MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT 3
I. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 3
1. Tổng quan về thị trường tiền tệ 3
1.1. Thị trường tiền tệ 3
1.2. Vai trò của NHTW trên thị trường tiền tệ 9
1.3. Vai trò của các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ 10
2. Chức năng và vai trò của CSTT và phân loại công cụ quản lý lượng cung tiền 11
2.1. Khái niệm và mục tiêu của CSTT 11
2.2. Các công cụ quản lý trực tiếp 14
2.3. Các công cụ quản lý gián tiếp 15
II. LẠM PHÁT 20
1. Khái niệm và phương pháp đo lường lạm phát 20
1.1. Khái niệm 20
1.2. Phương pháp đo lường lạm phát 21
2. Phân loại lạm phát 22
2.1. Căn cứ vào tốc độ lạm phát 22
2.2. Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát 23
2.3. Căn cứ vào tính chất của lạm phát 25
3. Các nguyên nhân gây ra lạm phát 26
3.1. Lạm phát do sai lầm của các chính sách kinh tế vĩ mô 26
3.2. Lạm phát do nền kinh tế phát triển quá nóng 26
3.3. Lạm phát do sự gia tăng chi phí 27
3.4. Lạm phát do bị ảnh hưởng từ bên ngoài 27
3.5. Lạm phát do những yếu tố bất khả kháng gây ra 27
3.6. Lạm phát do các nguyên nhân khác 28
4. Tác động của lạm phát 28
4.1. Phân phối lại thu nhập và của cải 28
4.2. Tác động đến các hiệu quả kinh tế 29
4.3. Tác động đến tình hình chính trị - xã hội 31
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 32
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2006 34
I. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2006 34
1. Công cụ lãi suất 34
2. Công cụ tái cấp vốn 36
3. Nghiệp vụ thị trường mở 38
3.1. Giới thiệu về nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam 38
3.2. Một số kết quả đạt được sau 7 năm tiến hành NVTTM ở Việt Nam 40
3.3. Những tồn tại và hạn chế trong thực hiện công cụ NVTTM 43
4. Công cụ dự trữ bắt buộc 44
5. Chính sách quản lý ngoại hối 47
6. Chính sách quản lý tỷ giá hối đoái 49
II. VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2006 52
1. Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam từ 1986 đến 2000 52
1.1. Giai đoạn 1986 - 1990 52
1.2. Giai đoạn 1991-1998 52
1.3. Giai đoạn 1999-2000 53
2. Tình hình kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006 54
2.1. Thời kỳ 2001-2003: Lạm phát được duy trì ở mức thấp và ổn định 55
2.2. Thời kỳ 2004-2006: Lạm phát ở mức cao và đáng lo ngại 58
CHƯƠNG III – XU HƯỚNG LẠM PHÁT THỜI KỲ TỚI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 70
I. XU HƯỚNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010 70
1. Tình hình giá cả trên thế giới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp 71
2. Lượng tiền cung ứng trong lưu thông sẽ ở mức cao do quyết định mua một lượng lớn ngoại tệ của NHNN năm 2007 71
3. Quá trình hội nhập sẽ ảnh hưởng đến cung và cầu hàng hoá trên thị trường 73
4. Thâm hụt ngân sách Nhà nước vẫn ở mức cao 74
5. Cải cách khu vực kinh tế nhà nước vẫn diễn ra chậm chạp 74
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CÁC CÔNG CỤ CSTT ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 78
1. Về trung hạn, NHNN cần duy trì mục tiêu ổn định giá cả 78
2. Nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các công cụ CSTT 79
2.1. Tăng cường hơn nữa việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở và coi đây là công cụ chính của NHNN 79
2.2. Tăng cường hiệu quả của công cụ lãi suất 80
2.3. Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối 81
3. Phát triển các thị trường tiền tệ 82
3.1. Hoàn thiện và phát triển thị trường sơ cấp 82
3.2. Hoàn thiện và phát triển thị trường thứ cấp 83
3.3. Hoàn thiện và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng 83
3.4. Hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thiết lập thị trường ngoại hối phát triển 84
3.5. Hoàn thiện thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn 85
4. Nâng cao năng lực hoạt động và tính độc lập của NHNN 86
4.1. Nâng cao năng lực hoạt động của NHNN 86
4.2. Nâng cao tính độc lập của NHNN trong thực thi chính sách tiền tệ 87
5. Đẩy nhanh tốc độ cải cách các NHTM 89
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
DANH MỤC BẢNG - HÌNH 96
113 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2478 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách tiền tệ và vấn đề kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng mở, năm 2000 có 17 phiên với tổng khối lượng mua bán là 1.930,5 tỷ đồng. Trung bình đạt 113 tỷ đồng/phiên.
