuyên môn hoá cao, nhằm đạt hiệu quả lao động tốt nhất.
b. Về các yếu tố khách quan.
- Trên thực tế, thính giả là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên tính hấp dẫn của các chương trình phát thanh trực tiếp. Thính giả vừa là người thụ hưởng, vừa đóng góp cho chương trình. Nhưng trên thực tế, lượng thính giả hội đủ các yếu tố cần thiết để tham gia và có những đóng góp có giá trị cho các chương trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam vẫn còn quá ít. Khảo sát cho thấy, thính giả tham gia nhiều nhất vào các chương trình phát thanh trực tiếp mang tính giải trí (tập trung vào các chương trình trên hệ VOV 3 - Hệ Tin tức - Ca nhạc - Quảng cáo). Trên hệ VOV 1 - Hệ Thời sự - Chính trị, chỉ có một vài chương trình trực tiếp thu hút được sự quan tâm và tham gia của thính giả, nhưng cũng chỉ là những chương trình mang tính "Magazin" (như chương trình Bạn hãy nói với chúng tôi, chương trình ca nhạc theo thư yêu cầu, chương trình Diễn đàn tuổi trẻ… và một vài chương trình khác). Riêng đối với chương trình Thời sự, mặc dù được thực hiện trực tiếp toàn bộ nhưng hầu như không có sự tham gia của thính giả.
- Hệ thống thiết bị đang được sử dụng ở Ban Thời sự, Đài Tiếng nói Việt Nam nói riêng và cả ngành phát thanh nước ta nói chung vẫn chưa đáp ứng được tất cả yêu cầu để có một chương trình phát thanh trực tiếp hấp dẫn và an toàn. Đường truyền chất lượng cao (tín hiệu vệ tinh) vẫn phải thuê của nước ngoài với giá đắt, mạng điện thoại băng thông hẹp và không ổn định…. cũng là những yếu tố hạn chế sự sáng tạo và khả năng chuyên môn của đạo diễn và người dẫn chương trình.
2.4. Bước đầu đánh giá hiệu quả hoạt động thiết kế và dàn dựng chương trình thời sự trực tiếp hệ VOV1 - Đài TNVN
Khoảng 10 năm trở lại đây, việc ứng dụng công nghệ phát thanh trực tiếp đã và đang góp phần tích cực vào nâng cao chất lượng thông tin trên làn sóng Đài Tiếng nóiViệt Nam. Công nghệ mới này đang tỏ rõ sức hấp dẫn của nó với công chúng và cuốn hút cán bộ, phóng viên, biên tập viên Đài Tiếng nói Việt Nam vào một phong cách lamg việc mới. Không chỉ riêng với đài Tiếng nói Việt Nam mà đối với tất cả các đài phát thanh, chương trình phát thanh trực tiếp hấp dẫn hơn nhiều các chương trình phát thanh ghi âm, bởi chương trình phát thanh trực tiếp tạo cho người nghe cảm giác đang được nghe những thông tin mới nhất, được trực tiếp trò chuyện với những người làm chương trình.
+ Phát thanh trực tiếp sử dụng kỹ thuật tiên tiến làm cho chất lượng âm thanh hiệu quả nhất.
+ Phát thanh trực tiếp sử dụng kỹ thuật biên tập hiện đại, vì vậy thông tin đến với thính giả thường ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề.
+ Phát thanh trực tiếp huy động sức mạnh tập thể cao nhất trong kíp làm chương trình, do vậy làm tăng chất lượng chương trình.
Từ thực tế công việc, và khảo sát, chúng tôi thấy chương trình phát thanh trực tiếp của Ban Thời sự Đài Tiếng nói Việt Nam đã thể hiện được:
a. Thông tin được thực hiện diễn ra đồng thời với sự kiện.
Các chương trình phát thanh trực tiếp của Ban Thời sự Đài Tiếng nói Việt Nam đã thực hiện được điều này thông qua hình thức cầu phát thanh trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại, phản ánh qua điện thoại... Đặc trưng này được thể hiện rõ nhất qua hình thức kết hợp giữa phát thanh trực tiếp trong studio và phát thanh trực tiếp tại hiện trường.
Khi có một sự kiện xảy ra ở một nơi nào đó, Ban Thời sự Đài Tiếng nói Việt Nam đã cử phóng viên đến tận hiện trường, hoặc liên hệ với các cộng tác viên tại địa phương, hoặc với một người có trách nhiệm nào đó tại địa phương để khai thác thông tin thông qua cầu phát thanh trực tiếp, điện thoại trực tiếp hoặc phỏng vấn trực tiếp.
Ví dụ: Các chương trình phát thanh tường thuật trực tiếp các sự kiện Thời sự, chính trị lớn của đất nước: Kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn; Phiên khai mạc, bế mạc các kỳ họp Quốc hội; Tường thuật trực tiếp lễ mít tinh kỷ niệm chủ tịch Hồ Chí Minh tại Tuyên Quang; Phản ánh trực tiếp của phóng viên từ hiện trường cơn lốc xoáy gây nhiều thiệt hại tại tỉnh Quảng Nam....
