Một trong những bài học quý báu nhất rút ra từ chính sách cải cách mở cửa nói chung, và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng của Trung Quốc là việc phá bỏ sự cứng nhắc trong cơ chế phân bổ nguồn lực, tạo điều kiện để những nguồn lực trong một thời gian dài không được sử dụng hoặc sử dụng lãng phí được chuyển đến những ngành mà đất nước có lợi thế so sánh (như dệt may và các ngành công nghiệp nhẹ khác). Quá trình di chuyển lao động ở Trung Quốc được bắt đầu từ cuối những năm 70 và cho đến nay vẫn đang tiếp tục diễn ra. Để hướng nguồn lực đổ vào những ngành mà Trung Quốc có lợi thế so sánh (nhưng trong một thời gian dài bị kìm hãm), hàng loạt các chính sách được áp dụng như chính sách định hướng vùng và ngành mục tiêu, phát triển hình thái gia công xuất khẩu, thu hút vốn FDI vào các ngành định hướng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Có thể hình dung nếu việc phi tập trung hóa và mở rộng quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương có tác dụng phá vỡ con đập chắn ngang một dòng sông lớn, thì các chính sách tiếp theo được thực hiện để dẫn nguồn nước lan tỏa tới những nơi cần thiết.
105 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4025 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
goài ồ ạt đổ vào Trung Quốc có xu hướng ngày càng gia tăng vào những ngành xuất khẩu mà Trung Quốc có lợi thế so sánh. Kết quả là Trung Quốc đã thành quốc gia đứng đầu thế giới về thu hút FDI, năm 2010 đã chạm mức cao kỷ lục là 105,74 tỷ NDT, tăng 17,4% so với năm trước (15) Cục Thống kê Trung Quốc
Bên cạnh đó, Trung Quốc vẫn áp dụng chính sách can thiệp có lựa chọn để hướng FDI vào các lĩnh vực ưu tiên, từ đó góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc cũng rất coi trọng việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, không tập trung đầu tư cho thị trường riêng biệt nào. Những cải cách định hướng thị trường đó góp phần làm cho hệ thống ngoại thương của Trung Quốc ngày càng có tính trung lập cao hơn, tạo điều kiện khuyến khích hoạt động xuất khẩu.
Từ năm 2002 trở đi, Trung Quốc tiếp tục áp dụng các chính sách thúc đẩy xuất khẩu truyền thống và phù hợp với thông lệ quốc tế như miễn, giảm và hoàn thuế, đồng thời chuyển sang đẩy mạnh thực hiện các chính sách hỗ trợ xuất khẩu được áp dụng rộng rãi trên thế giới như: cung cấp tín dụng cho người mua nước ngoài, cho vay ưu đãi theo hiệp định cấp chính phủ, bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Việc cung cấp tín dụng xuất khẩu do Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc đảm nhiệm với đối tượng chủ yếu là các sản phẩm cơ điện, điện tử, đóng tàu và các mặt hàng công nghệ mới - công nghệ cao. Có thể nói các chính sách hỗ trợ trên rất có hiệu quả trong việc khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng chế tạo, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ mới - công nghệ cao, tạo điều kiện để Trung Quốc tiếp cận vững chắc những thị trường xuất khẩu chủ yếu, đồng thời thâm nhập được những thị trường xuất khẩu mới tiềm năng.
Trung Quốc rất chú trọng đẩy mạnh hợp tác kinh tế khu vực, tham gia các khối liên kết tiểu vực và ký kế hiệp định thương mại song phương với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra, sau khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc coi trọng phát triển ngành sản phẩm công nghệ cao trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá. Để phát triển ngành này, Trung Quốc đã quyết định giảm mức thuế quan nhập khẩu xuống mức 0% như vậy Trung Quốc có thể nhập khẩu những linh kiện tiên tiến nhất trên thế giới với giá thành thấp, sau đó qua gia công, xuất khẩu ra toàn thế giới. Điều này lý giải vì sao trong những năm qua, Trung Quốc từ nước có sản lượng công nghệ cao rất thấp đã rất nhanh chóng trở thành nước sản xuất và xuất khẩu lớn nhất về mặt hàng này.
