Về những hạn chế trong xây dựng & giám sát việc triển khai trên thực tế các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBALHQ.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang được LHQ sử dụng 1 cách phổ biến hơn & nó được đánh giá là 1 biện pháp cưỡng chế tập thể mang ít tính bạo lực hơn là các biện pháp quân sự. Tuy nhiên, việc sử dụng gia tăng biện pháp này của LHQ đã tạo ra rất nhiều khó khăn đặc biệt đối với những đối tượng bị áp dụng cũng như việc giám sát quá trình áp dụng, ảnh hưởng & tác động không đúng mục đích của chúng.
Những hạn chế này trước hết xuất phát từ 1 thực tế là mục đích của việc áp đặt biện pháp trừng phạt thường không được xác định 1 cách rõ ràng. Thực vậy, trong nhiều trường hợp chúng dường như thay đổi nhiều lần. Sự kết hợp giữa tính hay thay đổi & không rõ ràng tạo ra những khó khăn cho HĐBA trong việc xác định liệu mục đích của các biện pháp trừng phạt đã đạt được hay chưa & thời điểm nào là hợp lý để bãi bỏ các biện pháp trừng phạt. Trong khi đó, HĐBA thường được xem xét như 1 cơ quan mang tính chính trị hơn là 1 cơ quan tài phán, do đó khi quyết định áp đặt 1 NQ trừng phạt đối với 1 QG, điều quan trọng là HĐBA thường được xác định những tiêu chí để có thể xác định được khi nào thì mục đích của những biện pháp trừng phạt được coi là đạt được.
51 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4391 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của hội đồng bảo an liên hợp quốc - Những vấn đề phát lý và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc cải thiện tình hình. Trước thực tế đó, Nghị quyết 678 được ban hành trong đó đưa ra cho I rắc thời hạn cuối cùng để thi hành hoàn toàn Nghị Quyết 660 và tất cả các nghị quyết liên quan trước đó. Đồng thời, nghị quyết này cũng khẳng định nếu I rắc không tuân thủ, các quốc gia thành viên có quyền liên kết với Cô oét trong việc sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết nhằm đối phó và thi hành với các nghị quyết nhằm khôi phục lại hòa bình và an ninh ở khu vực này. Hạn chót là ngày 15/1/1991 trôi qua, Mỹ đứng đầu liên quân tấn công I rắc. Trong vòng 100 ngày, Cô oét được giải phóng. Thái độ thù địch tạm thời châm dứt bằng sự chấp thuận của I rắc đối với nghị quyết 686, trong đó yêu cầu I rắc ngừng các hành động thù địch đối với liên quân vùng vịnh, giải phóng những người bị tình nghi và giam giữ, chấp nhận trách nhiệm pháp lý đối với những thiệt hại, và thi hành tất cả 12 nghị quyết được ban hành trước đó. 1 sự chấm dứt chién sự cũng chính thức được thiết lập lần thứ 4 theo nghị quyết 687 vào 3/4/1991. Chế độ trừng phạt sau đó vẫn tiếp tục được duy trì sau khi chấm dứt chiến sự nhằm buộc I rắc phải thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định của các Nghị quyết, cụ thể I rắc phải:
a, Tôn trọng không xâm phạm biên giới giữa I rắc và Cô Oét;
b, Phân định ranh giới lãnh thổ giữa I rắc và Cô oét;
c, Triển khai các chương trình giám sát của LHQ nhằm kiểm tra Khor Abdullah và khu vực phi quân sự;
d, Phá hủy, di rời hay trả lại vô hại, theo sự giám sát quốc tế, tất cả những vũ khí hủy diệt và tên lửa đạn đạo có phạm vi hơn 150km;
e, Chịu trách nhiệm pháp lý đối với các thiệt hại trực tiếp, bao gồm cả những thiệt hại về môi trường liên quan tới hành vi xâm lược;
f, Hồi hương tất cả những người dân Cô oét và những người dân của quốc gia thứ 3;
g, Yêu cầu không cung cấp và ủng họ cho khủng bố quốc tế;
h, Trả lại tất cả các tài sản đã bị I rắc tịch thu.
Việc I rắc tuân thủ triệt để 8 yêu cầu này được coi là cơ sở để Hội đồng bảo an chấm dứt áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với quốc gia này.