Năm 2001, mỗi tuẫn có một phiên vào thứ tư, tổng cộng 48 phiên giao dịch với khối lượng mua bán là 3.743 tỷ VND, trung bình đạt 80 tỷ đồng/phiên.
Từ 2/5/2002, số phiên hoạt động của thị trường mở tăng lên 2 phiên/ tuần, vào thứ ba và thứ năm. Khối lượng giao dịch bình quân mỗi phiên trong năm này đạt 105 tỷ đồng/phiên [26].
Trong bốn năm tiếp theo, khối lượng giao dịch tăng mạnh và đi vào ổn định. Điều này được thể hiện ở khối lượng giao dịch trung bình mỗi phiên và doanh số giao dịch toàn thị trường
Về doanh số giao dịch trung bình phiên: Năm 2003, khối lượng giao dịch trung bình đạt 197 tỷ đồng/phiên, năm 2004 là 500 tỷ đồng/phiên, năm 2005 là 650 tỷ đồng/phiên và năm 2006 là 770 tỷ đồng/phiên [26],[11]. Từ tháng 11/2004, số phiên giao dịch đã tăng lên 3 phiên/tuần và đến năm 2007 là 4 phiên/tuần (mỗi ngày một phiên, từ thứ 3 đến thứ 6). Ngoài ra, NHNN còn mở các phiên giao dịch đột xuất hoặc các phiên giao dịch hàng ngày vào các dịp giáp Tết để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, không để các NHTM lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc chậm trả khách hàng.
Doanh số giao dịch toàn thị trường cũng tăng trưởng rất mạnh trong giai đoạn 6 năm vừa qua nhờ vào sự phát triển của thị trường cũng như sự tăng lên của số phiên giao dịch trong tuần. Điều này được thể hiện ở hình sau:
DOANH SỐ GIAO DỊCH THỊ TRƯỜNG MỞ 2000-2006
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: Các báo cáo thường niên của NHNNVN
Các đối tượng tham gia trên thị trường mở ngày càng tăng và tích cực
Nếu như trong những năm đầu, gần như chỉ có các NHTM Nhà nước thường xuyên tham gia NVTTM thì bắt đầu từ năm 2004 trở đi, các NHTMCP, NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài đã tham gia tích cực hơn vào thị trường này [11].
Ngoài ra, số phiên đấu thầu không có thành viên tham gia cũng giảm dần qua các năm: Năm 2002, tỷ lệ này ở mức rất cao, 50%, cho thấy NVTTM chưa thu hút được sự quan tâm của các NHTM hoặc các NHTM còn rụt rè với nghiệp vụ mới mẻ này. Mặc dù vậy, trong các năm tiếp theo, con số này đã giảm đi đáng kể, năm 2003 là 22% và 2004 là 16% [26].
Bên cạnh đó, kỳ hạn giao dịch cũng được điều chỉnh ngày càng linh hoạt và phù hợp với nhu cầu điều tiết vốn khả dụng của các TCTD. Kỳ hạn giao dịch hiện nay đã được đa dạng hoá, từ 7-182 ngày ; trong đó, kỳ hạn chủ yếu là từ 15-30 ngày. Tuy nhiên, trong một số phiên, NHNN còn chào mua ngắn hạn với thời hạn 7 ngày để đáp ứng khả năng thanh toán [26].