2.2 Một số vấn đề tồn tại trong chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc
Trước hết, sự gia tăng xuất khẩu của Trung Quốc vẫn dựa vào hình thức gia công, vì vậy xuất khẩu tuy đạt quy mô lớn nhưng hiệu quả vẫn thấp. Lý do là vì giá trị gia tăng nội địa tạo ra từ hoạt động gia công xuất khẩu thấp, mối liên hệ giữa các doanh nghiệp gia công với các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, kỹ năng tay nghề cho công nhân ít được cải thiện. Việc phát triển gia công xuất khẩu còn dẫn đến giảm nguồn thu thuế nhập khẩu, từ đó góp phần làm tăng gánh nặng đối với Chính phủ trong việc hoàn thuế cho những người xuất khẩu. Nếu hình thức gia công xuất khẩu tiếp tục được đẩy mạnh thì Trung Quốc vẫn chỉ đóng vai trò như “công xưởng” của các công ty đa quốc gia trên thế giới.
Hơn nữa, tăng trưởng xuất khẩu trong thời gian qua của Trung Quốc đạt được chủ yếu dựa vào khai thác theo chiều rộng các yếu tố tài nguyên, lao động và vốn đầu tư. Trong khi GDP của Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 4% GDP thế giới thì nước này lại chiếm tới 7,4%, 31%, 30%, 27%, 25% và 40% tiêu dùng các mặt hàng tương ứng là dầu thô, than đá, quặng sắt, thép cán, nhôm của toàn thế giới(16) Cục thống kê Trung Quốc
.Như vậy, mức tiêu hao nguồn lực cho mỗi đơn vị sản phẩm ở Trung Quốc cao hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển khác, theo đó tăng trưởng đi liền với nguy cơ nguồn lực bị lãng phí, tài nguyên bị cạn kiệt và môi trường bị huỷ hoại.
Đến nay xuất khẩu các sản phẩm chế tạo của Trung Quốc vẫn chủ yếu bao gồm các mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Thực tiễn một số nền kinh tế Châu Á cho thấy quá trình tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng chế tạo có hàm lượng lao động cao thường kéo dài không quá 3 thập kỷ. Trong khi đó, xuất khẩu các mặt hàng này của Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh trong thời gian hơn hai thập kỷ, do vậy nếu quy luật nói trên đúng thì rõ ràng Trung Quốc đang tiến gần đến ngưỡng thời gian mà từ đó xuất khẩu các mặt hàng chế tạo sử dụng nhiều lao động sẽ bắt đầu giảm sút. Hơn nữa, xuất khẩu các sản phẩm truyền thống sử dụng nhiều lao động đã chiếm một tỷ trọng lớn trên thị trường thế giới, do đó việc Trung Quốc tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao đối với mặt hàng này trong tương lai sẽ gặp nhiều khó khăn.
Chính sách tỷ giá hiện nay của Trung Quốc là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng trong quan hệ thương mại với Mỹ và các nước công nghiệp chủ chốt khác khi chính sách duy trì ổn định giá trị nhân dân tệ được xem là chủ ý nhằm định giá thấp đồng nhân dân tệ để khuyến khích xuất khẩu. Theo đó, các nước yêu cầu Trung Quốc phải tăng giá, tiến tới thả nổi đồng nhân dân tệ. Mức tăng giá 0,43% của đồng NDT vào tháng 6 năm 2010 (6,7980 NDT/USD) vẫn thấp hơn rất nhiều so với yêu cầu của Mỹ và các nước phương Tây khác, vì vậy chắc chắn các nước này vẫn sẽ tiếp tục gây áp lực đối với Trung Quốc về vấn đề tỷ giá.