Không có nghị quyết nào nhằm áp đặt các biện pháp trừng phạt kể từ sau khi có những điều khoản xác định này. Nghị quyết 687 tuyên bố rằng các biện pháp cấm vận thương mại hoàn toàn sẽ tiếp tục được thực hiện, cho đến khi các cuộc họp xem xét định kì 60 ngày 1 lần được thực hiện nhằm xem xét sự tuân thủ của I rắc đối với các nghĩa vụ theo nghị quyết 687. Những biện pháp trừng phạt chỉ được điều chỉnh 1 chút ít sau đó nhằm cho phép nhập khẩu thứ ăn và các nguyên liệu cho những nhu cầu xác định của dân cư và cho những mục đích nhân đạo. Bên cạnh đó, nghị quyết 687 cũng chính thức hợp pháp hóa việc xuất nhập khẩu lương thực, thực phẩm, nguyên vật liệu và các khoản trợ cấp miễn là việc này đã được thông báo cho Ủy ban trừng phạt trước khi chúng được thực hiện.
Tiếp theo đó, nghị quyết 706 và 712 đề xuất 1 sự chấm dứt từng phần đối với các biện pháp trừng phạt, trong đó cho phép I rắc bán 1.6 tỉ đô la Mỹ dầu để đổi lại các hành hóa nhân đạo. Ngược lại, I rắc phải chịu sự giám sát chặt chẽ của LHQ đối với các hợp đồng và việc phân phối các hàng hóa nhân đạo được mua bán từ việc bán dầu. Hơn 5 năm, chương trình này không thu được kết quả, đầu tiên liên quan tới sự phản đối của I rắc đối với những điều khoản mà Hội đồng soạn thảo nhằm có được thẩm quyền nhất định trong việc bán dầu và sau đó liên quan tới những khó khăn trong việc thực hiện các hợp đồng được kí kết.
Nhằm giải quyết tình trạng giảm sút về điều kiện nhân đạo tại I rắc, Hội đồng bảo an đã thông qua nghị quyết 986. Nghị quyết 986 vào 4/4/1995 cho phép I rắc bán thêm 1 tỷ đô la Mỹ dầu mỗi ngày và sử dụng 66% khoản tiền đó để chu cấp cho các mục tiêu nhân đạo. Vào ngày 20/5/1996, LHQ và I rắc đưa ra kết luận trong bản ghi nhớ về những biện pháp đặc biệt cho chương trình đổi dầu lấy lương thực. Theo đó, trong chương trình đổi dầu lấy lương thực, I rắc có thể bán 5.2 tỷ đô la Mỹ dầu lửa trong giai đoạn 6 tháng một. Một phần ba số tiền ban đầu được dành để đền bù cho các nạn nhân của hành vi xâm lược của I rắc đối với Cô oét và 1 khoản tiền nhất định được đặt ra để hỗ trợ cho khu vực của dân Kurd.
Tình hình lại diễn biến phức tạp hơn khi mà vào năm 1998, cơ quan tình báo và an ninh Mỹ xác định rằng I rắc đã không thực hiện nghĩa vụ của mình theo nghị quyết 687 nhằm giảm trừ tất cả các vũ khí thuộc danh mục phải tiêu hủy của mình. Vào tháng 12/1998, các nhà thanh sát của LHQ bị rút khỏi I rắc trước sự trừng phạt về hàng không của Anh và Mỹ. Sau chiến dịch bão táp sa mạc, các nhà thanh sát vũ khí không thể tiếp tục công việc của mình do các thành viên của Hội đồng bảo an không thỏa thuận được cách thức giám sát vũ khí của I rắc khi hoặc nếu bắt đầu các biện pháp trừng phạt. Kể từ khi chấm dứt chiến sự, đề xuất về việc chấm dứt các biện pháp trừng phạt được tranh luận trong 1 thời gian dài giữa 5 thành viên thường trực của Hội đồng bảo an. Mặc dù Nga, Pháp, Trung Quốc đã có sự đồng thuận trong việc chấm dứt ngay lập tức các biện pháp trừng phạt và Hội đồng bảo an có được 1 bản phác thảo chung về các biện pháp trừng phạt cũng như công việc của