Thời hạn thanh toán và giao nhận các giấy tờ có giá ngắn hạn giữa TCTD và NHNN trước đây là 2 ngày, nay rút xuống còn 1 ngày.
Khung pháp lý điều chỉnh NVTTM được điều chỉnh theo hướng tích cực
Ngay từ khi bắt đầu tiến hành NVTTM, NHNN đã ban hành Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 09/3/2000 để điều chỉnh hoạt động của thị trường mở. Trong những năm tiếp theo, NHNN đã có những điều chỉnh và cải tiến cơ chế điều hành loại nghiệp vụ này. Từ năm 2001 đến 2003, NHNN đã ra ba quyết định (1439/2001/QĐ-NHNN, 878/2002/QĐ-NHNN và 1085/2003/QĐ-NHNN) về sửa đổi một số điều trong Quy chế NVTTM với mục tiêu hoàn thiện các quy định pháp lý cho nghiệp vụ này. Các thủ tục giao dịch NVTTM tiếp tục được cải tiến, cơ chế hoạt động tiếp tục được hoàn thiện. Năm 2004, NHNN đã ban hành Quy chế lưu ký giấy tờ có giá tại NHNN ban hành theo Quyết định số 1022/2004/QĐ-NHNN ngày 17/8/2004. Đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện thống nhất việc lưu ký các giấy tờ có giá, phục vụ cho các giao dịch trên thị trường tiền tệ. Ngoài ra, NHNN đã mở tài khoản lưu ký giấy tờ có giá tại Trung tâm giao dịch chứng khoán để tạo thuận lợi cho việc lưu ký các giấy tờ có giá phát hành trên thị trường chứng khoán được thuận lợi, đơn giản hơn [11].
Quy trình kỹ thuật và thủ tục giao dịch NVTTM cũng tiếp tục có những cải tiến đáng kể để thu hút thành viên tham gia. Từ 15/12/2004, NHNN bắt đầu áp dụng công nghệ website điện tử trong giao dịch đặt thầu và đấu thầu NVTTM, tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường (giảm chi phí đầu tư ban đầu do không phải cài đặt phần mềm).
Mới đây, vào đầu năm 2007, Thống đốc NHNN đã ra Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN về Quy chế NVTTM, thay thế các Quyết định trước đây để quy tất cả các quy định về một mối và tạo điều kiện thuận lợi về mặt hiểu biết pháp lý cho các thành viên tham gia thị trường mở. Tất cả điều này cho thấy, việc quản lý NVTTM đang trong qúa trình hoàn thiện ở Việt Nam.
Có thể nói, với việc quy mô của NVTTM đang ngày một tăng, đặc biệt là về khối lượng giao dịch và sự tích cực tham gia của các TCTD thành viên, NVTTM đã và đang trở thành một công cụ chủ đạo của NHNN Việt Nam trong việc điều tiết thị trường tiền tệ cũng như nhằm thực hiện những mục tiêu của CSTT.
Những tồn tại và hạn chế trong thực hiện công cụ NVTTM
Thị trường tiền tệ còn có sự phân tách và chủ yếu chịu sự chi phối của 4 NHTMNN. Số thành viên tham gia trong mỗi phiên giao dịch mới chỉ chiếm 50% tổng số TCTD đã được công nhận là thành viên NVTTM.
Tác động của NVTTM đến tổng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế còn chưa đáng kể. Năm 2006, doanh số trung bình của một phiên là 770 tỷ đồng, con số này còn quá nhỏ so với lượng tiền M2 trong nền kinh tế của năm 2002 là 262.000 tỷ đồng [6].