Như vậy, thông qua phát thanh trực tiếp, người nghe như được tham dự vào các sự kiện đang diễn ra ở những nơi rất xa và như vậy, phát thanh trực tiếp đã rút ngắn không gian, thời gian và khoảng cách, tạo ra sự gần gũi, trung thực của thông tin.
b. Thông tin có tính chất hai chiều giao lưu, trao đổi với thính giả.
Nếu như trong các chương trình phát thanh thu sẵn, thính giả nghe chương trình một cách thụ động, thì khi thực hiện phát thanh trực tiếp thính giả nghe chương trình một cách chủ động hơn. Tính chủ động được thể hiện ở chỗ: Người làm chương trình có thể đáp ứng yêu cầu tức thì của người nghe. Với các phương tiện kỹ thuật đơn giản là điện thoại, dù ở bất cứ đâu người nghe có thể gọi điện tới phòng phát thanh trực tiếp, yêu cầu người đang thực hiện chương trình đáp ứng nhu cầu của mình. Chính điều này tạo ra luồng thông tin hai chiều giúp người làm chương trình không chỉ đáp ứng được tức thì yêu cầu của người nghe mà còn nắm được nhu cầu của người nghe để điều chỉnh thông tin hoặc điều chỉnh chương trình. Thông qua đây, người làm chương trình cũng biết được vấn đề mình đang trình bày, đang thực hiện thu hút được sự chú ý của thính giả như thế nào?
Ví dụ: Trong chương trình Thời sự chiều ngày 04/9/2005, đạo diễn đã mời thính giả quan tâm đến vấn đề sách giáo khoa cho học sinh tham gia chương trình bằng cách đạt câu hỏi cho đại diện Ban soạn thảo sách giao khoa lớp 1 (Bộ Giáo dục và Đào tạo). Khi thiết kế chương trình này, đạo diễn và biên tập viên chương trình muốn tạo ra một diễn đàn trước thời điểm năm học mới bắt đầu để đại diện Ban soạn thảo sách giao khoa giải đáp thêm những vấn đề thính giả quan tâm. Qua đối thoại trực tiếp giữa thính giả và khách mời, thông tin được chuyển trực tiếp đến thính giả và nếu người nghe chưa thoả mãn, có thể đặt câu hỏi tiếp theo.... Với cách làm chương trình như thế, độ tin cậy của thông tin với thính giả rất cao.
Trên Hệ Thời sự - Chính trị Tổng hợp của Đài Tiếng nói Việt Nam hiện nay, chương trình thể hiện rõ nhất thông tin hai chiều này là các chương trình "Khách mời trực tiếp" do các Ban Kinh tế, Thời sự và Văn hoá - xã hội đảm trách. Trong chương trình này, thình giả có thể trực tiếp tham gia vào chương trình thông qua số máy điện thoại được quảng bá trước và được thông báo trong phần dẫn chương trình. Có chương trình phát thanh trực tiếp, những câu hỏi của thính giả đã gợi mở để BTV chuyển chủ đề của cuộc tọa đàm trực tiếp, tạo cho chương trình phát thanh những sắc thái mới.…. Sự trao đổi, giao lưu hai chiều đã giúp cho thính giả đến với phát thanh nhiều hơn, và họ cảm thấy được trân trọng mỗi khi được đáp ứng những thông tin theo nhu cầu của họ.
c. Chương trình phát thanh trực tiếp sinh động và hấp dẫn.
Qua phân tích các ví dụ ở trên, chúng ta thấy được phần nào sự hấp dẫn, sinh động của chương trình phát thanh trực tiếp. Chương trình phát thanh trực tiếp thường có tiết tấu nhanh, có nhiều tiếng động, đặc biệt là tiếng động của phóng viên, tiếng động từ hiện trường... Sự tranh luận giữa người dẫn chương trình và các vị khách, lời nói của thính giả qua điện thoại... đã tạo cho chương trình phát thanh trực tiếp không khí sôi động, cuốn hút thính giả.
d. Khả năng cập nhật tin tức hầu như không có giới hạn.
Khi thực hiện phát thanh trực tiếp, khả năng cập nhật tin tức trong các chương trình và các bản tin là hầu như không có giới hạn.
Có thể lấy một ví dụ điển hình: Hơn 22 giờ ngày 26/12/2006 Trung tâm cảnh báo sóng thần Việt Nam đưa ra lời cảnh báo sóng thần có thể ảnh hưởng đến các tỉnh miền Trung nước ta, mặc dù lúc đó đã kết thúc chương trình Thời sự đêm và Hệ Thời sự Chính trị Tổng hợp đang phát chương trình ca nhạc, biên tập viên trực vẫn yêu cầu dừng chương trình ca nhạc để đọc trực tiếp bản tin cảnh báo sóng thần, sau đó mời thính giả nghe tiếp chương trình thường lệ. Thực tế cho thấy, với hệ thống thiết bị kỹ thuật số như Đài Tiếng nói Việt Nam đang sử dụng, bất cứ khi nào có tin quan trọng đều có thể tạm dừng chương trình đang phát để đưa thông tin mới mà không ảnh hưởng đến kết cấu khung chương trình và thời gian báo giờ thường lệ.