Một chính sách thúc đẩy xuất khẩu quan trọng khác của Trung Quốc là chính sách hoàn thuế cũng có xu hướng giảm sút vai trò của mình. Việc hoàn thuế giúp gia tăng xuất khẩu, nhưng lại làm tăng gánh nặng đối với Ngân sách nhà nước. Chính sách hoàn thuế xuất khẩu của Trung Quốc còn hàm chứa nguy cơ dẫn đến tranh chấp thương mại với các nước bạn hàng chủ yếu (như Mỹ hay EU). Năm 2004, Mỹ đã cáo buộc Trung Quốc đã sử dụng chính sách hoàn thuế để trợ cấp cho một số ngành công nghiệp bán dẫn và ngành phân bón hóa học. Bên cạnh đó, Mỹ còn cho rằng Trung Quốc vẫn đang sử dụng nhiều hình thức trợ cấp khác cho những người xuất khẩu như miễn giảm thuế thu nhập thực hiện phân bổ tín dụng, cho vay với lãi suất thấp, xóa nợ và giảm phí vận tải. Những hình thức trợ cấp này được coi là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc hàng xuất khẩu của Trung Quốc tràn ngập thị trường Mỹ. Tháng 11 năm 2007, để xoa dịu Mỹ, Trung Quốc đã phải dỡ bỏ hoàn thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng nhất là các sản phẩm thép.
Những nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc còn gặp phải nhiều thách thức khác. Do vẫn chưa được coi là quốc gia có nền kinh tế thị trường nên Trung Quốc trở thành đối tượng của nhiều vụ kiện bán phá giá. Trên thực tế, kể từ khi gia nhập WTO vào cuối năm 2001, Trung Quốc trở thành một trong những nước bị kiện bán phá giá nhiều nhất trên thế giới, với số vụ kiện lên tới con số hàng trăm. Hơn nữa, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với nhiều biện pháp bảo hộ khác, đặc biệt từ phía các nước công nghiệp phát triển. Việc Mỹ và EU áp đặt trở lại chế độ hạn ngạch đối với Trung Quốc nhằm bảo vệ những người sản xuất trong nước trước “cơn sóng thần” hàng dệt may của nước này là một ví dụ điển hình minh chứng cho khả năng nói trên.
2.3 Điều chỉnh chính sách xuất khẩu trong thời gian tới
Trong chiến lược xuất khẩu đến năm 2020 do Bộ Thương mại Trung Quốc công bố, Trung Quốc đã thể hiện một số động thái cơ bản trong việc điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu của nước này trong thời gian tới.
Trước hết có thể khẳng định rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp cải cách toàn diện hệ thống kinh tế và luật pháp theo hướng tự do hóa, minh bạch hóa, phù hợp với thông lệ quốc tế và nguyên tắc cơ bản của WTO, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết trong khuôn khổ WTO. Trên cơ sở những cải cách toàn diện đó Trung Quốc sẽ thiết lập một hệ thống ngoại thương mở cửa, có tính trung lập cao, hoạt động có hiệu quả cao và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục dựa vào hoạt động gia công xuất khẩu và duy trì vị thế của mình như một mắt xích quan trọng trong mạng lưới sản xuất của các công ty đa quốc gia. Tuy nhiên, để gia tăng hiệu quả xuất khẩu, Trung Quốc sẽ hạn chế dần những chính sách ưu tiên đối với gia công xuất khẩu thông thường.
