MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương I: Tính cấp thiết của việc tiến hành cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam 3
I. Tổng quan về hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam 3
1. Khái niệm chung 3
1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại 3
1.2. Các loại hình NHTM ở Việt Nam 5
2. Đánh giá các nguồn lực và hiệu quả kinh doanh của các
NHTM Việt Nam 8
2.1. Đánh giá các nguồn lực của các NHTM Việt Nam 8
2.2. Đánh giá chung hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam 16
II. Tính cấp thiết của việc tiến hành cải cách Ngân hàng thương mại
Việt Nam 21
1. Bối cảnh kinh tế - xã hội của việc cải cách 21
2. Yêu cầu cấp bách của việc cải cách các NHTM Việt Nam 23
III. Kinh nghiệm cải cách NHTM của một số nước trên thế giới 27
1. Trung Quốc 27
2. Ba Lan 28
3. Đài Loan 29
Chương II: Thực trạng cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam
trong thời gian qua 32
I. Nội dung chương trình cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam
từ năm 1998 đến nay 32
1. Đối tượng, mục tiêu cải cách 32
2. Nội dung chính của chương trình cải cách từ năm 1998 đến nay 32
2.1. Xử lý nợ tồn đọng trên cơ sở phân loại và đánh giá chính xác
khối lượng nợ của các NHTM quốc doanh 32
2.2. Cấp bổ sung vốn điều lệ cho các NHTM quốc doanh 33
2.3. Tái cơ cấu các NHTM cổ phần 33
3. Miêu tả các phương án cải cách NHTM giai đoạn 1998-2002 3
3.1. Các phương án cải cách NHTM quốc doanh 34
3.2. Các phương án cải cách NHTM cổ phần 34
II. Thực trạng cải cách NHTM Việt Nam trong những năm qua 35
1. Những thành tựu cải cách đã đạt được trong thời gian qua 35
1.1. Những nố lực cải cách Ngân hàng Nhà nước và tác động đến
quá trình cải cách NHTM 35
1.2. Những thành tựu cải cách NHTM đã đạt được trong thời gian qua 38
2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình cải cách 54
2.1. Những tồn tại trong công tác quản lý, hỗ trợ của Chính phủ
và phối hợp của các Bộ ngành hữu quan 54
2.2. Những tồn tại trong hoạt động cải cách tại các NHTM 61
Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động
cải cách NHTM Việt Nam trong thời gian tới 64
I. Những định hướng cải cách NHTM Việt Nam trong thời gian tới 64
1. Những quan điểm định hướng cơ bản 64
2. Những định hướng cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam
từ nay đến năm 2010 65
II. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động cải cách ngân hàng thương mại
Việt Nam trong thời gian tới 66
1. Giải pháp vĩ mô 66
1.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến việc xử lý nợ tồn đọng,
đặc biệt là nhóm nợ có tài sản đảm bảo 66
1.2. Hoàn thiện mô hình Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN để lành mạnh hoá tình hình tài chính của hệ thống NHTM 67
1.3. Hình thành thị trường bất động sản để giải quyết các khoản nợ đọng
có tài sản đảm bảo 71
1.4. Tăng cường công tác quản lý, thanh tra giám sát của Nhà nước,
phối hợp hoạt động của các Bộ, ngành hữu quan để giải quyết dứt
điểm nợ tồn đọng 72
2. Giải pháp vi mô 75
2.1. Tăng cường nố lực bản thân của các NHTM để đẩy nhanh
quá trình cải cách 75
2.2. Tăng cường và thực hiện hiệu quả các hình thức tái cấp vốn, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn cho hệ thống NHTM Việt nam 84
2.3. Thực hiện giải pháp mua lại đối với các NHTM cổ phần yếu kém 86
2.4. Tạo nguồn bù đắp nợ quá hạn, tăng khả năng thanh toán cho
các NHTM quốc doanh 87
3. Một số kiến nghị đối với các Bộ, ngành liên quan 88
3.1. Đối với việc xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng 88
3.2. Đối với việc đa dạng hóa nghiệp vụ để tăng vốn điều lệ 89
3.3. Đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động KTNB tại các NHTM 92
3.4. Đối với việc xúc tiến thành lập Công ty mua bán tài sản tồn
đọng của các TCTD 92
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến hành xây dựng Đề án xử lý nợ tồn đọng cho mình và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thông qua Quyết định số 149/01/QĐ-TTg ngày 5/10/2001.
