Khóa luận Chính sách công nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP 3

1.1. Tổng quan về chính sách công nghiệp. 3

1.2. Cơ sở và giới hạn của chính sách công nghiệp. 11

CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ - CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP CỦA NHẬT BẢN VÀ TRUNG QUỐC. 23

2.1. Chính sách công nghiệp Nhật Bản. 24

2.2. Chính sách công nghiệp Trung Quốc từ khi cải cách kinh tế cho đến nay. 38

2.3. Các bài học kinh nghiệm từ chính sách công nghiệp của Nhật Bản và Trung Quốc. 48

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020. 52

3.1. Bối cảnh mới và ảnh hưởng của nó tới chính sách công nghiệp Việt Nam. 52

3.2. Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. 61

KẾT LUẬN 70

 

doc76 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1922 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách công nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh đồng thời đã mang nhiều đặc trưng của nền kinh tế phát triển, tỷ lệ thất nghiệp thấp, giá cả ổn định và linh hoạt, cơ cấu công nghiệp hiện đại, tầm quan trọng của xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nặng tăng và thặng dư thường xuyên trong tài khoản vãng lai. Để tăng cường lợi ích từ thương mại hơn nữa và cũng để thực hiện các cam kết quốc tế sau khi đã gia nhập vào IMF năm 1952, GATT năm 1955, Chính phủ Nhật Bản đã thông báo kế hoạch tự do hoá thương mại, ngoại hối và tự do hoá thị trường vốn. Sự thay đổi trong môi trường thể chế đã tác động đến CSCN trong thời kỳ này. Tự do hoá thương mại có nghĩa là Chính phủ mất đi quyền lực của mình trong việc phân phối hàng nhập khẩu, trong khi tự do hoá thị trường vốn dẫn đến sự mất đi quyền lực đối với việc xét duyệt nhập khẩu công nghệ, liên doanh với các hãng nước ngoài và xây dựng nhà máy mới, mà việc xây dựng đó lại là hậu quả của biện pháp kiểm soát nhập khẩu công nghệ. Tóm lại, tự do hoá đã loại trừ động cơ của Chính phủ trong việc can thiệp vào hoạt động công nghiệp và việc phân bổ nguồn lực bằng cách sử dụng hệ thống giá cả được mở rộng ngay cả cho thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác trong thời kỳ này, sự phát triển của khu vực tư nhân từ đầu những năm 1950 khiến khu vực này trở thành nền tảng của nền kinh tế. Nói chung, khu vực này có xu hướng ra các quyết định độc lập và luôn sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Khi đó sự can thiệp của Chính phủ chỉ đạt được thông qua việc làm cho nó tin tưởng và chấp thuận. Vì vậy, thời kỳ này Chính phủ Nhật Bản cố gắng can thiệp tối đa bằng các “ hướng dẫn hành chính ” bởi việc sử dụng các đạo luật cụ thể là không thể thực hiện được nếu chúng trái với xu hướng phát triển theo hướng thị trường của nền kinh tế. Như vậy, CSCN trong thời kỳ này, một mặt góp phần thực thi chính sách tự do hoá thương mại và thị trường vốn đồng thời thận trọng từng bước giám sát đảm bảo quá trình tự do hoá không gây tổn hại cho nhiều ngành. Mặt khác, nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống công nghiệp tồn tại trong quá trình tự do hoá. Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ Nhật Bản đã triển khai nhiều biện pháp khác nhau, trong đó tiêu biểu là việc thiết kế “ trật tự công nghiệp mới ” và những biện pháp đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tăng cường chuyên môn hoá trong hợp tác sản xuất. 2.1.2.2. Nội dung và những đánh giá về chính sách công nghiệp. Với chủ trương chuyển đổi sang nền kinh tế mở, Chính phủ Nhật Bản đặc biệt chú ý tạo ra “ trật tự công nghiệp mới ” có khả năng đương đầu với những thách thức của sự chuyển đổi đó. Quá trình tạo lập “ trật tự công nghiệp mới “ đặt trọng tâm vào việc hiện đại hoá nền công nghiệp Nhật Bản nói chung, từ các hãng lớn đến các hãng có quy mô vừa và nhỏ. Nó bao gồm những vấn đề: mở rộng sự can thiệp của Chính phủ vào hoạt động của các hãng, điều chỉnh cạnh tranh của thị trường nội địa…và những vấn đề này được đưa vào trong “ Luật các ngành đặc biệt, năm 1963 ”. Các ngành đặc biệt trong luật này là các ngành ô tô, thép và hoá dầu. Các ngành này sẽ được ưu tiên thông qua các khích lệ về thuế, cung cấp tài chính. Luật này dựa trên luận điểm cho rằng các công ty của Nhật có quy mô quá nhỏ nên thị trường bị xé nhỏ và xảy ra tình trạng cạnh tranh quá mức, vì vậy cần phải điều chỉnh cạnh tranh của thị trường trong nước về mức hiệu quả đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, luận điểm này đã gây nên tranh cãi trong Hội đồng lập pháp. Người ta cho rằng “cạnh tranh quá mức” là một khái niệm không rõ ràng và quy mô nhỏ không phải là một trường hợp bất lợi trong cạnh tranh. Những doanh nghiệp có quy mô nhỏ mặc dù không có lợi thế kinh tế về qui mô nhưng nó lại có những ưu thế riêng của mình nhất là khả năng hoạt động hiệu quả nhờ sự linh hoạt và chi phí quản lý thấp. Bên cạnh việc gây nên tranh cãi, luật này còn không nhận được sự ủng hộ của giới doanh nghiệp. Họ lo ngại luật này sẽ tăng cường sự can thiệp của Chính phủ đối với các quyết định của khu vực tư nhân, đồng thời họ cho rằng việc thiết lập trật tự công nghiệp mới phải trên cơ sở quá trình “tự thích ứng” của các ngành công nghiệp. Vì vậy, cuối cùng luật này đã không được thông qua. Trong thời kỳ này, Chính phủ Nhật Bản còn đưa ra các biện pháp khuyến khích các nhà sản xuất chuyên môn hoá thông qua tập trung hoá sản xuất và ủng hộ sự hợp tác và liên kết các hãng để đạt được huyền thoại “kinh tế quy mô” cũng như việc nâng cao sức cạnh tranh quốc tế. Đối tượng mà CSCN này hướng vào là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như các doanh nghiệp của ngành chế tạo máy. Cơ sở của chính sách là: mỗi quốc gia có lợi thế so sánh nhất định trong việc sản xuất ra loại sản phẩm đặc thù của ngành vì nền công nghiệp mỗi nước có những độc đáo của riêng mình. Bên cạnh đó, theo như Uỷ ban Tư vấn Cơ cấu ngành của Nhật Bản nhận định trong thời kỳ này chất lượng và giá cả của sản phẩm Nhật Bản còn chưa đủ sức cạnh tranh quốc tế. Điều này được biện giải bởi ba lý do: + Thứ nhất là quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thuộc loại nhỏ so với tiêu chuẩn quốc tế. + Thứ hai là năng suất lao động thấp của số lượng lớn công nhân trong các ngành nghề phi sản xuất có liên quan đã khiến giá cả của phần lớn các chủng loại máy nội địa cao hơn so với mặt bằng quốc tế. + Thứ ba là mặc dù đã có những biện pháp nhất định đẩy mạnh R&D cũng như ứng dụng công nghệ mới vào việc sản xuất các sản phẩm, thế nhưng vẫn cần có những biện pháp mới ứng dụng những công nghệ tiên tiến để tạo ra những ưu thế đặc biệt cho các sản phẩm của Nhật Bản trong cạnh tranh quốc tế nhất là các loại máy lớn, chính xác và có nhiều tính năng tốt. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã đưa ra một số biện pháp như: khuyến khích R&D, đưa ra các tiêu chuẩn công nghiệp thống nhất, phối hợp sự lựa chọn sản phẩm để tăng cường chuyên môn hóa và các ưu đãi thuế, tài chính để khuyến khích hợp tác, liên kết. Tuy nhiên, các biện pháp này không có vai trò rõ rệt bởi các hiệp hội công nghiệp có khả năng ảnh hưởng mạnh đến các chính sách của Chính phủ và sự tự chủ của các hãng đã tăng lên đáng kể trong thời kỳ này. Mặt khác, Chính phủ còn đưa ra các thoả thuận về tập trung hóa sản xuất thông qua hiệp hội công nghiệp của ngành chế tạo máy. Tuy nhiên, các thoả thuận này tỏ ra không có hiệu lực vì không có yếu tố bắt buộc cũng như bất kỳ sự trừng phạt nào được nêu ra trong thoả thuận này.[134, 15]. Tóm lại, mặc dù mục tiêu của CSCN đã đạt được trong cuối những năm 60, nền kinh tế Nhật Bản ổn định, tăng trưởng rất nhanh, xuất khẩu đạt 2,4 tỷ USD trong năm 72 gấp 6 lần so với năm 1960, nhưng xét trên khía cạnh ảnh hưởng của chính sách khó có thể nói là những thành công trên là kết quả của CSCN. Vì như trên đã phân tích, các CSCN đã giảm dần vai trò của mình cùng với sự phát triển của một nền kinh tế thị trường mở và đặc biệt là sự tăng trưởng của khu vực tư nhân. Do đó, động lực của sự phát triển kinh tế Nhật Bản thời kỳ này chính là một môi trường thị trường cạnh tranh mạnh mẽ cùng với sự vận hành trơn chu của hệ thống giá cả trong một nền kinh tế thị trường phát triển. Ngoài ra, CSCN trong những năm 1960 đã tập trung quá nhiều vào nền kinh tế quy mô cũng như việc đối phó với tình trạng cạnh tranh quá mức mà quên đi chức năng trung tâm của mình là phát triển ngành nhằm sửa chữa những trục trặc của thị trường. Điều này chỉ xuất hiện trong thời kỳ sau khi có sự cảnh báo của tình trạng ô nhiễm và sự thống trị của các độc quyền đa phương. 2.1.3. Thời kỳ sau khủng hoảng dầu mỏ (1973) cho đến trước 1990. Bước vào thập kỷ 70s, nền kinh tế Nhật Bản đã gặp phải những vấn đề nảy sinh từ quá trình tăng trưởng nhanh của thời kỳ trước. Giới hạn của sự tăng trưởng thể hiện qua: tình trạng gia tăng ô nhiễm môi trường và những vấn đề xã hội, việc đạt thặng dư liên tục và giá trị lớn đã dẫn đến sự mâu thuẫn trong thương mại giữa Nhật với các nước khác mà đặc biệt là Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, kinh tế Nhật Bản bộc lộ nhiều yếu kém và dễ tổn thương, đó là việc quá phụ thộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài và sự mất cân đối trong cơ cấu công nghiệp. Trước bối cảnh như vậy, mục tiêu và nội dung của CSCN đã thay đổi đáng kể. Trọng tâm của CSCN đặt vào các chính sách hỗ trợ các ngành suy giảm và phát triển các ngành mới nhằm tăng cường khả năng tự điều chỉnh của cơ cấu công nghiệp. Các ngành mới trong thời kỳ này được lựa chọn trên cơ sở những ngành có nhiều hàm lượng chất xám hoặc những ngành công nghệ cao. Về vấn đề thiết kế cơ cấu công nghiệp sử dụng nhiều hàm lượng chất xám, trong những năm 70 và 80, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra “ tầm nhìn ” như là một phương pháp để Chính phủ cung cấp thông tin cho các hãng tư nhân về khuynh hướng vận động của cơ cấu ngành. Mục tiêu “ tầm nhìn ” hướng tới là phát triển cơ cấu công nghiệp sử dụng nhiều hàm lượng chất xám và nó đã định hướng cho hành vi của các hãng, thúc đẩy các hãng vận động theo hướng