các nhà thanh sát nhưng vẫn không thể thống nhất được 1 chương trình thanh sát vũ khí mới. LHQ và Anh đã không thể thuyết phục các ủy viên thường trực khác của Hội đồng về việc tiếp tục duy trì những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với I rắc ngay cả khi quốc gia này chấp nhận 1 chương trình thanh sát mới. Vào 17/12/1999, Hội đồng bảo an ban hành nghị quyết 1284, xóa bỏ hoàn toàn giới hạn bán dầu, tiền thu được từ việc bán dầu được gửi vào tài khoản 11 ngân hàng quốc tế, 1 phần quan trọng (30%, sau giảm xuống còn 20%) được trích ra cho quỹ bồi thường, phần khác (8%) để trả cho ủy ban thanh sát vũ khí (UNSCOM) rồi sau đó là UNMOVIC. Đổi lại, I rắc được trích 1 phần để mua các sản phẩm cần thiết. Ủy ban trừng phạt chỉ được phê chuẩn mua các sản phẩm nhân đạo và các thiết bịu cần thiết để sản xuất dầu. Nghị quyết 1284 quy định ủy ban có thể phê chuẩn danh sách các hàng hóa được phép cung cấp mà chỉ cần thông báo lên ủy ban chứ không cần có sự thông qua. Cứ 6 tháng, việc gia hạn nghị quyết lại kéo theo những cuộc đàm phán khó khăn giữa các thành viên Hội đồng bảo an, vì 1 số nước luôn cố gắng tạo ra điều kiện là I rắc phải đạt 1 số cam kết thì mới chịu gia hạn nghị quyết. Mặt khác, I rắc cũng gây khó khăn cho quá trình triển khai nghị quyết bằng cách từ chối bán dầu trong 1 thời gian, sau đó lại tiếp tục bán dầu. Tuy vậy, I rắc cũng đã xuất khẩu 1 lượng dầu lớn nằm ngoài quy định của nghị quyết, nhờ sự thông đồng của các nước láng giềng.
Những đề xuất mới nhằm thay đổi chế độ trừng phạt được đưa ra bởi Anh, Pháp, Nga vào mùa hè 2001, tuy nhiên không đạt được sự thống nhất. Chương trình đổi dầu lấy lương thực tiếp tục được duy trì thực hiện theo nghị quyết 1382 của Hội đồng bảo an vào 29/11/2001. Nó kết thúc sau 150 ngày và Hội đồng bảo an tiếp tục tìm kiếm những cách thứ mới nhằm giải quyết những tình trạng không mong muốn ở I rắc.
Như vậy là từ hơn 10 năm nay, Hội đồng bảo an đã thiết lập chế độ tác quản đối với 1 quốc gia có chủ quyền là thành viên của LHQ. Hội đồng bảo an đã đặt quốc gia này trước những thử thách khắc nghiệt. Lệnh trừng phạt kinh tế và quản lý chặt chẽ các họat động ngoại thương của I rắc được duy trì cho đến khi cơ quan chịu trách nhiệm thanh sát việc phá hủy các vũ khí hủy diệt hàng lọat xác nhận với hội đồng bảo an rằng I rắc đã thực hiện các nhiệm vụ của mình theo các nghị quyết do hội đồng ban hành. Đây là trường hợp duy nhất trong đó cộng đồng quốc tế đã sử dụng tới những biện pháp nặng nề nhất nhằm ngăn chặn nguy cơ phổ biên vũ khí hạt nhân. Hội đồng bảo an coi việc I rắc phải thủ tiêu hoàn toàn các loại vũ khí hủy diệt hàng lọat mà nước này có thể đang sở hữu là tối cần thiết để đảm bảo hòa bình và an ninh quốc tế và I rắc phải chịu 1 số chế độ trừng phạt từ 1 thập kỉ nay là để đạt được mục tiêu đó.
Trường hợp I rắc cũng là 1 trong những trường hợp đặc biệt trong đó LHQ đã sử dụng tới tất cả các cơ chế quy định trong hiến chương để thực hiện 1 đối sách mà LHQ cho là cần thiết, không loại trừ cả những biện pháp không được quy định trong hiến chương.