Để chuyển dịch cơ cấu theo hướng thúc đẩy xuất khẩu của các mặt hàng có hàm lượng vốn - công nghệ cao trở thành nguồn xuất khẩu chủ yếu trong tương lai, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, tăng cường thu hút và khai thác vốn FDI sẽ là những chính sách ưu tiên của Trung Quốc trong quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Nhằm hạn chế những tác động tiêu cực phát sinh, đồng thời tăng cường hiệu lực của chính sách hoàn thuế, Trung Quốc sẽ tiếp tục có những điều chỉnh theo hướng hoàn thiện, chuẩn hóa công tác quản lý chế độ hoàn thuế. Cụ thể Trung Quốc có thể tiến tới quy định các mức hoàn thuế không căn cứ vào mặt hàng xuất khẩu mà xuất phát từ mức độ tiêu hao tài nguyên như đất đai, nước, năng lượng, khoáng sản trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Những doanh nghiệp tích cực đầu tư ứng dụng tiến bộ công nghệ nhằm sử dụng có hiệu quả (theo chiều sâu) các nguồn tài nguyên sẽ được xếp vào diện được khuyến khích. Còn những doanh nghiệp thiên về khai thác không có hiệu quả (theo chiều rộng) các nguồn tài nguyên sẽ được hưởng mức độ khuyến khích thấp hơn, hoặc không được khuyến khích. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của chính sách hoàn thuế suất khẩu, mà còn có đóng góp hết sức quan trọng vào việc thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế nói chung.
Trung Quốc sẽ tiếp tục có những điều chỉnh tỷ giá theo hướng cho phép các yếu tố thị trường đóng góp vai trò tích cực hơn trong việc xác định tỷ giá. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ thực hiện nâng giá từng bước đồng NDT một cách thận trọng, trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng những tác động có thể có đối với kinh tế Trung Quốc và thị trường tài chính thế giới. Theo một số tính toán, chi phí lao động ở Trung Quốc bằng 4% chi phí lao động ở Mỹ, còn năng suất trung bình ở Trung Quốc chỉ bằng 6% năng suất lao động ở Mỹ. Do năng suất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) ở Trung Quốc cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước, và các FIEs chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong xuất khẩu của Trung Quốc nên việc nâng giá Nhân dân tệ sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động các FIE ở Trung Quốc chuyên sản xuất các mặt hàng chế tạo phục vụ thị trường thế giới. Hơn nữa, gia công xuất khẩu chiếm tới hơn một nửa xuất khẩu của Trung Quốc nên việc đồng NDT tăng giá sẽ làm giảm giá các sản phẩm trung gian nhập khẩu, từ đó hạ giá hàng xuất khẩu. Tóm lại, việc điều chỉnh tỷ giá theo hướng nâng giá từng bước đồng NDT sẽ không ảnh hưởng đáng kể đến xuất khẩu của Trung Quốc.
Cuối cùng với tư cách là thành viên của WTO, bên cạnh việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết, Trung Quốc sẽ khai thác triệt để những quyền lợi của mình trong khuôn khổ hoạt động của tổ chức này. Trung Quốc sẽ tham gia đầy đủ và tích cực vào việc xây dựng mới các nguyên tắc thương mại đa phương, cũng như việc rà soát, xem xét, giám sát việc thực hiện chính sách thương mại và các nghĩa vụ đa phương của các nước thành viên khác. Với vị thế ngày càng lớn mạnh, Trung Quốc chắc chắn sẽ tận dụng những cơ hội và điều kiện thuận lợi mới để can thiệp ngày càng sâu hơn vào quá trình đề ra “luật chơi” mới trong phạm vi WTO, từ đó giúp nước này tiếp cận vững chắc các thị trường xuất khẩu lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc tham gia các liên kết kinh tế tiểu vùng và đàm phán ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương với nhiều nước trên thế giới, kể cả nước công nghiệp phát triển. Đặc biệt, chính sách này sẽ giúp Trung Quốc đạt tới những mục tiêu chiến lược trong việc tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu, hạn chế bớt khả năng các nước thành viên WTO (đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển) áp dụng biện pháp bảo hộ chống lại hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc.
III. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1. Những mặt nên học tập
1.1 Chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở Trung Quốc được thực hiện với cách tiếp cận phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước.