đó. Trong đó, nội dung của “ tầm nhìn ” phản ánh mong muốn tập trung vào các ngành sử dụng nhiều hàm lượng chất xám, thay thế cho trọng tâm trước đây dành cho công nghiệp nặng và hoá chất. Điều này được giải thích trên hai khía cạnh. Về lý thuyết, việc phát triển những ngành này sẽ tiết kiệm năng lượng, không gây ô nhiễm môi trường và tạo ra những lợi thế cạnh tranh mới góp phần nâng cao thành tựu kinh tế, xã hội. Còn trên phương diện thực tế, đó là một quá trình tự nhiên, khi vào cuối những năm 60, sự tăng trưởng của những ngành công nghiệp nặng và hoá chất đã gặp giới hạn của kinh tế quy mô, còn những ngành lắp ráp và chế tạo máy móc, thiết bị điện tử…, những ngành sử dụng nhiều lao động có tri thức nói chung, đã phát triển rất nhanh. Các công cụ mà Chính phủ sử dụng để thực hiện nội dung này chủ yếu là những khoản trợ cấp cho R&D, ưu đãi về thuế và tài chính dựa trên luật khuyến khích các ngành chế tạo máy và thông tin. Nói chung, các ngành này đã phát triển tương đối nhanh chóng từ năm 1975 trở đi. Nếu lấy năm 1975 là mốc, chỉ số 100 thì đến năm 1982 chỉ số sản lượng bình quân của các ngành lắp ráp, chế tạo như sản xuất máy tính, vi mạch, người máy, máy bay, sản xuất máy công cụ điều khiển bằng số, ngành phân phối, xử lý thông tin… đã tăng lên 213,7 và tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu của Nhật Bản. [158, 15]. Tuy nhiên, người ta thấy rằng chỉ một số ít trường hợp CSCN tác động tới sự tăng trưởng này vì trên thực tế số lượng các ngành được chính sách này hướng đích là rất nhỏ, bao gồm các ngành máy tính, vi mạch, sản xuất máy bay, năng lượng và xử lý thông tin. Tại sao không có nhiều ngành được coi là ngành quan trọng đối với việc khuyến khích theo khái niệm về một cơ cấu ngành sử dụng nhiều chất xám ?. Một sự lý giải là vào thời kỳ này các hãng hàng đầu của Nhật Bản đã tích luỹ được nguồn vốn và các nguồn lực quản lý to lớn nên không thích sự can thiệp của Chính phủ vào ngành. Nói cách khác, sự phát triển của khu vực tư nhân đã thay đổi tư tưởng của nó đối với các biện pháp của CSCN theo chiều hướng phản ứng ngay cả khi nó được thiết kế phù hợp với thị trường. Mặc dù vậy, có thể nói CSCN trong thời gian này đã đem lại những hiệu quả nhất định, đặc biệt trong lĩnh vực trợ cấp cho R&D những công nghệ cao và việc hướng sự phát triển của nền kinh tế đối với ngành dịch vụ. Điều này phù hợp với lý thuyết chính sách công nghiệp được đưa ra ở chương 1 và nó không thể bị coi là trái với cơ chế thị trường. Về việc điều chỉnh các ngành suy giảm, sau khi nền kinh tế Nhật Bản phải đương đầu với sự giảm sút tăng trưởng đầu những năm 70, ngành công nghiệp đã bị suy thoái kéo dài tập trung vào các ngành vật liệu cơ bản như tinh chế nhôm, tơ nhân tạo, dệt, đóng tàu… Để giải quyết tình hình này, Chính phủ Nhật Bản phải tiến hành điều chỉnh thông qua luật ổn định công nghiệp. Luật này được đánh giá là có dấu hiệu tích cực trong phạm vi thời gian thực hiện khi đạt được 95% các mục tiêu điều chỉnh [184, 15]. Tuy nhiên, hoạt động liên doanh để khắc phục sự suy giảm đã hình thành các Carten và nó gây trở ngại đối với việc điều chỉnh hiệu quả trong ngành. Vì vậy, vào năm 1983 Chính phủ đã ban hành thêm Luật hoàn thiện cơ cấu. Luật này đã giảm dần các biện pháp hạn chế cạnh tranh và khích lệ cải cách cơ cấu thị trường và sự phát triển công nghệ. Vì