Hàng hoá của thị trường mở chưa đa dạng, chủ yếu chỉ là tín phiếu kho bạc và tín phiéu NHNN trong khi các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác hầu như chưa được sử dụng, đặc biệt là thương phiếu – một hàng hoá quan trọng được mua bán với tỷ trọng lớn trên thị trường mở của nhiều quốc gia [6].
Nghiệp vụ mua bán chủ yếu là mua đứt, bán đoạn, nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ít được sử dụng. Trong năm 2006, NHNN tổ chức 162 phiên NVTTM thì có tới 130 phiên là chào bán hẳn, chỉ có 29 phiên chào mua kỳ hạn và 3 phiên chào bán kỳ hạn [11].
Việc dự báo vốn khả dụng để đưa ra kiến nghị cho NVTTM vẫn còn nhiều khó khăn, chủ yếu chỉ mang tính ngắn hạn.
Công nghệ và đường truyền phục vụ cho hoạt động của thị trường mở từ Cục tin học NHNN đến các thành viên tham gia thường bị quá tải vào giờ cao điểm khi có nhiều thành viên cùng truy cập, ảnh hưởng đến tốc độ giao dịch của các TCTD.
Công cụ dự trữ bắt buộc
Công cụ dự trữ bắt buộc (DTBB) bắt đầu được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1992 và từ đó cho đến nay đã không ngừng được đổi mới và hoàn hiện [6]. Mặc dù vậy, quy định tỷ lệ DTBB là công cụ cần được NHNN sử dụng một cách thận trọng vì ảnh hưởng rất lớn của nó đối với lượng cung tiền trong nền kinh tế như đã đề cập đến trong phần lý thuyết ở chương I.
Chính vì vậy, trong 6 năm từ 2001 đến 2006, NHNN sử dụng công cụ DTBB một cách khá thận trọng khi chỉ ba lần thay đổi DTBB đối với tiền gửi bằng VND và 6 lần thay đổi tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Cụ thể như sau:
QUY ĐỊNH VỀ DTBB CỦA NHNN GIAI ĐOẠN 2001-2006
Thời điểm
Tỷ lệ DTBB đối với VND
Tỷ lệ DTBB đối với USD
Trước tháng 05/2001
3%
15%
12/2001
3%
10%
04/2002
3%
8%
12/2002
3%
5%
08/2003
2%
4%
07/2004
5%
8%
12/2006
5%
8%
Nguồn: Các báo cáo thường niên của NHNNVN
Từ năm 1999 đến tháng 4/2001, tỷ lệ DTBB đối với VND của các NHTM được quy định ở mức 5%. Đây là giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 và cũng là thời điểm nền kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại sau thời kỳ phát triển cao (tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1999 chỉ đạt 4,8%, năm 2000 đạt 6,75%) và rơi vào tình trạng thiểu phát, nguy cơ lạm phát không cao (năm 1999, tốc độ tăng giá tiêu dùng là 0,1%, năm 2000 là -0,6% và năm 2001 là 0,8%) [22]. Chính vì vậy, chính phủ cần thực hiện biện pháp kích cầu cho nền kinh tế để khôi phục đà tăng trưởng. Do đó, tháng 4 năm 2001, NHNN đã quyết định giảm tỷ lệ DTBB đối với các NHTM từ 5% xuống còn 3% để mở rộng nguồn vốn cho vay cho các NHTM, qua đó kích thích nền kinh tế đi lên. Song song với đó, NHNN cũng điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB với tiền gửi bằng ngoại tệ nên đã góp phần thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi VND và hạn chế được dòng vốn chuyển đổi từ VND sang USD.
Để phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, đặc biệt là xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế, vào tháng 12/2001, NHNN cũng quyết định hạ mức DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ từ 15% xuống 10% nhằm tăng khả năng huy động ngoại tệ của các TCTD. Trong năm tiếp theo, NHNN tiếp tục hạ mức DTBB đối với tiền gửi ngoại tệ xuống còn 8% và 5% để tiếp tục tăng khả năng huy động ngoại tệ cho các TCTD ; tuy nhiên, hai động thái này được đánh giá là ít có ảnh hưởng đến thị trường [27].