Về trường hợp của Libêria
LHQ đã áp đặt biện pháp trừng phạt phi vũ trang đối với Libêria vào năm 2001 sau khi cơ quan này phát hiện cựu tổng thống Chales Taylor đã bán kim cương để tài trợ cho các cuộc xung đột dân cư trong nước và tại các nước khác ở Tây phi. Cùng lúc đó, 1 ủy ban trừng phạt cũng được thành lập nhằm giám sát quá trình thực hiện nghị quyết này. Đến năm 2003, 1 ủy ban mới được thành lập nhằm thay thế ủy ban cũ đồng thời củng cố thêm những nhiệm vụ mới cho ủy ban này. Nghị quyết 1521 (2003) được ban hành khi mà những biện pháp được áp đặt theo nghị quyết 1341 (2001) tiếp tục bị vi phạm, đặc biệt thông qua sự tranh giành ảnh hưởng quân sự. Mặc cho mọi nỗ lực nhằm khôi phục lại sự ổn định của khu vực này, chiến sự và thỏa thuận hòa bình toàn diện vẫn không được thi hành 1 cách thống nhất tại Libêria, nhiều khu vực vẫn tiếp tục tồn tại ngoài tầm kiểm soát của chính phủ chuyển giao của Libêria, đặc biệt là tại các khu vực nơi mà các phái đoàn của LHQ chưa được triển khai.
Sự khai thác bất hợp pháp những tài nguyên thiên nhiên như kim cương, gỗ và việc buôn lậu những tài nguyên này cùng với tình trạng buôn bán vũ khí bất hợp pháp tiếp tục là những nguyên nhân làm trầm trọng thê,m tình trạng xung đột về chất đốt và khủng hoảng tại Tây phi, đặc biệt là tại Libêria.
Để giải quyết tình trạng này, sau nghị quyết (NQ) 1521 hàng lọat các nghị quyết khác được ban hành trong đó ghi nhận những thay đổi trong các biện pháp trừng phạt và yêu cầu đối với ủy ban, đáng kể nhất là tại NQ 1532 (2004), 1683 (2006), 1903 (2009). Chế độ trừng phạt này được mở rộng gần đây nhất & được thay đổi bởi NQ 1903 vào 17/12/2009. Những biện pháp trừng phạt có hiện tại được tổng kết như sau:
Biện pháp cấm vận vũ trang: biện pháp này có hiệu lực cho đến 17/12/2010, các ngoại lệ được ghi nhận trong đoạn 5 NQ 1903. Trong đó, tất cả các QG sẽ tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn việc cung cấp vũ khí & bất cứ vật liệu liên quan, cũng như việc cung cấp bất kì khoản viện trựo, sự tư vấn, đào tạo liên quan tới những họat động quân sự đối với tất cả những thực thể & cá nhân phi chính phủ nào mà hành động của họ được tiến hành trên lãnh thổ Libêria;
Cấm đi lại: biện pháp này được thi hành đến 17/12/2010, trong đó tất cả các QG tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn việc đi vào hoặc đi qua của những cá nhân được mô tả bởi ủy ban trừng phạt (UBTP) trên phạm vi lãnh thổ của QG mình. Ngoại lệ cho trường hợp này là khi có sự xác định của UBTP rằng việc qua lại đó được chứng minh trên những căn cứ về sự trợ giúp nhân đạo, bao gồm những nghĩa vụ tôn giáo, hoặc khi UB kết luận rằng 1 sự miễn trừ sẽ giúp ích cho NQ này của Hội đồng bảo an (HĐBA) & cho việc tạo lập hòa bình, ổn định & dân chủ ở Libêria & hòa bình cuối cùng cho khu vực này;
Đóng băng tài khoản: HĐBA quyết định việc sẽ đóng băng các tài khoản tài trợ, tài khoản tài chính khác & các nguồn kinh tế được sở hữu hoặc kiểm soát bởi các cá nhân & thực thể được liệt kê. Biện pháp này sẽ được duy trì cho đến khi HĐBA có những quyết định khác tuy nhiên ít nhất 1 năm 1 lần HĐ sẽ xem xét lại những biện pháp này. Các ngoại lệ của nó được quy định tại đoạn 2 NQ 1532.
Để thi hành các NQ trừng phạt này, các QG có nghĩa vụ thi hành các biện pháp cấm đi lại & đóng băng tài khoản liên quan tới các cá nhân & thực thể được liệt kê, danh sách này được duy trì & cập nhật thường xuyên bởi UBTP.