vậy, nó ngay lập tức đã có hiệu quả đem lại khả năng hồi phục nhanh chóng của các ngành. Các phân tích ở trên cho thấy CSCN trong thời kỳ sau khủng hoảng dầu mỏ đến trước năm 1990 có những dấu hiệu tích cực.Trước hết, đó là bởi vì các chính sách này được thực hiện trong một số nhỏ các ngành và đặt trọng tâm vào R&D, sự điều tiết ô nhiễm, việc tăng cường hỗ trợ các ngành suy giảm…cho nên nó là những chính sách phù hợp, ngay cả khi xem xét theo quan điểm lý thuyết về giới hạn CSCN đã được đưa ra ở chương 1. Mặt khác, nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, các CSCN đã làm xuất hiện hành vi độc quyền thông qua việc tăng cường tập trung hoá ngành. Do đó, CSCN đã làm méo mó sự phân bổ nguồn lực một cách khá hiệu quả. Từ sau năm 1990, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài, đặc biệt diễn ra một cuộc “ khủng hoảng cơ cấu ” trong các ngành công nghiệp Nhật Bản. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, suy thoái của Nhật Bản được một số nhà nghiên cứu đề cập đó là các CSCN được thực thi ở thời kỳ trước đó. Ví dụ như việc Chính phủ cố gắng trợ giúp những ngành công nghiệp truyền thống (dệt, hoá dầu, than, đóng tàu…) mặc dù những ngành này không có lợi thế cạnh tranh nữa khiến có những méo mó trong hệ thống giá cả và những khiếm khuyết trong hệ thống công nghiệp của Nhật Bản hay việc khuyến khích đầu tư ra nước ngoài đã làm cho các ngành công nghiệp trong nước sau này trở nên “trống rỗng”. Tuy nhiên, dù thế nào chăng nữa, các CSCN trong thời kỳ này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi đối với quá trình tăng trưởng, ổn định, tiến bộ của nền kinh tế Nhật Bản trên cơ sở can thiệp vào những lĩnh vực có xuất hiện trục trặc của thị trường. 2.2. Chính sách công nghiệp Trung Quốc từ khi cải cách kinh tế cho đến nay. Trung Quốc là một minh chứng cho sự tiếp diễn của sự thần kỳ Đông á. Từ khi cải cách kinh tế vào năm 1978 cho đến nay, Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng khoảng 9%, chiếm 2/3 tổng mức tăng trưởng của các nước thu nhập thấp trên thế giới. Xét theo mức bình quân đầu người, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc đã tăng khoảng 8% một năm, tăng hơn 4 lần sau hai thập kỷ. [372, 20]. Như vậy, thành tựu kinh tế của Trung Quốc đã tương đương với thành tựu của 8 nền kinh tế tăng trưởng cao ban đầu là Hồng Kông, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia, Singapore, Đài Loan và Thái Lan. Tuy nhiên, Trung Quốc có dân đông gấp 3 lần so với tất cả các nền kinh tế đó cộng lại và điều này khiến cho việc đạt được những thành tựu trên càng đáng khâm phục. Phần này phân tích CSCN Trung Quốc nhằm xác định vai trò của chính sách này đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Sự phân tích sẽ đặt trọng tâm của CSCN vào các chính sách ưu tiên phát triển ngành thuộc khu vực công nghiệp. Để thuận lợi cho việc xác định những định hướng và công cụ của CSCN Trung Quốc, ta sẽ gắn mục tiêu, nội dung của CSCN với sự điều chỉnh chiến lược vai trò Nhà nước ở Trung Quốc trong thời kỳ bắt đầu cải cách kinh tế (năm 1978) cho đến nay. Do đó, ta chia CSCN của Trung Quốc làm hai giai đoạn: giai đoạn một diễn ra trong 15 năm, từ năm 1978 đến năm 1992, CSCN được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi; còn giai đoạn hai được bắt đầu từ 1992 và đến nay vẫn còn tiếp diễn, CSCN trong nền kinh tế thị trường. 