Trong năm 2003, tình hình nhu cầu vốn vay trên thị trường ở mức rất cao và mặc dù NHNN đã công bố LSCB thấp hơn nhưng như phân tích ở trên, từ tháng 6/2002, cơ chế lãi suất thoả thuận được đưa vào thực hiện nên LSCB chỉ là tham khảo, công cụ này ít có tác động đến lãi suất thị trường. Khách hàng chấp nhận vay vốn với lãi suất cao, các TCTD đua nhau tăng lãi suất huy động vốn để cho vay, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn: lãi suất trái phiếu kho bạc được đẩy lên cao, lãi suất trái phiếu địa phương tăng vọt… Tất cả làm cho thị trường tiền tệ của Việt Nam nóng lên và buộc NHNN phải thực hiện một số biện pháp điều tiết trong đó có việc sử dụng công cụ DTBB khi tỷ lệ DTBB cho cả nội tệ và ngoại tệ giảm lần lượt từ 3% xuống 2% và 5% xuống 4%. Song song với các biện pháp khác như giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và thoả thuận với các NHTM quốc doanh, công cụ DTBB đã phát huy được vai trò điều chỉnh thị trường tiền tệ của mình trong tình hình cụ thể này.
Sang năm 2004, tăng trưởng tín dụng của các NHTM tăng cao và có nguy cơ tăng trưởng nóng. Kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2004 được đề ra là không quá 25% nhưng chỉ trong 6 tháng đầu năm 2004 đã đạt 12%; trong khi đó, theo quy luật ở Việt Nam, tín dụng thường tăng trưởng mạnh trong những tháng cuối năm nhu cầu sản xuất kinh doanh tăng mạnh. Chính vì vậy, thêm một lần nữa, công cụ DTBB được sử dụng; tỷ lệ DTBB đối với nội tệ và ngoại tệ tăng lần lượt từ 2% lên 5% và 4% lên 8%. NHNN tăng tỷ lệ DTBB chính là để rút bớt khối lượng tiền trong lưu thông hay "để kiểm soát độ nở của tiền tệ" như lời Nguyên Thống đốc NHNN Việt Nam, Lê Đức Thuý, khẳng định trước báo giới lúc bấy giờ [5].
Ngoài ra, đối với tiền gửi ngoại tệ, tỷ lệ DTBB tăng cao tới 8% còn nhằm mục tiêu không khuyến khích các NHTM tăng lãi suất và huy động vốn ngoại tệ để hạn chế tình trạng đôla hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng.
Một điểm đáng chú ý nữa trong giai đoạn này là lạm phát trong những tháng đầu năm 2004 và cả năm 2004 là rất đáng báo động và thực tế trong năm 2004, lạm phát đã lên tới 9,5%. Chính vì vậy, quyết định tăng tỷ lệ DTBB của NHNN trong tháng 7/2004 chính là hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát bởi bên cạnh các yếu tố khác như chi phí đẩy, do cầu kéo ở một số mặt hàng và biến động giá trên thị trường thế giới, chính hiện tượng dư thừa tiền trong lưu thông đã khiến cho tình hình giá cả tăng cao.
Kể từ năm 2004 đến cuối giai đoạn nghiên cứu, tỷ lệ DTBB được giữ nguyên do tình hình tăng trưởng tín dụng đã phần nào được kiểm soát và NHNN đã thiên về sử dụng nghiệp vụ thị trường mở hơn bởi trong giai đoạn này, nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu có những bước phát triển mới như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, DTBB vẫn được coi là một trong những công cụ quan trọng của NHNN trong điều hành CSTT. Thực tế cho thấy, tháng 7/2007 vừa qua, NHNN lại một lần nữa tăng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND lên 10% và giữ nguyên mức 10% đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Thậm chí, trong thời gian tới, một số chuyên gia còn cho rằng, NHNN nên tiếp tục tăng tỷ lệ DTBB lên 15% trong thời gian tới [27].
