MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I DNVVN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HIỆN NAY 1
I. Khái niệm và tiêu thức xác định 1
1. Khái niệm 1
2. Tiêu thức xác định 2
a. Tiêu thức xác định DNVVN của Việt Nam: 2
b. Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước trên thế giới. 4
II. Đặc điểm các DNVVN ở Việt Nam hiện nay 6
1. Quá trình hình thành và phát triển của DNVVN ở Việt Nam 6
2. Đặc điểm chung của các DNVVN ở Việt Nam 9
3. Ưu điểm và những điểm còn hạn chế 10
a. Ưu điểm 10
b. Các hạn chế 11
III. Sự cần thiết khách quan phải có chiến lược hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động xuất khẩu 14
1. Hỗ trợ các DNVVN là sự cần thiết khách quan 15
2. Nội dung chiến lược hỗ trợ 19
a. Khái niệm chiến lược hỗ trợ các DNVVN 19
b. Mục tiêu của chiến lược 20
c. Nội dung chiến lược hỗ trợ xuất khẩu 20
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHIẾN LƯỢC HỖ TRỢ CÁC DNVVN TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 25
I. Hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của các DNVVN ở VN hiện nay 25
1. Tình hình sản xuất kinh doanh của các DNVVN 25
a. Về giá trị tổng sản lượng 25
b. Về chất lượng sản phẩm 26
c. Về tốc độ phát triển sản xuất 28
d. Về hiệu quả hoạt động 29
e. Mức độ đóng góp và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 30
2. Tình hình xuất khẩu của các DNVVN 32
a. Xuất khẩu trực tiếp 38
b. Xuất khẩu uỷ thác 39
c. Xuất khẩu tại chỗ 39
II. Chiến lược hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động xuất khẩu 40
1. Thực trạng chiến lược 40
2. Đánh giá việc thực hiện một số chính sách trong chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN. 44
3. Những kết quả đạt được khi thực hiện chiến lược hỗ trợ xuất khẩu và những hạn chế cần khắc phục 51
a. Những kết quả đạt được 51
b. Những hạn chế của việc thực hiện chiến lược 54
CHƯƠNG III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN THÀNH CÔNG CHIẾN LƯỢC HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CHO CÁC DNVVN 56
I. Phương hướng chiến lược hỗ trợ xuất khẩu 56
1. Nâng cao và kiện toàn quản lý Nhà nước đối với DNVVN 56
2. Hình thành quỹ quốc gia hỗ trợ DNVVN 61
3. Thành lập và thực hiện các chương trình hỗ trợ cần thiết 64
a. Chương trình hỗ trợ đào tạo 64
b. Chương trình hỗ trợ cung cấp thông tin cho các DNVVN 64
c. Chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng 65
d. Chương trình hỗ trợ chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu 66
e. Chương trình hỗ trợ về tài chính, tín dụng cho các DNVVN để có vốn tham gia xuất khẩu 66
f. Chương trình hỗ trợ xúc tiến tiếp thị, hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu của các DNVVN 67
II. Một số kiến nghị nhằm thực hiện thành công phương hướng chiến lược trên 68
1. Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu đối với các DNVVN 68
2. Kiến nghị đối với các tổ chức hỗ trợ DNVVN 75
3. Kiến nghị đối với các nhà quản lý doanh nghiệp 76
LỜI KẾT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
87 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổng kim ngạch
Trực tiếp
ủy thác
Gia công
Tại chỗ
1999(nghìn USD)
(%)
69.254
100
29.331
42,35
37.821
54,61
988
1,43
1.114
1,61
2000(nghìn USD)
(%)
76.736
100
29.413
38,33
35.719
46,54
993
1,92
10.611
13,21
(Nguồn: Kết quả điều tra của HĐTW Liên minh HTX Việt Nam)
Chính nhờ hoạt động xuất khẩu mà mức độ đóng góp của các DNVVN cho nền kinh tế nói chung ngày một tăng.