Trong NQ 1903 chấm dứt việc cấm vận vũ trang đối với chính quyền của Libêria, đoạn 6 NQ, HĐBA quyết định rằng tất cả các QG sẽ thông báo tới UB bất kì tàu vũ khí & những vật liệu liên quan được cung cấp cho chính quyền Libêria, hay bất kì sự cung cấp tài trợ cũng như sự tư vấn hoặc đào tạo liên quan tới các họat động quân sự.
Trước đó, HĐBA đã áp dụng các biện pháp trừng phạt bao gồm cả việc cấm nhập khẩu tất cả những loại gỗ tròn & sản phẩm từ gỗ từ Libêria cũng như cấm nhập khẩu kim cương thô từ QG này, tuy nhiên các biện pháp này đã kết thúc vào 20/6/2006 với việc ban hành NQ 1689 (2006) & NQ 1753 (2007) ngày 27/4/2007.
3. Những tác động của các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBALHQ
3.1 Những thành tự đạt được trong duy trì hòa bình & an ninh thế giới (ANTG)
Là 1 trong những biện pháp được HĐBA sử dụng nhằm gìn giữ hòa bình & ANTG, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang có những ưu điểm nôi bật so với các biện pháp khác.
Với mục tiêu không sử dụng tới lực lượng vũ trang, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang được đánh giá là không tạo ra những thương vong hay thiệt hại to lớn ngay tức thì. Bên cạnh đó, với phạm vi rộng bao gồm các biện pháp về kinh tế, tài chính, ngoại giao & các lĩnh vực khác, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang đem lại nhiều lựa chọn hơn khi áp dụng vào giải quyết những tình huống cụ thể. Hơn thế nữa, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang cũng được đánh giá là ít tốn kém hơn so với việc chi phí cho những biện pháp quân sự.
Với những ưu điểm nổi trội như vậy, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBALHQ đã tạo ra những tác dụng không nhỏ trong việc giữ gìn hòa bình & ANTG.
Cụ thể, quyết định đình chỉ các họat động hàng không đối với Lybia đã có ý nghĩa quan trọng trong việc mang lại công lý cho các nạn nhân trong vụ đánh bom máy bay của hãng hàn không Pan Am trên bầu trời Lybia. Cụ thể, 21/12/1988, chiếc máy bay Boing 747 chuyến Pan Am 103 nổ tung trên bầu trời Lockerbie, Scotland, làm 270 người thiệt mạng. Trước tình thế đó, 15/4/1992, HĐBA áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Lybia về lĩnh vực buôn bán vũ khí & hàng không & đòi hỏi giao nộp phải giao nộp 2 kẻ tình nghi trong vụ Lockerbie. Các biện pháp trừng phạt của HĐBA LHQ đã khiến cho Lybia bị cô lập về kinh tế & chính trị cũng như gặp phải rất nhiều khó khăn khác. Trước sức ép của các biện pháp trừng phạt, 14/4/1999, Lybia chấp nhận giao nộp 2 kẻ tình nghi của vụ Lockerbie. Ghi nhận thái độ tích cực này, LHQ quyết định tạm ngừng các biện pháp trừng phạt. Sau đó hơn 2 năm, vào 15/8/2003, Lybia gửi thư lên HĐBA chính thức thừa nhận trách nhiệm trong vụ Lockerbie, đồng ý trả cho gia đình mỗi nạn nhân ít nhất 5 triệu USD. 12/9/2003. LHQ bở phiếu chính thức dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với Lybia.
Về trường hợp của I rắc, sau khi I rắc xâm lược Cô oét năm 1990, hàng lọat các NQ của HĐBA đã được thông qua nhằm chấm dứt hành động xâm lược này. Trong số các NQ được ban hành, NQ 661 là NQ đầu tiên chính thức áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với QG này. Sau khi hàng lọat các biện pháp trừng phạt phi vũ trang khác được ban hành, Chính phủ nước này đã phải hợp tác khi cho phép các thanh tra vũ khí của LHQ giám sát phá hủy vũ khí của QG này.