Trung Quốc lựa chọn phương pháp cải cách tiệm tiến, chứ không chấp nhận chương trình cải cách trọn gói theo kiểu liệu pháp sốc của Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Cải cách ở Trung Quốc được bắt đầu trong điều kiện có sự ổn địa chính trị trong nước: mục tiêu cải cách ở Trung Quốc là củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiếp tục xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội, chứ không phải phá vỡ nó như ở các nước thực hiện chuyển đổi kinh tế Đông Âu.
Mặt khác do hoàn cảnh cụ thể của Trung Quốc không phù hợp với cách tiếp cận trong lý thuyết kinh tế của phương Tây, trong khi những lý thuyết kinh tế mới có tác dụng định hướng cho cải cách ở những nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc chưa ra đời nên việc nước này lựa chọn cách làm thực dụng, theo kiểu thử nghiệm, ''thử và sai'' là điều dễ hiểu. Một lý do quan trọng nữa là cải cách ở Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh có xung đột lợi ích giữa các tầng lớp nhất định trong xã hội. Trong khi những người chủ trương, cải cách muốn đẩy mạnh mở cửa kinh tế, xóa bỏ những rào cản thương mại để thúc đẩy xuất khẩu thì những người bảo thủ theo đường lối cứng rắn, những người hưởng lợi từ chính sách bảo hộ lại phản đối quyết liệt. Trong tình thế như vậy, phương pháp cải cách tiệm tiến tỏ ra thích hợp trong việc dung hòa lợi ích, giảm bớt sự chống đối trong nước, và theo như lời của một nhà kinh tế thì nó đóng vai trò ''như một chiếc neo giữ thăng bằng, đảm bảo độ an toàn cao, ổn định về chính trị - xã hội trong quá trình cải cách'' ở Trung Quốc.
1.2 Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc có sự thay đổi qua từng giai đoạn, phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế
Cho đến tận đầu những năm 90, các biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu là giảm dần mức độ kiểm soát hoạt động xuất khẩu, tạo động lực khuyến khích đối với xuất khẩu thông qua các biện pháp điều chỉnh tỷ giá, ban hành chế độ giữ lại ngoại tệ, thiết lập chế độ tỷ giá kép, áp dụng chế độ khoán hợp đồng ngoại thương và một loạt các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu khác, kể cả việc sử dụng ngân sách nhà nước để bù lỗ xuất khẩu. Những biện pháp này được áp dụng không nhằm mục đích tạo ra sự thiên vị vượt trội đối với hoạt động xuất khẩu, mà chủ yếu nhằm triệt tiêu bớt thiên hướng chống lại xuất khẩu do mức bảo hộ cao đối với sản xuất trong nước và tình trạng đồng nội tệ được định giá cao tạo ra. Có thế nói đây là giai đoạn bộc lộ rõ nét nhất tính tiệm tiến, thử nghiệm và thực dụng trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu ở Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, cải cách cục bộ, có tính thử nghiệm là nhằm hướng tới sự cải thiện, chứ không phải sự hoàn thiện. Vì vậy các biện pháp chính sách được thực hiện theo phương châm từ dễ đến khó, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, sai đâu sửa đấy, cải cách thí điểm đến cải cách đại trà, cải cách trên phạm vi hẹp đến cải cách trên phạm vi rộng hơn... Từng biện pháp cụ thể được đưa ra tùy thuộc vào những vấn đề phát sinh trên thực tế và kết quả thực hiện các biện pháp cải cách trước đó.