* Mặt hàng xuất khẩu
Xuất phát từ cơ cấu của các thành phần kinh tế trong GDP, các mặt hàng xuất nhập khẩu chính của các DNVVN hiện nay bao gồm chủ yếu các loại hàng, nhóm hàng sau:
- Hàng nông lâm, thuỷ sản chế biến và chưa chế biến
- Hàng thủ công, mỹ nghệ (đồ gỗ trạm, khắc, hàng thêu ren, mây tre, hàng mỹ nghệ, lụa tơ tằm…)
- Hàng công nghiệp nhẹ (giầy dép, may mặc, thảm…)
Nhìn chung hàng hoá mà các DNVVN kinh doanh xuất khẩu hiện nay chủ yếu là những mặt hàng cần ít vốn và công nghệ đơn giản nhưng nhiều lao động. Giá trị gia tăng của một số mặt hàng không thật cao. Nhưng điều quan trọng là việc sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng này đã mang lại công ăn việc làm và thu nhập cho những người sản xuất.
Những mặt hàng do các DNVVN sản xuất có đặc điểm chung đều là sản phẩm của qui trình sản xuất qui mô nhỏ, manh mún, sử dụng máy móc, kỹ thuật lạc hậu, thô sơ, tốn nhiều sức lao động. Gần đây do quá trình cải cách kinh tế và mở cửa, các DNVVN đã có một số mặt hàng sản xuất mang tính chất công nghiệp nhưng vẫn thuộc loại công nghệ chưa cao và sử dụng nhiều lao động. Nhưng số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận với những ngành này rất ít. Do vậy, trừ những mặt hàng sản xuất theo qui trình công nghiệp như hàng dệt may, giầy dép… qui cách, phẩm chất của hàng hoá nhìn chung không đồng đều, không ổn định, đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mang tính chất nghệ thuật dân gian. Chính do những đặc điểm của hàng hoá, sản phẩm của khu vực DNVVN thường là kém sức cạnh tranh trên thị trường. Chi phí sản xuất cao, khó có thể thay đổi mẫu mã thường xuyên. Bản thân các DNVVN cũng khó thu nhận thông tin về hàng hoá trên thị trường vì chúng là những loại hàng hoá có đặc tính riêng. Còn đối với hàng sản xuất công nghiệp như dệt may, giầy dép thì hàng hoá có mẫu mã thay đổi nhanh theo mốt và theo thị hiếu của người tiêu dùng. Trong khi đó các doanh nghiệp này lại rất thiếu những kĩ năng thiết kế mẫu mã hàng hoá hiện đại. Đối với những loại hàng này, họ thường thụ động sản xuất theo mẫu mã, quy cách phẩm chất do khách hàng đưa ra.
Theo nhận định của các chuyên gia thương mại, triển vọng lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong năm 2002 sẽ tăng mạnh. Đây là cơ hội lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Nếu nắm bắt và đáp ứng tốt nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ làm đồ lưu niệm cho khách du lịch, thì giá trị "xuất khẩu tại chỗ" hàng thủ công mỹ nghệ trong năm nay sẽ không nhỏ. Tuy nhiên, để ngày càng có nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ được chấp nhận và ưa chuộng trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp sản xuất loại mặt hàng này cần áp dụng công nghệ mới để có sản phẩm chất lượng cao, kiểu dáng đa dạng, độc đáo, hấp dẫn, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Đồng thời các nhà kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ phải mạnh dạn " xông ra" thị trường nước ngoài, trực tiếp giao dịch với khách hàng để xuất khẩu đạt hiệu quả cao. Trong năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đạt khoảng 210 triệu USD, cao gấp hơn 3 lần kim ngạch xuất khẩu chè.
Trong năm qua có 44 nước và khu vực nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Trong đó có 10 nước và khu vực dẫn đầu.
Bảng 9: 10 nước và khu vực dẫn đầu về nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
Đơn vị tính: triệu USD
Nước và khu vực
Trị giá nhập khẩu
1. Nhật Bản
2. Đài Loan
3. Đức
4. Hà Lan
5. Hồng Kông
6. Bỉ
7. Anh
8. Hàn Quốc
9. Mỹ
10. Trung Quốc
26
19
12
8
9
7,5
6,7
6,4
5
4
(Nguồn: Báo Đầu tư số ra ngày 20/3/2001)
Trong năm tới, doanh thu của ngành thủ công mỹ nghệ sẽ được nâng cao hơn nhiều nếu các doanh nghiệp trong ngành nỗ lực khai thác cơ hội và các cơ quan quản lý nhà nước có sự quan tâm hỗ trợ đúng mức. Đối với một số các mặt hàng khác, tình hình xuất khẩu cũng đạt kết quả khá tốt.