Cho đến nay, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về công tác xử lý nợ tồn đọng tại các NHTM quốc doanh, các Bộ ngành nói trên đã tiến hành phân loại các khoản nợ tồn đọng và cũng đã đưa ra được đề xuất cụ thể đối với từng nhóm nợ. Có thể coi đây là thành tựu quan trọng nhất đã đạt được trong công tác xử lý nợ tồn đọng tại các NHTM quốc doanh. Theo Bản phân loại nợ do các cơ quan này đưa ra, nợ tồn đọng của các NHTM quốc doanh được chia làm 2 nhóm:
a. Nhóm có tài sản bảo đảm:
Nhóm nợ này chiếm 1/2 tổng số nợ khó đòi của các ngân hàng và phải được tận thu tối đa để hạn chế tổn thất cho các ngân hàng và cho Nhà nước.
- Trường hợp những tài sản bảo đảm nợ vay thuộc những vụ án đã được toà án phán quyết nhưng chưa giao tài sản cho NHTM thì các cơ quan thi hành án cần nhanh chóng giao cho các NHTM để xử lý thu hồi vốn theo các hình thức trên.
- Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay chưa đầy đủ thủ tục pháp lý và hiện không có tranh chấp, các cơ quan chức năng Nhà nước có thẩm quyền cần hoàn thiện các thủ tục pháp lý để tạo điều kiện cho các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM bán nhanh tài sản, thu hồi nợ.
- Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay chưa bán được, NHTM, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM cần áp dụng các biện pháp như:
+ Sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn liên doanh bằng tài sản để thu hồi nợ.
+ Trường hợp các ngân hàng giữ tài sản lại để sử dụng thì phải có nguồn vốn tương ứng theo quy định của pháp luật. Giá bán các tài sản bảo đảm nợ vay có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị nợ tồn đọng (gốc và lãi). Trường hợp bán tài sản với giá thấp hơn giá trị nợ tồn đọng thì phần chênh lệch được xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro của các NHTM. Ngược lại, nếu bán với giá cao hơn thì phần chênh lệch được xử lý theo quy định của pháp luật.
b. Nhóm nợ không có tài sản bảo đảm
b1. Nợ không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn tồn tại:
Trong khi đang hoạt động, các NHTM quốc doanh có thể bán lại nợ để thu hồi vốn hoặc chuyển nợ vào vốn góp của doanh nghiệp. Qua đó có thể chuyển phần giá trị thực còn của khoản nợ thành vốn Nhà nước, cấp bổ sung cho doanh nghiệp cũng như xác định được số nợ còn có thể thu hồi để giúp ngân hàng có thể chủ động trong việc xử lý. Trong nhóm này, nợ của DNNN chiếm chủ yếu, việc xử lý nợ liên quan tới tiến độ cơ cấu và sắp xếp lại DNNN. Do vậy, để đảm bảo tiến độ xử lý nợ của các NHTM quốc doanh, cần đẩy nhanh tốc độ cơ cấu và sắp xếp lại DNNN mà thời gian qua vừa thực hiện chậm hơn so với tiến trình xử lý nợ của các NHTM.
b2. Nợ không có tài sản đảm bảo và không còn đối tượng để thu hồi
Các NHTM quốc doanh tập hợp các báo cáo đề nghị xử lý thu, các hướng dẫn của NHNN để xử lý trong năm 2002.
Trên cơ sở phân loại nợ của các Bộ ngành liên quan và chỉ đạo thực hiện của Chính phủ, trong thời gian qua, các NHTM quốc doanh đã tiến hành xử lý nợ tồn đọng theo đề án đã được phê duyệt. Các ngân hàng đã xác định được số nợ cần xử lý đến ngày 31/12/2000 theo từng nhóm nợ và số nợ dự kiến đến năm 2003; trong đó, các ngân hàng chú trọng giải quyết nhóm (a). Để hỗ trợ cho các NHTM quốc doanh, đầu năm 2000, NHNN đã xây dựng đề án thành lập Công ty mua bán nợ của hệ thống NHTM trình Chính phủ nhưng không được thông qua. Tuy nhiên, đến ngày 27/3/2001, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 43/2001/QĐ-TTg về việc thành lập Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính cho các NHTM trực thuộc Chính phủ. Đồng thời, Chính phủ đã cho phép thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của từng ngân hàng để xử lý các khoản nợ tồn đọng có tài sản đảm bảo (Quyết định 150/QĐ ngày 5/10/2001) với sự giúp đỡ của Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính. Theo quyết định này, các tài sản đảm bảo nợ vay (tài sản thế chấp, cần cố; tài sản gán nợ; tài sản toà án giao cho ngân hàng), kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng thuộc nhóm này sẽ được chuyển giao cho Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để các công ty này chủ động bán theo các hình thức như: tự bán công khai trên thị trường hoặc bán qua thị trường dịch vụ bán đấu giá tài sản, hoặc bán cho công ty nhóm nợ của Nhà nước.