Thực tế cũng đã chứng minh trong rất nhiều trường hợp, các lệnh trừng phạt của HĐBA đã tạo điều kiện cho quá trình đi tới 1 giải pháp hòa bình như trường hợp của Ănggôla & Nam Tư cũ. Các biện pháp trừng phạt đã góp phần kết thúc thời kì chiến tranh lâu dài giữa chính phủ Ănggôla & nhóm UNITA do Jonas Savimbi lãnh đạo. Trong 6 năm đầu tiên, các biện pháp trừng phạt gần như bị phớt lờ hoàn toàn. Tuy nhiên, khi các biện pháp được mở rộng & đầy mạnh, chúng đã có tác động đáng kể tới tình hình tại QG này. Cấm vận kim cương, trừng phạt về tài chính cũng như các biện pháp khác đã làm suy giảm các nguồn lực hiện có của UNITA & khiến cho Savimbi rơi vào tình trạng khó khăn trong việc thực hiện các họat động kích động & vũ trang. Điều này đóng góp quan trọng vào chiến thắng trên chiến trường của liên minh chính phủ Anggôla trước đội quân của Savimbi vào 2/2002, kết thúc cuộc chiến tranh suốt thời gian dài trước đó giữa 2 bên. Tại Nam Tư cũ, các biện pháp cấm vận vũ trang, đình chỉ hoàn toàn các họat động thương mại, hàng không đã làm các bên trong cuộc chiến không có vũ khí, phương tiện cũng như nguồn tài chính để tiếp tục tiến hành chiến tranh & cuối cùng 1 giải pháp hòa bình đã đạt được khi hiệp ước lập lại hòa bình trong khu vực, hiệp ước Dayton được kí kết.
Sự thành công quan trọng nhất là ở Nam Phi, nơi mà những NQ đã buộc chính quyền Apacthai phải chấp nhận những nguyên tắc quan trọng (Coovadia, 1999).
3.3. Những tồn tại trong việc áp dụng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBALHQ
Bên cạnh những thành công đạt được trong việc giải quyết hiệu quả các nguy cơ xảy ra góp phần quan trọng vào việc gìn giữ hòa bình & ANTG, từ khi ra đời đến nay, xung quanh việc áp dụng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang, các cuộc tranh luận về những tác động tiêu cực của chúng cũng không ngừng gia tăng & ngày càng trở nên sôi nổi.
Đã xuất hiện nhiều báo cáo, nghiên cứu đánh giá của các tổ chức nhân đạo nói chung & của các học giả trên TG nói riêng trong đó đưa ra những bằng chứng thuyết phục về 1 tình trạng khủng hoảng trầm trọng về nhân đạo cũng như kinh tế đang diễn ra tại các quốc gia bị áp đặt các biện pháp trừng phạt phi vũ trang. Chính những báo cáo này đã khiến cho nhiều người nghi ngờ về hiệu quả thực sự của các biện pháp trừng phạt phi vũ trang, cũng như những ưu thế vượt trội của nó so với những biện pháp khác được áp dụng của HĐBALHQ.
Để có được 1 cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này, khóa luận xin phép được đưa ra 1 số nhận định về các mặt hạn chế trong việc xây dựng & thi hành các biện pháp trừng phạt phi vũ trang cũng như 1 số ví dụ cụ thể nhằm làm sáng tỏ nhận định này.
Về những hạn chế trong xây dựng & giám sát việc triển khai trên thực tế các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBALHQ.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang được LHQ sử dụng 1 cách phổ biến hơn & nó được đánh giá là 1 biện pháp cưỡng chế tập thể mang ít tính bạo lực hơn là các biện pháp quân sự. Tuy nhiên, việc sử dụng gia tăng biện pháp này của LHQ đã tạo ra rất nhiều khó khăn đặc biệt đối với những đối tượng bị áp dụng cũng như việc giám sát quá trình áp dụng, ảnh hưởng & tác động không đúng mục đích của chúng.