Bảng 10: Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng trong 6 tháng đầu năm 2002
Đơn vị tính: triệu USD
Mặt hàng
Trị giá xuất khẩu
1. Dệt may
990
2. Thuỷ sản
816
3. Giầy dép
877
4. Thủ công mỹ nghệ
170
5. Chè
20,9
6. Lạc
20,5
( Nguồn: Tổng cục thống kê)
* Hình thức kinh doanh xuất khẩu
Hiện nay những hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu chính mà các doanh nghiệp đang áp dụng là:
- Xuất khẩu trực tiếp
- Xuất khẩu uỷ thác
- Xuất khẩu tại chỗ
Đối với các DNVVN, cả 3 hình thức xuất khẩu trên đều có nhưng với mức độ khác nhau. Hơn nữa, hiện nay không có số liệu chi tiết về các phương thức xuất nhập khẩu này của các DNVVN.
a. Xuất khẩu trực tiếp
Hoạt động xuất khẩu trực của các DNVVN chỉ mới có ở một số đơn vị và chưa phổ biến. Để có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, trước đây các DNVVN phải đáp ứng một số điều kiện về vốn và doanh thu cũng như nhân sự. Gần đây cũng có một số nới lỏng qui định về giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất đã trực tiếp xuất khẩu sản phẩm của mình và nhập khẩu những nguyên liệu phục vụ cho sản xuất.
Tỷ lệ giấy phép được cấp thuộc về các DNVVN rất thấp và nếu có họ cũng chưa khai thác được hết giấy phép đó để hoạt động.
Một trong những khó khăn cản trở việc xuất khẩu trực tiếp các DNVVN là do họ thiếu đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên ngành về xuất nhập khẩu.
b. Xuất khẩu uỷ thác
Đại đa số các DNVVN chưa có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu nên họ phải uỷ thác theo tỷ lệ quy định. Với phương thức này, các DNVVN gặp phải một số khó khăn sau:
- Không trực tiếp tiếp cận với thị trường xuất khẩu và hoàn toàn phụ thuộc vào đơn đặt hàng từ người xuất khẩu.
- Không chủ động nghiên cứu về thị trường, khách hàng, mẫu mã và tìm kiếm bạn hàng.
- Thời gian, thủ tục thực hiện uỷ thác còn phức tạp.
Trong trường hợp này, tính năng động của các DNVVN không được phát huy như xuất khẩu trực tiếp. Nhìn chung, các DNVVN thường thực hiện phương thức mua đứt bán đoạn. Do vậy càng thua thiệt hơn và càng thiếu hiểu biết về thị trường hơn.
c. Xuất khẩu tại chỗ
Việc mua bán cho những khách hàng nước ngoài hoặc mua bán cho những người kinh doanh chuyển khẩu vẫn diễn ra nhưng không có số liệu chi tiết để nói rõ qui mô của hình thức này. Hình thức mua bán này hết sức thụ động vì người cung cấp không có các thông tin về thị trường, thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng một cách chủ động mà họ sản xuất theo ý nghĩ chủ quan của mình là chính.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã được lợi rất nhiều từ việc tự do hoá chế độ ngoại thương. Tuy nhiên, trong khuôn khổ chính sách vẫn còn một số điểm có lợi cho các DNNN. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó có thể được kinh doanh những mặt hàng được Nhà nước bảo hộ, những mặt hàng được phân chia theo quota.