Ngoài ra, Chính phủ bù đắp nguồn tương ứng cho các NHTM xử lý những khoản nợ tồn đọng không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu hồi. Đến nay, đã có NHCT thành lập được Công ty quản lý nợ và tài sản thế chấp, gọi tắt là CMPC.
Trên thực tế, nợ tồn đọng của các NHTM có liên quan chặt chẽ với nợ quá hạn và tài sản tồn đọng của các NHTM. Theo ước tính, trong tổng số nợ quá hạn của hệ thống NHTM thì nợ của các DNNN lên đến gần 80% ((13) Tạp chí Tài chính tháng (1+2)/2002
). Chính vì vậy, nếu tình trạng nợ quá hạn và tài sản tồn đọng của DNNN được xử lý một cách căn bản sẽ góp phần quan trọng giải quyết, xử lý thành công nợ tồn đọng của hệ thống NHTM. Nhận thức được điều đó, NHNN và các ngành, các cấp đã tích cực chủ động hạn chế và giải quyết nợ tồn đọng thông qua việc ban hành hàng loạt các văn bản, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM quốc doanh thu hồi nợ của các doanh nghiệp; trong đó quan trọng nhất là các văn bản sau:
- Thông tư liên bộ số 03/1997/TTLB/TC-NHNN/TCTD ngày 22/11/1997. Đây là một trong những văn bản pháp lý quan trọng về hướng dẫn xử lý nợ quá hạn của các NHTM quốc doanh qua chấn chỉnh hoạt động ngân hàng sau thanh tra. Theo đó, các ngân hàng có thể xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ đối với các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Tính đến 31/12/2000, các NHTM quốc doanh đã tiến hành khoanh nợ trị giá 4900 tỷ đồng cho các DNNN.
- Quyết định số 95/1998/QĐ-TTg ngày 18/5/1998 của Thủ tướng Chính phủ về xử lý thanh toán công nợ giai đoạn II. Theo đó, việc xử lý và thanh toán nợ của doanh nghiệp được tiến hành theo các chủ nợ khác nhau như nợ ngân sách, nợ ngân hàng, khi doanh nghiệp là chủ nợ đối với Nhà nước, các khoản nợ có bảo lãnh của ngân hàng…
- Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19/4/1999 ban hành quy chế mua bán nợ của các TCTD.
- Quyết định số 05/2000/QĐ-TTg ngày 5/1/2000 sửa đổi bổ sung một số vấn đề về công tác xử lý, thanh toán, kế toán, hạch toán công nợ giai đoạn II.
- Thông tư 23/200/TT-BTC ngày 27/3/2000 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 05/2000/QĐ-TTg. Thông tư này cũng quy định cụ thể thẩm quyền quyết định xử lý nợ đối với các khoản nợ của DNNN.
- Thông tư liên tịch số 03/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 do NHNN, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính ban hành để hướng dẫnviệc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các NHTM. Có thể nói, đây là một văn bản quy định một cách đầy đủ và tương đối cụ thể nhiều vấn đề liên quan đến trình tự thủ tục xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay ngoài biện pháp khởi kiện tại Toà án cũng như xác định rõ trách nhiệm thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chức năng quản lý trên địa bàn trong việc hỗ trợ các NHTM thu hồi nợ nhanh hơn.
Các văn bản pháp lý trên đây, đặc biệt là Thông tư liên tịch số 03 ngày 23/4/2001, đã tạo ra khung pháp lý rất quan trọng cho hoạt động xử lý nợ của các NHTM quốc doanh và đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác hỗ trợ xử lý nợ của các cơ quan quản lý Nhà nước.
Ngoài ra, trong thời gian qua, Bộ Tài chính đã hoàn thành một đề tài nghiên cứu cấp Bộ, do Cục Tài chính chủ trì nghiên cứu về mô hình hoạt động của công ty mua bán nợ, tài sản và tư vấn chuyển đổi sở hữu DNNN. Trên cơ sở đề tài trên, gần đây, Cục Tài chính doanh nghiệp đã xây dựng Đề án Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DNNN và đang trong quá trình xin ý kiến, hoàn chỉnh đề án trình Chính phủ.Với sự nỗ lực của các ngành các cấp, tính đến 8/2001, nợ tồn đọng tại các NHTM quốc doanh đã giảm được gần 2% so với giai đoạn trước năm 1998 (xem Bảng 8). Kết quả này đã góp phần khuyến khích những nỗ lực cải cách NHTM Việt Nam trong thời gian tới.