Những hạn chế này trước hết xuất phát từ 1 thực tế là mục đích của việc áp đặt biện pháp trừng phạt thường không được xác định 1 cách rõ ràng. Thực vậy, trong nhiều trường hợp chúng dường như thay đổi nhiều lần. Sự kết hợp giữa tính hay thay đổi & không rõ ràng tạo ra những khó khăn cho HĐBA trong việc xác định liệu mục đích của các biện pháp trừng phạt đã đạt được hay chưa & thời điểm nào là hợp lý để bãi bỏ các biện pháp trừng phạt. Trong khi đó, HĐBA thường được xem xét như 1 cơ quan mang tính chính trị hơn là 1 cơ quan tài phán, do đó khi quyết định áp đặt 1 NQ trừng phạt đối với 1 QG, điều quan trọng là HĐBA thường được xác định những tiêu chí để có thể xác định được khi nào thì mục đích của những biện pháp trừng phạt được coi là đạt được.
Bên cạnh đó, mặc dù là các biện pháp trừng phạt nhưng mục đích quan trọng nhất mà các biện pháp này hướng tới là làm thay đổi thái độ chính trị của các chính phủ mục tiêu, buộc họ phải tuân thủ các NQ đã được ban hành. Chính vì thế cần rất thận trọng khi quyết định mục tiêu của các biện pháp trừng phạt, vì nếu không nó sẽ tạo ra tâm lí chống đối của chính phủ mục tiêu & dân cư của QG đó.
Việc giám sát & đánh giá hiệu quả của quá trình triển khai áp dụng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBA cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại. Nhiệm vụ này trở nên phức tạp do miễn cưỡng chấp nhận việc triển khai những chương trình giám sát hay điều tra QT của các chính phủ vì những lý do chủ quyền hay lợi ích kinh tế. Hay trong nhiều trường hợp, chính quyền của QG mụ tiêu đã lợi dụng vai trò chính trị của mình nhăm đưa ra những thông tin sai lệch về việc áp dụng các biện pháp trừng phạt của HĐBA, điều này tạo ra những cách hiểu sai lầm về mụ tiêu của việc trừng phạt, cũng như tâm lý chống đối, bất hợp tác của các cộng đồng dân cư. Ví dụ như, ở Yugoslavia trong những năm 1990, các công chức của bộ y tế nhận định rằng các biện pháp trừng phạt đã gây ra sự gia tăng gấ đôi tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Trong thực tế, thay vì đó tỷ lệ này đã giảm đi nhanh chóng hơn bất kì QG láng giềng nào. Ở Serbia, giữa những năm 1992 & 1995, các biện pháp trừng phạt bị lên án là đã làm ngăn cản việc nhấp khẩu thuốc men bằng việc gây ra sự trì hoãn đối với các hợp đồng cung ứng thuốc. Tuy nhiên, trong cùng thời điểm đó, các cuộc giám sát của LHQ về nhập khẩu đã đưa ra những đảm bảo cho viêc thanh toán đối với các nhà cung cấp thuốc men đối với QG này. Tuy nhiên, khi những biện pháp trừng phạt chấm dứt thì nhiều công ty lại chấm dứt việc buôn bán với bộ y tế & sự thiếu hụt những loại dựơc phẩm cần thiết bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Như vậy là trái với những nhận thức cho rằng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang cuat HĐBALHQ chính là nguyên nhân gây ra sự thiếu hụt nghiêm trọng về thuốc men ở Serbia, các biện pháp này đã giúp đảm bảo sự tiếp cận đối với các loại thuốc bằng việc cung cấp các nhà bảo lãnh thương mại cho QG này.
ở Libêria trong suốt năm 2001, những áp phích quảng cáo mô tả những biện pháp trừng phạt của LHQ như 1 con voi nguy hiểm đè bẹp bệnh viện & trường học. Trong thực tế, những biện pháp trừng phạt của LHQ được triển khai trong thời gian này không bao gồm những hạn chế đối với các hàng hóa nhân đạo được sử dụng trong các bệnh viện & trường học. Cũng như thế, ở Afghanistan, trong suốt những năm 2000 & 2001, chính quyền Taliban đã kiểm soát các phương tiện thông tin, qua đó định hướng 1 chiến lược liên tục chống lại các NQ trừng phạt, kết án chúng gây ra những điều kiện nghèo đói về kinh tế & xã hội tại QG này. Điều này đã dẫn tới 1 hệ quả là trong nhận thưc chung của cộng đồng dân cư, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang chính là nguyên nhân gây ra những tác động tiêu cực đối với tình hình kinh tế, xã hội & nhân đạo, mặc dù những biện pháp trừng phạt được thi hành trong thời gian này chỉ bao gồm các lệnh cấm đi lại, những hạn chế nhất định đối với tài chính, những hạn chế về ngoại giao & cấm vận vũ khí.