Theo kết quả điều tra 52 DNVVN và HTX ở 19 tỉnh, thành phố mới đây của Hội đồng trung ương Liên minh HTX Việt Nam, trị giá xuất khẩu của các doanh nghiệp này năm 2000 là 76.736 nghìn USD trong đó xuất khẩu trực tiếp là 29.413 nghìn USD (chiếm 38,33%) tổng kim ngạch xuất khẩu; trị giá gia công là 993 nghìn USD (chiếm 1,92%). Trị giá hàng hoá bán tại chỗ của các DNVVN lên tới 10.611 nghìn USD (chiếm 13,21%). Như vậy, có thể kết luận là xuất khẩu uỷ thác và bán hàng tại chỗ giữ vị trí quan trọng (chiếm 59,76%) tổng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp này.
II. Chiến lược hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động xuất khẩu
1. Thực trạng chiến lược
Như đã đề cập trong chương I, chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN bao gồm 6 nội dung chính. Đó là:
- Tạo thị trường
- Tạo nguồn vốn cho hoạt động xuất khẩu
- Đầu tư công nghệ
- Mở rộng khả năng tiếp cận thông tin kinh tế, thị trường quốc tế
- Đổi mới quan điểm hỗ trợ
- Hình thành khung khổ pháp lý hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN vẫn còn nhiều vấn đề.
ở Việt Nam, cơ chế và mô hình hỗ trợ được đổi mới cùng với việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. So với trước, có nhiều vấn đề trong cơ chế hỗ trợ đã thay đổi cơ bản theo hướng đi lên phù hợp với tình hình mới. Tuy vậy, do mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên cơ chế và mô hình hỗ trợ vẫn còn chịu ảnh hưởng lớn của tư duy theo cơ chế cũ; bên cạnh đó các chính sách hỗ trợ vẫn chưa thực sự phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường. Sau đây là những điểm cơ bản của cơ chế hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam.
- Quy trình hỗ trợ DNVVN: Trên cơ sở các quan điểm, đường lối, chiến lược của Đảng, Nhà nước thể chế hoá thành luật và các văn bản dưới luật, chính quyền các cấp triển khai thực hiện.
- Điểm khác nhau lớn trong chính sách hỗ trợ các DNVVN là ở Việt Nam có sự phân biệt giữa 2 nhóm DNVVN: chính sách hỗ trợ các DNNN khác với chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (xem bảng 10). Tuy nhiên, về điểm này đang được dần dần cải thiện do có sự thừa nhận vai trò quan trọng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Bảng 11: Sự khác nhau về cơ chế hỗ trợ của mô hình kinh tế cũ và mô hình kinh tế hiện nay
Cơ chế hỗ trợ trước đây
Cơ chế hỗ trợ hiện nay
Mục tiêu
Phát triển khu vực DNNN quy mô vừa và lớn.
Khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Đối tượng
Các DNNN và các HTX
Các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế
Hỗ trợ mọi mặt từ đầu vào đến đầu ra
Hỗ trợ một số khâu quan trọng mà doanh nghiệp cần
Phương pháp
Cung cấp đầu vào một cách trực tiếp, giúp tiêu thụ các sản phẩm đầu ra
Kết hợp cả các phương pháp trực tiếp, nhưng phương pháp gián tiếp là chủ yếu thông qua môi trường
Công cụ
Chủ yếu bằng kế hoạch phân bổ vật tư và sản phẩm
Chiến lược, chính sách và bộ máy điều hành
(Nguồn: Kỷ yếu hội thảo "Chính sách pháp luật và một số giải pháp hỗ trợ DNVVN ngoài quốc doanh"- Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý LERES)
Về quan điểm , chiến lược các DNVVN của Đảng và Nhà nước ta cũng có nhiều thay đổi. Từ sau Đại hội VI của Đảng (1986) đến nay, bằng việc xoá bỏ cơ chế cũ, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đã thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển mạnh. Vì thế mà đối tượng quản lý của Nhà nước thay đổi căn bản. Do vậy việc hỗ trợ các doanh nghiệp không chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mà còn có tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Bên cạnh đó, trong chính sách kinh tế đã chú ý tới hiệu quả kinh tế chứ không chỉ chú ý tới các doanh nghiệp lớn như trước đây. Nhà nước đã xác định việc phát triển các DNVVN là chiến lược lâu dài bên cạnh sự phát triển của doanh nghiệp lớn. Nhiều văn kiện của Đảng đã đề cập đến vấn đề này: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI , VII, VIII và nghị quyết của các Hội nghị Trung ương Đảng. Trong đó nghị quyết 16 của Bộ chính trị là văn kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với các DNVVN khu vực ngoài quốc doanh.