Việc Trung Quốc lựa chọn phương pháp cải cách tiệm tiến không có nghĩa là nước này hoàn toàn không có những định hướng mục tiêu cải cách, không có tầm nhìn xa có tính chiến lược trong tương lai. Kể từ khi đệ đơn xin gia nhập WTO vào năm 1985, bên canh việc tiếp tục những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu, Trung Quốc bắt đầu có những nỗ lực cải cách theo định hướng thị trường và tự do hóa thương mại. Việc Trung Quốc giảm dần quy mô trợ cấp xuất khẩu, tiến tới xóa bỏ hình thức hỗ trợ xuất khẩu này vào năm 1991, và bắt đầu những nỗ lực cắt giảm thuế quan nhập khẩu từ năm 1992 cho thấy Trung Quốc đã có tầm nhìn chiến lược về những cải cách theo định hướng thị trường, về vai trò của tự do hóa thương mại nói chung, và tự do hóa nhập khẩu nói riêng như là giải pháp dài hạn để thúc đẩy xuất khẩu. Từ năm 1994, trước yêu cầu cấp bách của cải cách trong nước và áp lực đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO, Trung Quốc đã thực hiện những biện pháp cải cách quan trọng nhất theo định hướng thị trường kể từ khi công cuộc cải cách mở cửa được khởi xướng vào cuối thập kỷ 70. Để thúc đẩy xuất khẩu Trung Quốc chuyển sang áp dụng các chính sách hoàn thuế xuất khẩu, bảo hiểm và bảo lãnh xuất khẩu, và đẩy mạnh quá trình tự do hóa nhập khẩu. Đây là những chính sách phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế được sử dụng phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển và nhiều nước khác.
1.3 Áp dụng những chính sách thích hợp để khơi thông nguồn lực của đất nước, hình thành và phát triển các ngành xuất khẩu
Một trong những bài học quý báu nhất rút ra từ chính sách cải cách mở cửa nói chung, và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng của Trung Quốc là việc phá bỏ sự cứng nhắc trong cơ chế phân bổ nguồn lực, tạo điều kiện để những nguồn lực trong một thời gian dài không được sử dụng hoặc sử dụng lãng phí được chuyển đến những ngành mà đất nước có lợi thế so sánh (như dệt may và các ngành công nghiệp nhẹ khác). Quá trình di chuyển lao động ở Trung Quốc được bắt đầu từ cuối những năm 70 và cho đến nay vẫn đang tiếp tục diễn ra. Để hướng nguồn lực đổ vào những ngành mà Trung Quốc có lợi thế so sánh (nhưng trong một thời gian dài bị kìm hãm), hàng loạt các chính sách được áp dụng như chính sách định hướng vùng và ngành mục tiêu, phát triển hình thái gia công xuất khẩu, thu hút vốn FDI vào các ngành định hướng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Có thể hình dung nếu việc phi tập trung hóa và mở rộng quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương có tác dụng phá vỡ con đập chắn ngang một dòng sông lớn, thì các chính sách tiếp theo được thực hiện để dẫn nguồn nước lan tỏa tới những nơi cần thiết.
1.4 Áp dụng những chính sách thích hợp để tạo lập và phát triển những lợi thế cạnh tranh mới, dẫn đến sự chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu xuất khẩu.
Trước hết trọng tâm được dành cho các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, và các ngành công nghiệp nhẹ khác, rồi sau đó có sự chuyển dần sang các mặt hàng có hàm lượng vốn, công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn như điện, điện tử, máy móc thiết bị, viễn thông và các sản phẩm công nghệ mới - công nghệ cao khác.
Để đạt được các mục tiêu nói trên, Trung Quốc áp dụng các biện pháp hỗ trợ cho các ngành nói trên trong khuôn khổ chính sách định hướng ngành mục tiêu, thực hiện chính sách nhằm tạo lập và phát triển năng lực công nghệ quốc gia, triển khai các chương trình khoa học công nghệ trong nước kết hợp với nhập khẩu công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Việc nhập khẩu công nghệ nước ngoài không chỉ dừng lại ở hình thức nhập khẩu máy móc thiết bị mà có sự chuyển hướng sang hình thức chuyển giao li - xăng, tư vấn kỹ thuật, thiết kế hoặc tổ chức sản xuất phối hợp. Nhập khẩu máy móc thiết bị có thể là giải pháp thích hợp nhất để khắc phục tình trạng năng lực sản xuất yếu kém hiện thời, nhưng trong dài hạn việc tiếp nhận li-xăng công nghệ mới là biện pháp hiệu quả nhất để hình thành và phát triển năng lực công nghệ quốc gia. Hình thức tiếp nhận li-xăng công nghệ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc lựa chọn công nghệ, cũng như việc kết hợp công nghệ nước ngoài với công nghệ sẵn có trong nước.