1.2.1.3. Vấn đề tổ chức điều hành
Về tổ chức bộ máy, các NHTM quốc doanh Việt Nam được tổ chức theo mô hình Tổng công ty đặc biệt trực thuộc Chính phủ nên tính ỳ lớn và thiếu năng động trong cơ chế thị trường hiện đại. Đặc biệt, ngoài nhiệm vụ tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại, các NHTM quốc doanh còn phải thực thi hoạt động cho vay chính sách theo chỉ đạo của Nhà nước. Cụ thể, từ năm 2002 trở về trước, NHNN&PTNT phải kiêm luôn là NHNg còn NHCT Việt Nam phải làm luôn dịch vụ cho sinh viên nghèo vay tiền học tập. Mô hình tổ chức này đã hạn chế hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng.
Ngoài ra, cơ chế điều hành của các NHTM quốc doanh hiện cũng còn rất nhiều vướng mắc, đặc biệt là cơ chế giữa Hội đồng Quản trị (HĐQT) và Ban Tổng Giám đốc (TGĐ). Theo Quyết định số 166-QĐ/NH5 ngày10/8/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì Chủ tịch HĐQT có thể kiêm TGĐ (Giám đốc) NHTM. Việc Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ đã gây khó khăn cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc theo dõi và giám sát hoạt động của các ngân hàng. Mặt khác, năng lực quản trị và cách thức quản lý điều hành hoạt động của các NHTM quốc doanh còn rất lạc hậu, chưa có chiến lược tổng thể của NHTM hiện đại. Trình độ cán bộ quản lý tại các NHTM quốc doanh còn chưa cao, chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức và tư duy về kinh tế thị trường hiện đại, còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi cách nghĩ cách làm của cơ chế quan liêu bao cấp.
Trước tình hình này, các NHTM quốc doanh đã có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên tại các ngân hàng. Tính đến đầu năm 2002, đã có 25% trong tổng số cán bộ quản lý tại các ngân hàng đã được gửi đi đào tạo tại nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ cũng đã chỉ đạo cho các NHTM quốc doanh phải kiên quyết đối với những cán bộ quản lý yếu kém về trình độ, suy thoái về đạo đức nghề nghiệp. Công tác này đã được NHTM quốc doanh triển khai mạnh mẽ đặc biệt ở NHNT Việt Nam (Vietcombank).
Đối với khối Ngân hàng chính sách, Chính phủ đã phê duyệt Đề án cơ cấu lại của Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long và cho phép ngân hàng này được chuyển sang hoạt động đa năng như một NHTM. Bên cạnh đó, NHNg cũng đã được Chính phủ quyết định giữ nguyên tên gọi và tách ra khỏi NHNN&PTNT Việt Nam… Quan trọng hơn, NHNg sẽ tiếp nhận thêm chương trình cho sinh viên nghèo vay vốn học tập từ NHCT Việt Nam. Theo kế hoạch của Chính phủ, Ngân hàng chính sách này sẽ có số vốn điều lệ là 5000 tỷ đồng và dự kiến sẽ hoạt động theo quy chế mới từ đầu năm 2003. Đây là thành tựu lớn nhất trong công cuộc đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của các NHTM quốc doanh, góp phần xây dựng các ngân hàng này thành đầu tàu vững mạnh cho hoạt động của hệ thống NHTM nói chung. Việc thành lập một Ngân hàng chính sách hoạt động độc lập, tách bạch hoạt động cho vay chính sách ra khỏi hoạt động cho vay thương mại sẽ góp phần tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh tiền tệ cho các NHTM quốc doanh.
Một trong những nội dung cơ bản của Đề án cơ cấu lại NHTM quốc doanh là việc thành lậo Ban quản lý rủi ro nhằm giúp HĐQT phân tích xây dựng chuẩn mực và quản lý rủi ro của toàn hệ thống. Thực hiện nội dung và tiến độ đề án cơ cấu lại các NHTM quốc doanh cũng như tuân thủ các cam kết trong khuôn khổ Chương trình tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo giữa Chính phủ Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF), các NHTM quốc doanh bước đầu đều đã có các mô hình quản lý rủi ro, đó là:
- Uỷ ban quản lý rủi ro NHNT Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 455/QĐ ngày21/9/2001 của Chủ tịch HĐQT NHNT Việt Nam.
- Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro NHNN&PTNT Việt Nam được tách ra từ Ban kế hoạch thành một trung tâm hoạt động độc lập. Theo Quyết định số 235/QĐ ngày 1/6/2001 của chủ tịch HĐQT NHNN&PTNT Việt Nam. Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro là đơn vị trực thuộc bộ máy quản lý điều hành tại trụ sở chính NHNN&PTNT Việt Nam, chịu sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của HĐQT và Tổng giám đốc NHNN&PTNT Việt Nam. Ngoài ra, Hội đồng quản lý rủi ro NHNN&PTNT Việt Nam đã được thành lập vào tháng 6/2002.
- Phòng thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro NHCT Việt Nam là 1 trong 24 phòng, ban chuyên môn nghiệp vụ thuộc bộ máy điều hành của NHCT Việt Nam. Phòng thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro là phòng nghiệp vụ tham mưu cho TGĐ về thông tin liên quan đến hoạt động ngân hàng và khách hàng nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của NHCT; thực thi các hoạt động nghiệp vụ giúp TGĐ trong việc quản lý sử dụng quỹ rủi ro đúng mục đích.
1.2.2. Khu vực các Ngân hàng thương mại cổ phần
Khu vực NHTM cổ phần Việt Nam hiện nay còn yếu kém ở nhiều mặt khác nhau (qui mô vốn, cơ cấu tổ chức, phương thức kinh doanh). Nhận thức được tình hình đó, từ tháng 5/1998, NHNN đã tiến hành xem xét lại 18 NHTM cổ phần tại TP. Hồ Chí Minh. Dựa trên kết quả đánh giá khả năng thanh toán, tính thanh khoản và những tổn thất về vốn, NHNN đã quyết định đặt 8 NHTM cổ phần dưới “Chế độ kiểm soát đặc biệt” và “Chế độ giám sát đặc biệt”. Chế độ kiểm soát đặc biệt là chế độ theo đó NHNN sẽ đảm đương tất cả các nghiệp vụ chính của ngân hàng; còn chế độ giám sát đặc biệt là chế độ theo đó NHNN sẽ tiến hành giám sát chặt chẽ hoạt dộng của ngân hàng nhằm sửa chữa kịp thời mọi thiếu sót của NHTM.
Đến đầu năm 1999, Chính phủ đã soạn thảo một kế hoạch cơ cấu lại cả 51 NHTM cổ phần trong cả nước (tham khảo Phụ lục 1). Ngoài ra, kế hoạch tái cơ cấu cho từng NHTM cổ phần cũng đã được đưa ra trong đó nhấn mạnh việc cải cách tổ chức, xử lý các khoản nợ và tái cấp vốn. Theo kế hoạch, việc tái cấp vốn cho các NHTM cổ phần sẽ được thực hiện thông qua các quỹ của Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước cũng đã ra kế hoạch thành lập Công ty quản lý tài sản (AMC) để cơ cấu lại các khoản nợ của các doanh nghiệp và giúp các NHTM giảm bớt các khoản nợ khó đòi. Công ty này sẽ hoạt động với nguồn vốn do Chính phủ cấp và sẽ tiến hành mua, bán các khoản nợ có tài sản thế chấp mà các NHTM không thể phát mại do tính chất của tài sản, không đủ giấy tờ hay không rõ nguồn gốc của khoản nợ. Phải thừa nhận rằng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã sớm ý thức được sự cần thiết phải củng cố và chấn chỉnh các NHTM cổ phần nhưng mãi đến năm 1998, các văn bản pháp quy mới được ban hành tương đối có bài bản. Ngoài ra, để hỗ trợ cho quá trình chấn chỉnh các ngân hàng cổ phần, Chính phủ đã thành lập Uỷ ban tái cơ cấu do Phó thống đốc NHNN đứng đầu và Quỹ hỗ trợ sắp xếp lại các NHTM cổ phần với mức vốn là 1.200 tỷ đồng.
1.2.2.1. Về vốn điều lệ và sắp xếp hoạt động
Yếu kém rõ nhất hiện nay đối với các NHTM cổ phần là vốn điều lệ đa số là rất nhỏ so với tỷ trọng vốn vay, không đảm bảo đủ mức vốn để mở rộng phạm vi địa bàn hoạt động và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Mặc dù đã có quy định của Chính phủ về mức vốn điều lệ tối thiểu nhưng sau 3 năm thực hiện, nhiều NHTM cổ phần ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn có tổng số vốn dưới 50 tỷ đồng. Theo đánh giá của NHNN, số vốn điều lệ của các NHTM cổ phần cần được bổ sung tuy thấp hơn các NHTM quốc doanh (do tài sản có thấp) nhưng cũng xấp xỉ 2000 tỷ đồng.
Chính vì vậy, ngày 3/10/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/1998/ NĐ-CP quy định về mức vốn pháp định của các TCTD. Đồng thời, NHNN cũng đã chỉ đạo cho các NHTM cổ phần phải tăng vốn điều lệ của mình lên. Mặt khác, để đảm bảo cho các NHTM cổ phần thực hiện việc tăng vốn một cách nghiêm chỉnh, NHNN đã hạn chế và cấm các ngân hàng không đủ vốn được mở rộng phạm vi và địa bàn hoạt động. Theo chủ trương này, nếu đến thời hạn quy định là 10/2001 mà các ngân hàng không tăng đủ vốn điều lệ thì sẽ bị thu hồi giấy phép hoạt động. Ngoài ra, NHNN cũng đã và đang chỉ đạo các NHTM cổ phần phải huy động vốn góp của các DNNN và NHTM quốc doanh theo đúng quy định của “Luật các Tổ chức tín dụng” về loại hình NHTM cổ phần nhằm một mặt tăng nhanh vốn điều lệ, mặt khác nâng cao năng lực điều hành của bộ máy lãnh đạo.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho các NHTM cổ phần tăng nhanh vốn điều lệ, ngày 15/7/1998, Thống đốc NHNN đã ban hành Quy chế sáp nhập hợp nhất, mua lại đối với các TCTD Việt Nam. Việc ban hành quy chế này là một bước tiến mạnh mẽ trong việc tạo khung pháp lý cho hoạt động sáp nhập mua lại của các NHTM cổ phần, giúp các ngân hàng yếu kém, vốn thấp có cơ hội sáp nhập với các ngân hàng lớn hơn để tăng vốn điều lệ duy trì hoạt động.
Cho đến nay, với các biện pháp kiên quyết, dứt điểm của NHNN, các NHTM cổ phần đã cơ bản được chấn chỉnh và củng cố. Trong năm 1999, NHNN đã tiến hành các hoạt động sắp xếp như :
- Thu hồi giấy phép hoạt động và hoàn thành việc thanh lý đối với NHTM Viễn Đông.
- Thu hồi giấy phép hoạt động và tiến hành thanh lý đối với NHTM cổ phần Mai Phương.
- Sáp nhập NHTM cổ phần Đại Nam vào NHTM cổ phần Phương Nam.
- Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế mua lại tài sản Có của NHTM cổ phần Mê Kông và xúc tiến các thủ tục cần thiết để thu hồi giấy phép hoạt động của NHTM cổ phần Mê Kông.
- Giao Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam tham gia xử lý NHTM cổ phần Nam Đô, chuẩn bị tiến tới thu hồi giấy phép hoạt động của NHTM cổ phần Nam Đô.
- Chấp thuận cho NHTM cổ phần Tây Đô được chuyển thành NHTM cổ phần nông thôn Tây Đô.
- Giao cho NHNT Việt Nam tham gia xử lý NHTM cổ phần Vũng Tàu và làm các thủ tục cần thiết để thu hồi giấy phép hoạt động và thanh lý ngân hàng này.
- Đặt các NHTM cổ phần Việt Hoa, Vũng Tàu, Mê kông, Nam Đô, Mai Phương, Quảng Ninh trong tình trạng kiểm soát đặc biệt và các NHTM cổ phần Quế Đô, Đệ Nhất, VP Bank, Xuất nhập khẩu, Gia Định, Tứ giác Long Xuyên trong tình trạng giám sát của NHNN.
- Đệ trình Thủ tướng Chính phủ phương án kiểm soát đặc biệt và xử lý đối với một số ngân hàng khác.
Trước khi thực hiện Đề án chấn chỉnh và củng cố các NHTM cổ phần, trong cả nước có tới 51 NHTM cổ phần (31 NHTM cổ phần đô thị và 20 NHTM cổ phần nông thôn). Tính đến nay NHNN đã thu hồi giấy phép hoạt động của 6 NHTM cổ phần đô thị trong đó: giải thể 2 ngân hàng, sáp nhập hợp nhất và mua lại 1 ngân hàng, xuống hạng 2 ngân hàng. Bên cạnh đó, có 3 NHTM cổ phần khác không còn hoạt động trên thực tế và NHNN đang làm thủ tục thu hồi giấy phép. Các NHTM cổ phần đô thị phải ngừng hoạt động chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh, chỉ có Ngân hàng Châu á Thái Bình Dương có trụ sở chính tại Hà Nội. Các NHTM cổ phần đô thị nói trên bị sắp xếp lại do những yếu kém không thể khắc phục được như tỷ lệ nợ quá hạn và khả năng mất vốn cao, kinh doanh thua lỗ kéo dài, dính líu đến nhiều vụ án lớn… Như vậy, đến nay chỉ còn 21 NHTM cổ phần đô thị đang hoạt động, trong đó có 19 ngân hàng đã tăng đủ vốn điều lệ theo quy định của Chính phủ tại Nghị định 82/NĐ-CP (đối với NHTM cổ phần đô thị là 70 triệu USD; NHTM cổ phần nông thôn là 50 triệu USD), còn lại 2 ngân hàng chưa tăng đủ vốn đang được cho phép gia hạn thêm thời gian.