Nghị quyết này đã nêu rõ " Nhà nước và xã hội ủng hộ khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả và hợp pháp ". Điều quan trọng nhất trong quan điểm hỗ trợ ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới là đã dành quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp . Quan điểm hỗ trợ các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là làm cho các DNVVN phát triển và kinh doanh có hiệu quả. Trong nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá VII đã ghi rõ: " Phát triển các loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít, suất sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh".
Phát triển các DNVVN đã được xác định là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển loại doanh nghiệp này, theo nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ, Bộ kế hoạch và đầu tư đã thành lập Cục phát triển DNVVN.
Tính đến tháng 11 năm 2002 là tròn một năm NĐ 90/2001/NĐ-CP về hỗ trợ DNVVN có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên việc triển khai nghị định vẫn còn rất chậm. Theo ông Nguyễn Đình Cung, Trưởng Ban vĩ mô Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Thư ký tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp cho rằng cần phải tiếp thu quan điểm mới về hỗ trợ DNVVN đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu thì mới có thể vừa nhanh thực hiện lại vừa có hiệu quả.
Trong số gần 80.000 DNVVN trong cả nước hiện nay, mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ, không phải doanh nghiệp nào cũng gặp khó khăn về vốn. Nhiều người nghĩ rằng hỗ trợ doanh nghiệp là cấp tiền vốn, cơ sở vật chất cho họ. Một số chủ doanh nghiệp qua thực tế đã nhận thấy "tiền rồi sẽ hết". Họ muốn Chính phủ hỗ trợ họ bằng một môi trường kinh tế lành mạnh, bằng những chính sách cụ thể, hiệu quả để giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu đạt được hiệu quả mong muốn.
Hiện nay các DNVVN thường gặp nhiều rủi ro liên quan đến việc xuất khẩu, đó là:
+ Việc chuyển lợi nhuận về nước có thể bị hạn chế hoặc bị cấm
+ Những biến động về tỉ giá ngoại hối có thể làm giảm lợi nhuận hoặc không có lãi, thậm chí còn bị lỗ
+ Những rủi ro trong khâu thanh toán hay trong việc thực hiện hợp đồng
+ Những sự kiện bất khả kháng tại nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước quá cảnh như chiến tranh, nội chiến, hoặc bị Chính phủ nước ngoài quốc hữu hóa…có thể dẫn` tới thua lỗ, mất mát
+ Sản phẩm có thể không được chấp nhận trên thị trường nước ngoài
2. Đánh giá việc thực hiện một số chính sách trong chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các DNVVN.
* Chính sách hỗ trợ sản xuất sản phẩm xuất khẩu
Trong thời gian qua với nền kinh tế mở, các DNVVN của Việt Nam đã có sự thay đổi như đa dạng hoá sản phẩm và mặt hàng xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu chế biến sâu, giảm tỷ lệ hàng xuất khẩu thô, khai tác tiềm năng sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng truyền thống và nỗ lực tiềm kiếm những mặt hàng có gía trị xuất khẩu cao. Tuy nhiên, sản phẩm và mặt hàng xuất khẩu của các DNVVN do còn nhiều nguyên nhân vẫn còn có những hạn chế sau:
+ Các sản phẩm còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu chính sách khuyến khích và chưa thực sự quan tâm đầu tư đúng mức cho việc nghiên cứu cải tiến mẫu mã, thiết kế, chế tạo mẫu mới phù hợp thị hiếu, nhu cầu khách hàng. Hoạt động thiết kế mẫu mã đã có trong một số ngành như dệt may, da giầy, thủ công mỹ nghệ, cơ khí xuất khẩu nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều DNVVN vừa phải dựa vào mẫu mã do khách hàng gửi đến, thậm chí cả tài liệu kỹ thuật và chỉ nghiên cứu theo catalogue. Theo cách này giá sản phẩm không cao, người sản xuất Việt Nam lại bị động và yếu thế trong đàm phán. Một số cơ sở chủ động hơn cóp nhặt, tổng hợp các mẫu mã vốn đã được sử dụng để tạo thành sản phẩm nhưng nó không còn giá trị về " mốt". Hiện nay cán bộ chuyên thiết kế mẫu mã sản phẩm ở các DNVVN rất thiếu. Bên cạnh đó, phương tiện phục vụ cho việc nghiên cứu, thiết kế mẫu mã còn thiếu hơn, đặc biệt trong các doanh nghiệp nhỏ, chủ yếu làm bằng thủ công.