2.2.1. Giai đoạn kế hoạch hóa từ năm 1978 đến 1992. 2.2.1.1. Bối cảnh và mục tiêu của chính sách công nghiệp. Giai đoạn một được bắt đầu từ cuối những năm 70 với các điều kiện khá đặc biệt. Những điều kiện này đã dẫn tới quá trình cải cách kinh tế ở Trung Quốc đồng thời nó cũng tạo ra một khuôn khổ nhất định cho CSCN. Về phương diện trong nước, do sai lầm từ các cuộc “Đại nhảy vọt” và “Đại cách mạng Văn hoá ” từ thời kỳ trước, nền kinh tế Trung Quốc chịu những thiệt hại nghiêm trọng về mọi mặt. Mặc dù sau đó, nền kinh tế đã dần ổn định và đi vào quĩ đạo phát triển nhưng khoảng cách chênh lệch trình độ phát triển giữa Trung Quốc với các nước phát triển trên thế giới ngày càng xa. Bên cạnh đó, những dấu hiệu của sự phát triển không lành mạnh của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ rõ rệt. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước được coi là thành phần cơ bản chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân làm ăn không hiệu quả, thậm chí nhiều doanh nghiệp bị lỗ. Trong lĩnh vực công nghiệp, mô hình công nghiệp hoá theo kiểu Liên Xô đã rơi vào tình trạng khủng hoảng bởi tính chắp vá, không đồng bộ và không thoát khỏi vòng luẩn quẩn “ thiếu đầu vào dẫn đến thiếu đầu ra, do đó lại thiếu đầu vào…”. Hơn thế nữa, do ảnh hưởng bởi nền kinh tế “ đóng ”, việc thiếu thốn nguyên vật liệu, kỹ thuật tiên tiến cùng với môi trường bao cấp đã khiến nền công nghiệp lúc này có sức cạnh tranh rất thấp. Về phương diện quốc tế, có hai nhân tố chủ yếu tác động đến CSCN Trung Quốc: - Thứ nhất, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nền kinh tế thế giới đang chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá kinh tế. Quá trình này tạo ra sức ép phát triển kinh tế trên cơ sở tự do hoá đối với mọi quốc gia. Nó mang đến các cơ hội cũng như những thách thức cực lớn đối với các nước đang phát triển như Trung Quốc. Vì vậy, các quốc gia cần phải có chính sách thích nghi với quá trình này. - Thứ hai, sự phát triển của các nền kinh tế trong khu vực thời kỳ này được nhận định là kết quả của mô hình chính sách công nghiệp, điều này đã trở thành động lực cổ vũ Trung Quốc thực hiện CSCN, đồng thời, nó cung cấp những bài học kinh nghiệm cho công tác hoạch định và thực thi CSCN của Trung Quốc. Dưới sự tác động của các nhân tố kể trên, mục tiêu của các chính sách kinh tế nói chung và CSCN của Trung Quốc trong giai đoạn này là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, cải thiện mức sống, khắc phục tình trạng thiếu cung, chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá đất nước. Dưới đây CSCN của Trung Quốc được phân tích với nội dung chủ yếu là các biện pháp chính sách thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp nhẹ bên cạnh vẫn duy trì chính sách bảo hộ với những ngành tập trung nhiều vốn và kỹ thuật cao. 2.2.1.2. Nội dung của chính sách công nghiệp. Năm 1978, Trung Quốc thực hiện những bước đi đầu tiên của mình đối với công cuộc cải cách kinh tế. Cải cách được thực hiện đầu tiên ở nông thôn sau đó lan rộng sang các khu vực khác. Trong lĩnh vực công nghiệp, CSCN đã thực hiện chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ. Các ngành được lựa chọn để ưu đãi là những ngành công nghiệp sợi, dệt may, điện tử dân dụng, chế biến nông sản…Các biện pháp được Chính phủ sử dụng chủ yếu trong những năm đầu cải cách là các biện pháp kiểm soát trực tiếp về số lượng và giá cả, các biện pháp phân bổ vốn, kỹ thuật và ngoại hối thông qua các công cụ như hạn ngạch, quản lý giấy phép, quản lý danh mục hàng hoá đặc biệt, trợ cấp, thuế, thuế quan... [388, 12]. Nhờ các ưu đãi trên, cùng với quá trình cải cách đã có sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư vào các ngành này từ nguồn vốn ngoài ngân sách, chủ yếu là vốn tự đầu tư và vốn của nước ngoài. [127, 9]. Điều này được lý giải bởi hai khía cạnh: thứ nhất, vai trò của Nhà nước đối với việc định hướng đầu tư; thứ hai, trong qua trình cải cách, các doanh nghiệp ngày càng có quyền tự chủ hơn về tài chính nên có khả năng tự quyết định đầu tư. Tuy nhiên, động lực tăng trưởng của các ngành kể trên cũng như của nền kinh tế trong thời kỳ này đến từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới thành lập, chủ yếu là các doanh nghiệp “tập thể” ở nông thôn được gọi tên là “ xí nghiệp hương trấn ”. [377, 20]. Về cơ bản, các XNHT do chính quyền địa phương thành lập nhưng hoạt động trên các nguyên tắc của thị trường. Ở góc độ này, chính quyền địa phương đóng vai trò như là một tập đoàn điều hành các xí nghiệp trong khu vực mình. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện rất nhiều chính sách hỗ trợ, ưu đãi để khuyến khích loại hình doanh nghiệp này. Ví dụ như chính phủ đã hạ thấp các mức thuế áp dụng cho tất cả các XNHT, miễn thuế 3 năm đầu cho các xí nghiệp mới thành lập, hạ thấp thuế xuất nhập khẩu, điều chỉnh tỷ giá nhân dân tệ, thu hẹp phạm vi quản lý giấy phép… và tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi. Trong giai đoạn này đã bùng nổ phong trào hình thành và phát triển các XNHT. Các XNHT đã tăng lên cả về số lượng lẫn tiềm lực, đến năm 1992, đã có gần 7 triệu XNHT hoạt động trong công nghiệp, đạt tốc độ tăng giá trị sản lượng so với năm1978 là 25%. [94, 9]. Nói chung, các XNHT đã góp phần tạo ra động lực mới cho quá trình tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc thông qua sự đóng góp trong tỷ trọng GDP và khả năng tạo ra việc làm. Đồng thời, chúng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hay quá trình công nghiệp hoá với những bước đi nhanh, vững chắc. Sự phát triển mạnh mẽ của các XNHT là kết quả của việc phát huy được lợi thế so sánh của Trung Quốc trong khoảng thời gian đầu thực hiện “ chính sách mở cửa “ và việc sản xuất những hàng tiêu dùng…đã tận dụng được các “ khoảng trống ” của một thị trường nội địa rộng lớn. Tuy vậy, mặc dù không phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển của các XNHT nhưng rõ ràng CSCN trong thời kỳ này đã có ảnh hưởng nhất định mang tính tích cực đối với sự phát triển của các XNHT. Sự can thiệp của Nhà nước là phù hợp với bối cảnh của Trung Quốc trong điều kiện của một nền kinh tế đang chuyển đổi với sự thiếu thốn về mặt thể chế như quyền bảo đảm tài sản, thị trường vốn, các thể chế thuế khoá và ngân sách. (theo Qian, 1998 ). [384, 20]. Cùng với các XNHT, sự phát triển của các ĐKKT của Trung Quốc trong thời kỳ này cũng là một nhân tố quan trọng đóng góp vào thành tích tăng trưởng của cả nước. ĐKKT là khu vực mà Chính phủ Trung Quốc thử nghiệm chính sách theo định hướng vừa hướng ngoại vừa hướng nội trên các nguyên tắc của thị trường. Nó tượng trưng cho một nền