Đối với khối NHTM cổ phần nông thôn, trước khi thực hiện đề án, cả nước có 20 ngân hàng. Sau hơn 3 năm thực hiện chấn chỉnh và củng cố, đến nay, NHNN đã thu hồi giấy phép hoạt động của 7 ngân hàng, trong đó giải thể 1 ngân hàng, sáp nhập 4 ngân hàng và bán lại 2 ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu cũng là do những yếu kém kéo dài không thể khắc phục được. Bên cạnh đó, NHNN đã xếp 1 NHTM cổ phần đô thị xuống hạng thành NHTM cổ phần nông thôn (NHTM cổ phần Tây Đô). Do vậy, hiện nay nước ta chỉ có 15 NHTM cổ phần nông thôn đang hoạt động, trong đó có 14 ngân hàng đã tăng đủ vốn điều lệ.
Như vậy, chương trình chấn chỉnh hoạt động của các NHTM cổ phần và tăng vốn điều lệ đã đi được những bước cơ bản. Từ chỗ có 51 NHTM cổ phần trong cả nước (31 NHTM cổ phần đô thị và 20 NHTM cổ phần nông thôn), đến nay chỉ còn 36 ngân hàng (21 NHTM cổ phần đô thị và 15 NHTM cổ phần nông thôn) với 33/36 ngân hàng hội đủ vốn điều lệ theo quy định ((14) Tạp chí Thị trường tài chính-tiền tệ, tháng 9/2002
). Vấn đề đặt ra bây giờ là phải tiếp tục củng cố tổ chức, nâng cao năng lực điều hành và chuyên môn nghiệp vụ, hiện đại hoá công nghệ, giải toả các khoản nợ khó đòi và tăng đủ vốn điều lệ theo quy định và theo yêu cầu.
1.2.2.2. Về vấn đề tổ chức điều hành
Cơ cấu tổ chức và điều hành nhân sự là một trong những yếu kém của các NHTM cổ phần. Thực tế cho thấy, cơ cấu tổ chức tại các NHTM cổ phần còn nhiều hạn chế một phần là do sự quản lý lỏng lẻo về nhân sự với cách làm ăn chụp giật, phần lớn xuất phát từ rủi ro đạo đức cá nhân. Chính vì vậy, bộ máy tổ chức của các NHTM cổ phần thường xộc xệch, yếu kém về năng lực quản trị, điều hành và kiểm soát.
Để cải thiện tình hình trên, NHNN đã yêu cầu các ngân hàng này phải chỉnh sửa lại điều lệ theo quy định của pháp luật. Đồng thời, các NHTM cổ phần phải tiến hành hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, ổn định cổ đông góp vốn, chấn chỉnh lại về quản trị, kiểm soát và điều hành. Thông qua chấn chỉnh, NHNN đã tác động đưa ra khỏi HĐQT, Ban kiểm soát, Ban điều hành những cá nhân không đủ tiêu chuẩn đạo đức, thiếu kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm hoạt động tài chính - ngân hàng (NHTM cổ phần Việt Hoa, NHTM cổ phần Nam Đô, NHTM cổ phần Vũng Tàu…). Đồng thời, NHNN cũng đã tạm đình chỉ chức danh một số thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban điều hành vi phạm Điều 36, 37, 38, 39, 40, 77, 78 Luật các Tổ chức tín dụng tại một số ngân hàng như: NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần Nam á, NHTM cổ phần Phương Đông, Ngân hàng cổ phần phát triển nhà TP. Hồ Chí Minh, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần Đà Nẵng. Ngoài ra, cùng với việc giải quyết nhân sự, NHNN cũng đã xử lý nghiêm minh bằng hành chính và pháp luật các vi phạm pháp luật khác tại các NHTM cổ phần Nam Đô, Mê Kông, Quế Đô, Việt Hoa, Vũng Tàu… Nhờ những nỗ lực cải cách của Chính phủ và NHNN, những vụ việc cố ý làm trái và vi phạm pháp luật của HĐQT và Ban điều hành ở các NHTM cổ phần đã giảm hẳn, góp phần đổi mới cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực quản trị điều hành tại các ngân hàng.