+ Sản phẩm xuất khẩu dưới dạng thô và sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao (70%) trong tổng giá trị hàng xuất khẩu trong khi lao động ở các DNVVN nói chung đang dư thừa nhiều. Xuất khẩu sản phẩm thô không những có giá trị xuất khẩu thấp mà còn nhanh chóng làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái ( nhất là hàng nông, lâm, thổ sản và khoáng sản).
Trong mấy năm gần đây, tại các DNVVN, việc đầu tư cho công nghiệp chế biến chưa tương xứng với tốc độ phát triển của những ngành sản xuất nguyên liệu, nhất là nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu (nông nghiệp, khai khoáng). Thực tế cho thấy xuất khẩu hàng thô và sơ chế thì vốn ít, dễ tìm thị trường, nhưng giá trị xuất khẩu thấp, còn xuất khẩu hàng đã qua chế biến thì cần vốn lớn và khó tìm thị trường (mà vốn và thị trường là hai khó khăn lớn hạn chế hoạt động của các DNVVN ở Việt Nam hiện nay). Nhiều khi sản phẩm xuất khẩu thì lãi nhưng chế biến sâu để xuất khẩu thì lại lỗ.
+ Chất lượng sản phẩm của Việt Nam còn kém, lại không ổn định, rất khó cạnh tranh với hàng nước ngoài ngay trên thị trường nội địa chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài. Mặc dù hàng của nước ngoại nhập sang Việt Nam qua con đường tiểu ngạch chưa phải là hàng xuất khẩu chất lượng cao song nhiều mặt hàng tiêu dùng của các DNVVN Việt Nam phải chịu mất thị phần trước hàng của Trung Quốc, Thái Lan… ngay tại thị trường Việt nam bởi chất lượng và mẫu mã. Còn hàng xuất khẩu của các DNVVN Việt Nam thì sao? Nói chung, hàng của chúng ta có khả năng cạnh tranh chưa cao. Ví dụ tại Cuba giá xe đạp Việt Nam xuất khẩu từ 35-40 USD/chiếc rất khó cạnh tranh với xe đạp Trung Quốc chỉ 30 USD/chiếc. Đó là chưa kể mẫu mã, kiểu dáng thay đổi chậm, chất lượng lại không ổn định nên rất dễ bị mất khách. Điều đáng lo ngại đối với các DNVVN của Việt Nam là nhiều mặt hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam và thị trường quốc tế liên tục thay đổi mẫu mã và giảm giá mà chất lượng không giảm.
Nhìn chung, Việt nam chưa tìm được cho mình những sản phẩm "độc đáo". Hầu như các DNVVN Việt Nam mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh thì đem chào bán.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này trước hết là do các DNVVN yếu kém về năng lực sản xuất, thứ hai là do Nhà nước thiếu chính sách hỗ trợ nói chung, hỗ trợ thương mại nói riêng đối với loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế.