Một kênh quan trọng mà Trung Quốc tận dụng khai thác để tiếp cận công nghệ của nước ngoài là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt là FDI của các công ty đa quốc gia lớn trên thế giới. Những biện pháp khuyến khích của Trung Quốc từ giữa những năm 90 đã có tác dụng mạnh mẽ trong việc thu hút FDI, đặc biệt dưới hình thức các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (WFOE). Chính các doanh nghiệp này ngày càng đóng vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng chế tạo, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ mới- công nghệ cao của Trung Quốc.
1.5 Khai thác một cách thích hợp vai trò của tỷ giá hối đoái và các biện pháp đòn bẩy khuyến khích tài chính để thúc đẩy xuất khẩu
Việc Trung Quốc xóa bỏ hệ thống tỷ giá kép và thống nhất các mức tỷ giá vào đầu năm 1994 có thể được coi là một cú phá giá ngoạn mục đồng nội tệ, điển hình cho ''nghệ thuật chớp thời cơ", của Trung Quốc trong việc nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của mình, đồng thời giúp Trung Quốc đẩy mạnh cắt giảm thuế nhập khẩu chuẩn bị gia nhậpWTO, trong khi vẫn bảo vệ được sản xuất trong nước. Tuy nhiên, kể từ năm 1994 trở đi thì khả năng sử dụng công cụ phá giá để thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc trở nên bị hạn chế, và do đó mối liên hệ giữa chính sách tỷ giá với xuất khẩu của nước này cần được nhìn nhận dưới những góc độ mới.
Việc Trung Quốc không phá giá đồng NDT sau khi khủng hoảng tài chính nổ ra ở châu Á đã khiến thế giới có cái nhìn thiện cảm đối với Trung Quốc, đồng thời cho thấy Trung Quốc có khả năng đối phó với cơn bão tài chính mà không cần tới biện pháp phá giá.
Tính thực dụng của chính sách tỷ giá ở Trung Quốc sau khi nước này thực hiện những cải cách toàn diện theo định hướng thị trường vào năm 1994 còn được khẳng định thêm bởi thực tế là trong những năm gần đây, bất chấp xu hướng giảm giá của đồng NDT và áp lực quốc tế đòi Trung Quốc phải nâng giá đồng tiền của mình, Trung Quốc vẫn duy trì chính sách ổn định giá trị đồng NDT với lý do chưa hội đủ những điều kiện cần thiết để điều chỉnh tỷ giá. Biện pháp nâng giá NDT của Trung Quốc vào ngày 21/7/2005 và mới nhất là tăng cường tính linh hoạt cho tỷ giá đồng NDT vào tháng 6/2010 có thể được coi như là một mũi tên nhằm tới nhiều mục tiêu. Thứ nhất, biện pháp này nhằm giảm áp lực từ phía Mỹ và các nước công nghiệp phát triển khác đòi Trung Quốc phải nâng giá và tiến tới thả nổi NDT. Thứ hai, mặc dù nâng giá NDT nhưng về thực chất Trung Quốc vẫn tạo cho mình một "hành lang'' thích hợp cho việc điều chỉnh tỷ giá khi cần thiết nhằm đạt tới các mục tiêu riêng của mình.