1.2.2.3. Về hoạt động kinh doanh và cơ cấu nợ
Hiện nay, các NHTM cổ phần có mức độ thanh khoản quá thấp, nhiều ngân hàng chỉ ôm bất động sản (phần lớn là đất đai) không có khả năng chuyển hóa thành tiền, dẫn đến nguy cơ phá sản cao. Trong những năm qua, các NHTM cổ phần đã thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và bảo lãnh mở L/C sai quy định, gây ra tình trạng nợ nước ngoài nhiều với chi phí cao nên không thanh toán được. Hơn nữa, nhiều khoản nợ của các NHTM cổ phần được thực hiện dựa trên cơ sở quen biết lẫn nhau, không căn cứ trên điều kiện cho vay, hồ sơ và thủ tục không đầy đủ. Thêm vào đó, các số liệu phân tích trong các ngân hàng cổ phần thường thiếu chính xác, một phần do hệ thống kế toán quá tồi tệ, phần khác là do kinh doanh không trung thực, lập ra nhiều hệ thống sổ sách khác nhau nhằm gian lận và làm trái pháp luật. Chính những thông tin thiếu chính xác đã làm tăng tính rủi ro trong hoạt động của các NHTM cổ phần.
Trước tình hình trên, Bộ Chính trị đã yêu cầu phải nhanh chóng chấn chỉnh lại khu vực NHTM cổ phần và nhiệm vụ này đã được Chính phủ Việt Nam cụ thể hoá trong chương trình hành động của mình. Được sự chỉ đạo của Chính phủ, NHNN Việt Nam đã và đang triển khai chương trình này và đã thu được những kết quả nhất định. Về huy động vốn, tùy tình hình hiệu quả hoạt động của các ngân hàng cổ phần mà NHNN đưa ra chính sách giới hạn về tổng vốn huy động nhằm giảm rủi ro cho hoạt động của các ngân hàng. Đồng thời, NHNN cũng tiến hành thu hồi các khoản đầu tư vốn sai chế độ, đặc biệt là các khoản đầu tư liên quan tới cổ đông và lãnh đạo các ngân hàng với trị giá vào khoảng 35,3 tỷ đồng (15)Thông tin lãnh đạo, Bộ kế hoạch& Đầu tư, Quý II/2001.
.
Ngoài ra, trong thời gian qua, NHNN cũng đã và đang chỉ đạo các ngân hàng cổ phần rà soát hồ sơ tín dụng và chất lượng tín dụng; xử lý nợ quá hạn bằng các biện pháp kinh tế, hành chính và thậm chí bằng pháp luật nhằm tránh tổn thất cho ngân hàng. Quan trọng hơn, NHNN đã đưa ra quy định buộc các NHTM cổ phần phải lập quỹ dự phòng rủi ro, duy trì tỷ lệ ở mức an toàn và phải bảo hiểm tiền gửi theo quy định của NHNN. Hiện nay, quỹ rủi ro của toàn bộ hệ thống NHTM đã trích được 600 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã hỗ trợ công tác chấn chỉnh NHTM cổ phần thông qua việc thành lập và đưa vào hoạt động Công ty bảo hiểm tiền gửi vào tháng 3/1999. Những nỗ lực này không những góp phần giải quyết các khoản nợ cũ mà còn giúp ngăn ngừa các khoản nợ xấu trong tương lai thông qua việc cải thiện chất lượng hoạt động tín dụng tại các ngân hàng.
2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình cải cách
Một điều không thể phủ nhận là trong 5 năm 1998-2002, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nỗ lực nhằm đổi mới hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam. Những nỗ lực đó đã góp phần cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt động của các NHTM. Tuy nhiên, do còn nhiều tồn tại trong công tác quản lý và hỗ trợ của Chính phủ cũng như một số hạn chế trong hoạt động của bản thân các NHTM mà tốc độ cải cách còn chậm và kết quả đạt được chưa cao.
2.1. Những tồn tại trong công tác quản lý, hỗ trợ của Chính phủ và phối hợp của các Ngành hữu quan
2.1.1. Các văn bản pháp lý liên quan đến việc xử lý nợ tồn đọng còn nhiều bất cập so với thực tế và chưa đồng bộ, nhất quán
Thông tư liên bộ số 03/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC (TTLT03) là văn bản pháp lý quan trọng nhất đối với vi