* Chính sách tỷ giá
Hiện nay vấn đề tỷ giá trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, đặc biệt là thúc đẩy xuất khẩu còn có nhiều ý kiến khác nhau. Một số ý kiến cho rằng cần phải duy trì tỷ giá ổn định mới là tốt. Nếu như vậy thì khi sức mua kém sẽ cản trở xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu. Mặt khác khi các nước phá giá nội tệ sẽ dẫn tới giảm giá hàng xuất khẩu của họ trên thị trường quốc tế, từ đó ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Một số ý kiến lại cho rằng cần phải phá giá mạnh đồng tiền để thúc đẩy xuất khẩu.Thực tế Việt Nam không hoàn toàn như vậyvì trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, nông sản và khoáng sản chưa qua chế biến chiếm tỷ trọng rất cao. Những mặt hàng này ít nhạy cảm với tỷ giá hối đoái. Như vậy tỷ giá hối đoái tăng thì người xuất khẩu được lợi nhưng người làm hàng xuất khẩu là nông dân lại bị thua thiệt (Bởi lẽ tỷ giá hối đoái tăng thì nông dân phải mua phân bón, thuốc với giá cao. Những nhà xuất khẩu gạo được lợi song họ lại không đầu tư cho nông dân để thúc đẩy sản xuất gạo xuất khẩu). Do vậy, trên thực tế tỷ giá tăng cũng không thúc đẩy xuất khẩu tăng được. Các sản phẩm công nghiệp chế biến (dệt, may, da giầy…) có nhạy cảm với tỷ giá hối đoái hơn nhưng lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Những sản phẩm này phải sử dụng nguyên liệu nhập khẩu với tỷ lệ cao, hơn nữa, những mặt hàng này của Việt Nam lại bị hạn chế bởi quota của các nước nhập khẩu.
Không chỉ như vậy, phá giá đồng Việt Nam thì nợ của các doanh nghiệp trong nước tăng lên rất nhiều, sẽ gây những đảo lộn lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc phá giá đồng tiền nội địa trong điều kiện công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu chưa phát triển là biện pháp kịp thời nâng đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có sản phảm xuất khẩu, nhưng suy cho cùng là bán rẻ tài sản quốc gia, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên đất nước.
Một điều cần nói thêm là biện pháp phá giá hoặc nâng giá đồng tiền Việt Nam chỉ phát huy tác dụng điều tiết xuất nhập khẩu khi các nước bạn hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu không phá giá đồng tiền thanh toán của họ như mức độ phá giá hoặc lên giá đồng Việt Nam và các nước khác không áp dụng biện pháp chống phá giá hoặc lên giá. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy các nước trong khu vực phá giá gần 30% đã được duy trì trong mấy năm qua, cho dù thay đổi công nghệ nhanh, tăng năng suất lao động, chất lượng hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế song cũng khó đẩy mạnh được xuất khẩu. Do vậy, việc phá giá đồng tiền Việt Nam là việc cần phải thực hiện, song phá giá đến đâu là hợp lý. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay cần phải được điều chỉnh linh hoạt. Việc tính toán mức độ phá giá cần thận trọng, từ từ, tránh gây những biến động lớn trong nền kinh tế và trong tâm lý nhân dân, tránh gây tác động tiêu cực đối với DNVVN, nhất là các doanh nghiệp nhỏ ít vốn, dễ chịu tác động của biến động tài chính, tiền tệ, thị trường.
* Chính sách thị trường
Trong mấy năm qua, chính sách thương mại của Việt Nam đã có nhiều tác động mạnh mẽ tới việc mở rộng thị trường nước ngoài, khai thông thị trường nội địa. Tuy nhiên, chính sách phát triển thị trường trong thời gian vừa qua còn một số hạn chế gây không ít trở ngại cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp quy mô nhỏ.
+ Đối với thị trường nội địa
Việc xác lập hệ thống các kênh lưu thông từ sản xuất đến tiêu thụ chưa thực hiện hiệu quả. Trong thời gian qua, khâu này chủ yếu vẫn do tư thương đảm nhận mà doanh nghiệp thương mại tư nhân vẫn là loại hình quy mô nhỏ, buôn bán theo kiểu " phi vụ" qua nhiều khâu trung gian. Điều đó dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra, tranh mua tranh bán và gây ra tình trạng khan hiếm hoặc dư thừa trên thị trường.
Công tác nghiên cứu, dự báo thị trường, hướng dẫn doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường còn rất yếu. Phần lớn các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh còn mang tính tự phát.
Chưa có tổ chức, biện pháp hỗ trợ DNVVN trong những trường hợp kinh doanh sản xuất rủi ro, đặc biệt là hỗ trợ cho các doanh nghiệp loại quy mô nhỏ trong nền kinh tế .