Ngoài chính sách tỷ giá, cho đến những năm đầu của thập kỷ 90, Trung Quốc còn sử dụng một loạt các đòn bẩy khuyến khích tài chính khác để hỗ trợ xuất khẩu như trợ cấp trực tiếp, miễn giảm thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu và bán thành phẩm sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, hoàn thuế xuất khẩu, cung cấp tín dụng xuất khẩu, áp dụng lãi suất ưu đãi đối với các khoản cho vay bằng nội tệ dành cho những người sản xuất hàng xuất khẩu, trợ cấp cho các hoạt động vận tải, bảo quản và bảo hiểm hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, từ khi bắt đầu nỗ lực gia nhập WTO, Trung Quốc đã giảm dần quy mô và tiến tới xóa bỏ hình thức trợ cấp xuất khẩu trực tiếp và năm 1991, và cho đến giữa những năm 90 thì phần lớn các biện pháp đòn bẩy khuyến khích khác cũng được bãi bỏ. Có thể nói những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu nói trên đã được Trung Quốc khai thác một cách triệt để, và chúng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giúp cho hàng hóa Trung Quốc tìm được chỗ đứng và có được vị thế vững chắc nhất định trên trên thị trường thế giới. Từ giữa thập kỷ 90 trở đi, chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Trung Quốc chủ yếu dựa vào những biện pháp được sử dụng phổ biến trên thế giới như thực hiện hoàn hoặc miễn giảm thuế nhập khẩu và thuế VAT, cung cấp tín dụng xuất khẩu và dịch vụ bảo hiểm, bảo lãnh cho những người xuất khẩu; và các dịch vụ hỗ trợ công cộng khác.
1.6 Có sự phối hợp đúng đắn, linh hoạt và có hiệu quả các công cụ chính sách thúc đẩy xuất khẩu, gắn chính sách thúc đẩy xuất khẩu với những cải cách toàn diện trong nền kinh tế
Một bài học quan trọng khác có thể rút ra từ chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc là phải biết phối hợp một cách thích hợp và khéo léo các biện pháp chính sách khác nhau để đạt tới kết quả tốt nhất. Mỗi một chính sách khi được áp dụng có thể mang lại những kết quả tích cực, nhưng đồng thời làm nảy sinh những vấn đề mới có thể làm triệt tiêu những kết quả tích cực đó, hoặc hiệu lực của mỗi chính sách có thể được phát huy tốt hơn nếu nó đi kèm với các chính sách khác. Trên thực tế có thể lấy ví dụ điển hình về sự kết hợp giữa cải cách chính sách thương mại với cải cách trong lĩnh vực ngoại hối và tỷ giá hối đoái ở Trung Quốc. Những biện pháp cải cách trong các lĩnh vực này thường đi kèm với nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau. Chẳng hạn việc cho phép các doanh nghiệp và các địa phương được giữ lại một phần thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu và áp dụng chế độ tỷ giá thanh toán nội bộ là những biện pháp nhằm giảm bớt khó khăn nảy sinh đối với những người xuất khẩu do chính phủ trung ương hạn chế dần việc bù lỗ xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc ban hành chế độ giữ lại ngoại tệ có tác dụng tạo động lực khuyến khích đối với những người xuất khẩu; nhưng mức độ khuyến khích đó được tăng lên cùng với việc cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng ngoại tệ đó tại các trung tâm hoán đổi ngoại tệ. Những đợt phá giá NDT từ năm 1989 trở đi một mặt nhằm mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu trực tiếp nhưng mặt khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi chính phủ trung ương chấm dứt trợ cấp xuất khẩu vào năm 1991, yêu cầu tất cả các doanh nghiệp ở các địa phương phải thực hiện chế độ tự chủ hoàn toàn trong kinh doanh xuất khẩu, và đẩy mạnh cắt giảm thuế quan nhập khẩu, chuẩn bị cho việc gia nhập WTO.
Những biện pháp cải cách trong lĩnh vực đối ngoại ở Trung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.doc