kinh tế thu nhỏ có quy chế hoạt động tự do, linh hoạt. Nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp trong những ngành xuất khẩu, các ĐKKT sử dụng các chính sách ưu đãi như chính sách thuế, đất đai và các giấy phép xuất nhập khẩu và các khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước… Nhờ vậy, các ĐKKT thu hút được một lượng vốn lớn đầu tư từ khu vực tư nhân và quan trọng hơn cả là đầu tư nước ngoài mà đi kèm theo nó là vốn, kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý...Do đó, các doanh nghiệp hoạt động ở đây đã tăng trưởng rất nhanh và trở thành những hãng lớn, có sức cạnh tranh quốc tế. Từ những phân tích về ĐKKT như trên, có thể thấy rằng các ĐKKT đã được thành lập nhằm tạo ra môi trường thuận lợi chung để phát triển tất cả các ngành hoạt động kinh doanh trong đó. Như vậy, nhìn từ giác độ ngành, rõ ràng ĐKKT không phải là một CSCN thực thụ bởi vì CSCN chỉ bao gồm các biện pháp, chính sách thúc đẩy những ngành được lựa chọn. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ khác cũng phải thấy rằng các ngành công nghiệp được lựa chọn trong thời kỳ này mà được tổ chức sản xuất kinh doanh ở trong các ĐKKT thì đã có điều kiện phát triển hết sức nhanh chóng. Vì vậy, ở một khía cạnh nhất định, CSCN đã có vai trò nhất định đối với sự tăng trưởng của các ngành dệt may và điện tử. [110, 9]. Bên cạnh việc thúc đẩy những ngành công nghiệp nhẹ, ngành sử dụng nhiều lao động, CSCN trong thời kỳ này vẫn duy trì các chính sách bảo hộ đối với các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp hoá chất như: gang thép, hoá dầu, than… và xu hướng này càng gia tăng từ năm 1985 khi một số ngành cơ bản gặp khó khăn nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc tập trung vào những ngành không có lợi thế so sánh này đã không có hiệu quả như mong muốn và cơ cấu ngành của Trung Quốc chưa có những thay đổi rõ rệt. (Bảng 2.2) Tóm lại, qua những phân tích trên có thể thấy CSCN của Trung Quốc trong giai đoạn này chỉ đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của các ngành nói riêng và nền kinh tế nói chung. CSCN cũng đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các ngành truyền thống như dệt may, ngành mũi nhọn như điện tử phát triển nhưng trên thực tế sự phát triển của những ngành này như đã phân tích không phải là kết quả của CSCN. Điều này cũng phản ánh CSCN của Trung Quốc trong giai đoạn này là kém rõ ràng trong việc lựa chọn và thúc đẩy những ngành phát triển. Mặt khác, những phân tích trên còn cho thấy CSCN trong giai đoạn này đã có những thất bại đáng kể. Đầu những năm 90, sự gia tăng đầu tư quá mức vào các ngành công nghiệp nhẹ, các ngành sử dụng nhiều lao động đã khiến nhiều ngành dư thừa công suất, trình độ kỹ thuật, công nghệ không được cải tiến và gây mất cân đối cơ cấu công nghiệp, cơ cấu ngành cũng như dẫn đến sự phân hoá giữa các vùng. Vì vậy, những méo mó trong hệ thống giá cả do CSCN gây ra đã không có hiệu quả và CSCN cần phải được điều chỉnh. 2.2.2. Giai đoạn kinh tế thị trường từ năm 1992 đến nay. Cơ sở CSCN trong giai đoạn này được lý giải bởi các yếu tố sau: - Thành công của giai đoạn cải cách đầu tiên đã làm cho nền kinh tế ổn định, đi vào quỹ đạo tăng trưởng nhanh, đồng thời Trung Quốc đã có những điều kiện nhất định để chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docqth29.doc