Việc quản lý thị trường còn nhiều sơ hở, dẫn tới tình trạng hàng lậu tràn lan, hàng giả gia tăng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và người sản xuất.
Các doanh nghiệp thương mại quy mô nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế khác có khuynh hướng chú trọng tập trung các nguồn lực để dự trữ và tiêu thụ hàng ngoại hơn là tổ chức lưu chuyển hàng hóa trong nước. Vì vậy, thị trường tiêu thụ sản phẩm sản xuất trong nước đã không phát triển đúng mức.
+ Đối với thị trường nước ngoài
Các DNVVN rất thiếu thông tin về thị trường, khách hàng, công nghệ, đối thủ cạnh tranh… Một số doanh nghiệp chỉ có thông tin một cách chắp vá, không có điều kiện kiểm tra. Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam hoặc chịu thua thiệt về giá hoặc khó định hướng đầu tư. Chẳng hạn, do thiếu thông tin về thị trường, nên hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành thương lượng về giá gia công hay xuất khẩu chỉ biết dựa vào chi phí sản xuất và giá chào hàng của những doanh nghiệp khác. Cũng do thiếu thông tin, một số công ty xuất khẩu của Việt Nam có thói quen lúc chào giá mức cao để khi khách hàng đàm phán giảm giá là vừa. Song một số khách hàng, khi nhận được giá chào hàng quá cao, họ không giao dịch tiếp vì sợ mất thời gian và chi phí giao dịch, trong khi họ đã có sẵn nhà cung cấp.
Chính vì thế, hiện nay nhiều DNVVN mong muốn nhanh chóng có nguồn để mua thông tin.
* Chính sách bảo hộ
Trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng để tìm ra những biện pháp nhằm bảo hộ sản xuất của các doanh nghiệp trong nước nói chung, các DNVVN nói riêng.
Chính sách bảo hộ cho các DNVVN thể hiện chủ yếu thông qua bảo hộ bằng thuế quan và các qui chế thương mại.
- Bảo hộ bằng hàng rào thuế quan
Một số ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng được bảo hộ bằng hàng rào thuế quan, nhưng Nhà nước lại không đặt ra lịch trình và điều kiện nới lỏng dần sự bảo hộ. Điều đó dẫn tới những hệ quả tai hại:
+ Các doanh nghiệp ỷ vào thế được bảo hộ, không tranh thủ cơ hội nhanh chóng bứt lên, cải tiến công nghệ, giảm chi phí để có thể đủ khả năng đứng vững trên thị trường trong nước và vươn ra thị trường nước ngoài.
+ Thuế cao cộng với việc quản lý, kiểm soát của các cơ quan chức năng thực hiện chưa hiệu quả dẫn tới tình trạng buôn lậu tràn lan, hàng giả, trốn thuế gia tăng.
+ Mức thuế quan cao, lại thay đổi thường xuyên, không những không khuyến khích đầu tư dài hạn của các DNVVN thuộc kinh tế tư nhân mà đôi khi còn khuyến khích nhóm nào đó vì những lợi ích cục bộ, bằng những cách khác nhau vận động giành được các loại bảo hộ. Điều này chỉ mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp Nhà nước và các công ty nước ngoài liên doanh với DNVVN. Ngược lại với DNVVN nói chung, khối doanh nghiệp tư nhân nói riêng, chịu thiệt thòi do chính sách thuế quan gây ra.
Nhà nước đã cố gắng giảm nhiều biện pháp phi thuế quan, thay vào đó là chính sách thuế quan hiệu quả hơn. Song việc sử dụng hạn ngạch nhập khẩu và giấy phép nhập khẩu còn được áp dụng tương đối nhiều trong việc bảo hộ một số mặt hàng. Việc bảo hộ bằng hạn ngạch nhập khẩu có rất nhiều tác hại mà một trong những tác hại lớn do việc bảo hộ bằng hạn ngạch nhập khẩu gây ra là tình trạng độc quyền khá phổ biến dưới nhiều hình thức. Được hạn ngạch bảo hộ, các công ty độc quyền có điều kiện tự do tăng giá hơn khi được bảo hộ bằng thuế. Điều đó hạn chế tính cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa, chèn ép c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19445.doc