Còn ở I rắc, trong suốt 13 năm thi hành các biện pháp trừng phạt toàn diện, chính quyền I rắc đã lợi dụng các biện pháp trừng phạt nhằm đạt được sự đồng thuận cho những tranh cãi lên án những biện pháp trừng phạt đã gây ra sự gia tăng nửa triệu cái chết ở trẻ em. Trong khi, hệ thống lâm thời về những miễn trừ nhân đạo thực hiện từ năm 1996 đến năm 2003 – chương trình đổi dầu lấy lương thực – đã cung cấp những khoản đô la lớn cho những hàng hóa xác định. Chính quyền I rắc chỉ ra rằng các biện pháp trừng phạt là nguyên nhân chính gây ra những khổ đau tại I rắc, trong khi đó những người khác lại cho rằng đó là do chính quyền Baghdad.
Những ví dụ trên cho thấy việc đưa ra thi hành trong môi trường của QG mục tiêu, LHQ ít có khả năng trong việc đáp trả lại những định hướng sai lệch về thông tin của các QG này. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của LHQ cũng như mục tiêu gìn giữ hòa bình & ANTG của các biện pháp trừng phạt phi vũ trang. Hơn thế nữa, việc xây dựng những tiêu chuẩn đánh giá về nhân đạo đáng tin cậy đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp cho quá trình triển khai & đánh giá hiệu quả các biện pháp trừng phạt trước & trong khi chúg được triển khai chính xác & khách quan hơn.
Bên cạnh đó, do được thực hiện tập thể & thường không có mối lên hệ trực tiếp giữa các biện pháp trừng phạt phi vũ trang & hậu quả của chúng nên việc khắc phục hậu quả & xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong nhiều trường hợp trở nên vô cùng khó khăn.
Ngoài ra, mặc dù được đánh giá là có tính ưu việt hơn hẳn các biện pháp trừng phạt vũ trang ở nhiều khía cạnh, nhưng trong thực tế không phải lúc nào các biện pháp trừng phạt phi vũ trang cũng phát huy hiệu quả như mong muốn. Theo như 1 tài liệu nghên cứu về các biện pháp trừng phạt phi vũ trang thì tác động của các biện pháp này trong việc làm thay đổi thái độ chính trị của chính phủ QG mục tiêu thường rất hạn chế, & thường mất nhiều năm người ta mới thấy những chuyển biến tích cực. Ví dụ, 1 cuộc nghiên cứu trong năm 1991 tính toán rằng các biện pháp trừng phạt chỉ tỏ ra có hiệu quả hơn 34% trong 115 trường hợp.
Về những tác động tiêu cực đối với QG bị áp đặt các biện pháp trừng phạt phi vũ trang
Là 1 trong những mục đích quan trọng của các biện pháp trừng phạt – nhằm cô lập QG vi phạm trong cộng đồng QT buộc QG phải thay đổi thái độ, chấp nhận cách hành xử phù hợp với luật pháp QT- các biện páhp trừng phạt phi vũ trang khi được triển khai đã tạo cho các QG mục tiêu rất nhiều khó khăn.
Do phải chịu các lệnh cấm vận về kinh tế & tài chính, QG mục tiêu bị phụ thuộc sâu sắc vào việc nhập khẩu, đặc biệt là đối với thực phẩm & năng lượng. Bên cạnh đó, các khoản thu nhập từ xuất khẩu cũng bị hạn chế 1 cách đáng kể. Việc thi hành nhanh chóng các biện pháp trừng phạt, khiến cho QG mục tiêu không có đủ thời gian cần thiết để có thể tổ chức các nguồn tài chính phục vụ cho các mục tiêu tài trợ cấp bách. Hơn thế nữa, trong nhiều trường hợp, các QG bị áp đặt các biện pháp trừng phạt thường là các QG có nền kinh tế kém phát triển, với nên nông nghiệp quy mô nhỏ nghèo nàn & lạc hậu, điều này khiến cho sự ứng phó của QG đối với các biện pháp trừng phạt càng trở nên khó khăn hơn. N
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của hội đồng bảo an liên hợp quốc.docx