Tóm lại: Với việc thực hiện các chương trình phát thanh trực tiếp với những đặc thù của nó, tác phong làm việc của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp một thời đang từng bước được đẩy lùi để thay vào đó là là phong cách làm phát thanh hiện đại. Mặc dù vẫn còn khá nhiều vấn đề nảy sinh nhưng với quyết tâm vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, đội ngũ cán bộ, phóng viên biên tập viên Đài Tiếng nói Việt Nam đã có những bước trưởng thành nhiều mặt trong chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời từng bước khắc phục những nhược điểm, hạn chế để ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng các chương trình phát thanh
Một cuộc khảo sát mới được tổ chức về chất lượng, sự hấp dẫn của chương trình Thời sự của Đài Tiếng nói Việt Nam đối với các cán bộ quản lý báo chí, các chuyên gia đào tạo báo chí và các sinh viên báo chí cho kết quả như sau:
Đánh giá về chất lượng nội dung chương trình Thời sự dưới góc độ thính giả
HAY
KHÔNG HAY
THÔNG TIN CŨ
TIN DÀI
TIN ĐỦ Ý
LỄ TÂN NHIỀU
TRÌNH BÀY KÉM
56,8%
8,5%
34,7%
86,7%
58,9%
77%
13,3%
Đánh giá về chất lượng nội dung chương trình Thời sự dưới góc độ chuyên gia
ĐỐI TƯỢNG
GIẢI QUYẾT V.ĐỀ
CHƯA GIẢI QUYẾT V.ĐỀ
C.TRÌNH HAY
C.TRÌNH CHƯA HAY
Quản lý báo chí
51,2%
48,8%
76,9%
23,1%
Các nhà đào tạo
61%
49%
59,8%
41,2%
Sinh viên báo chí
43,7%
56,3%
76,1%
23,9%
Một số nhận xét của các chuyên gia trong lĩnh vực văn hoá thông tin và ngành báo chí về các chương trình Thời sự hiện nay trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam.
- Phó GS. Tiến sỹ Tạ Ngọc Tấn - Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền: "Các chương trình Thời sự của Đài Tiếng nói Việt Nam đã có tính phát hiện vấn đề, nhưng cần thường xuyên hơn, hấp dẫn hơn. Chương trình sử dụng những bài bình luận ngắn khiến tăng độ hấp dẫn; số lượng tin nhiều nhưng còn thiếu tin bình; cần lưu ý các thể loại bài có tác dụng định hướng nhận thức nhiều hơn".
- Phó GS. Tiến sỹ Đào Duy Quát - Phó Ban tư tưởng Văn hoá Trung ương: "Chương trình đã có sự đổi mới; độ dài của tin hợp lý hơn; có những cụm tin ngắn, tin vắn làm tăng nhịp điệu của chương trình; Các bài bình luận ngắn hoặc phỏng vấn nhanh tốt, đáp ứng yêu cầu thời sự".
- ThS. Báo chí Vũ Thuý Bình - Học viện Báo chí và Tuyên truyền: "Tôi thích cách kết cấu bản tin khái quát được các vấn đề bức xúc trong ngày. Các Chương trình Thời sự có tính phát hiện vấn đề, các thể loại báo chí được sử dụng cân đối, phong phú, nhiều cán bộ nghiên cứu thích nghe vì họ không có nhiều thời gian xem tivi. Tuy nhiên độ dài của tin còn chưa phù hợp, một số tin lễ tân ngoại giao còn chung chung.
- Nhà báo Vũ Đình Hương - Quyền trưởng khoa Báo chí - Học Viện Báo chí tuyên truyền: "Giảm độ dài các tin lễ tân, tăng tin vắn và bình luận ngắn; Kết cấu bản tin hợp lý, logic, dễ hiểu; tỷ lệ tin bài phù hợp; đã có nhiều cải tiến trong thực hiện các phỏng vấn ngắn, bình luận ngắn, cập nhật được những vấn đề nóng hổi có ý nghĩa với cuộc sống. Tính chiến đấu được quan tâm thể hiện qua các bài đấu tranh dư luận và bình luận quốc tế gần đây. Một số trường hợp tin lễ tân, tin ngoại giao, hoạt động của lãnh đạo... còn dài; tiếng động gửi qua điện thoại xấu, không hấp dẫn người nghe..."
- Tiến sỹ Đỗ Quí Doãn - Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin: "Chương trình có cải tiến, dễ nghe hơn. Tin nhiều, đa dạng, phong phú. Phải tăng thời lượng cho các bình luận về những vấn đề nóng bỏng. Thêm nhiều phóng sự đời sống hơn".
Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG THIẾT KẾ VÀ DÀN DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TRỰC TIẾP TRÊN HỆ VOV1 – ĐÀI TNVN
3.1. Tư duy tổ chức sản xuất, biên tập và đạo diễn chương trình phát thanh.
a. C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LBC (4).DOC