Tóm lại, trong giai đoạn 2001-2005, công cụ DTBB đã được NHNN tích cực sử dụng để điều tiết thị trường tiền tệ do thị trường mở vẫn chỉ mới ở trong giai đoạn sơ khai, còn chưa phát triển và chưa thể "gánh vác được trách nhiệm" điều tiết tiền tệ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi NVTTM đã có những bước phát triển vượt bậc, công cụ DTBB đã được sử dụng một cách hạn chế và thận trọng hơn. Thực tiễn này cũng là một điều phù hợp với lý luận về khả năng ảnh hưởng sâu rộng của công cụ DTBB như đã trình bày ở chương I.
Chính sách quản lý ngoại hối
Trong giai đoạn 2001-2006, chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam được thực hiện theo định hướng rõ ràng và cụ thể là ngày càng thông thoáng hơn [17]. Một số thay đổi rất đáng chú ý được NHNN đưa ra trong giai đoạn này bao gồm:
Nới lỏng biên độ giao dịch tỷ giá giữa TCTD với khách hàng từ +/-0,1% lên +/-0,25% ngày 01/07/2002 (và lên +/-0,5% ngày 01/02/2007 vừa qua).
Nâng mức ngoại tệ và đồng Việt Nam bằng tiền mặt phải khai báo Hải quan khi xuất nhập cảnh từ 3.000 USD lên 7.000 USD và 5 triệu đồng lên 15 triệu đồng (tháng 7/2005).
Cuối tháng 9/2005, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký quyết định nâng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu trong các công ty cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài (trong đó có Việt kiều) lên 49% thay vì mức 30% như trước. Đây là một cơ chế mới, được nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư Việt kiều đánh giá cao sau nhiều kiến nghị và thời gian chờ đợi.
Bên cạnh đó, vào thời điểm cuối năm 2005, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Ngoại hối quy định về hoạt động ngoại hối ở Việt Nam. Theo Pháp lệnh này, người cư trú được mang ngoại tệ tiền mặt, đồng Việt Nam bằng tiền mặt và vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh. được phép đầu tư ra nước ngoài, được sử dụng các nguồn vốn đầu tư ra nươc ngoài bằng ngoại tệ trên tài khoản ngoại tệ tại TCTD được phép, ngoại tệ mua tại TCTD được phép, ngoại tệ từ nguồn vốn vay. Các TCTD, tổ chức kinh tế, cá nhân và các đối tượng khác được phép đầu tư ra nước ngoài, được chuyển vốn đầu tư ra ngước ngoài theo quy định của NHNNVN.
Ngoài ra còn có một số thay đổi khác cũng rất đáng chú ý như: NHNN hiện nay đã thực hiện uỷ quyền cho các chi nhánh cấp phép cho hoạt động mang ngoại tệ ra nước ngoài; thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất ngoại tệ; điều chỉnh tỷ lệ kết hối linh hoạt theo xu hướng giảm và hiện nay đã giảm xuống còn 0%; cho phép các tổ chức và cá nhân có toàn quyền sử dụng số ngoại tệ trên tài khoản; cho phép người nhận kiều hối không bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng; cho phép các NHTMCP được phép thành lập công ty kiều hối trực thuộc, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập bằng vốn tự có; điều kiện thành lập các văn phòng đại diện nước ngoài để xúc tiến các kênh kiều hối thuận lợi hơn…
Với chính sách thông thoáng như vậy, dịch vụ chuyển tiền của các NHTM trong nước đã có thêm một bước phát triển mạnh cả về chất lượng và dịch vụ. Nhiều NHTM VN đã tham gia tích cực và chủ động vào hoạt động chuyển tiền. Tính đến thời điểm cuối năm 2006, NH Đông Á, NH Á Châu, NH Xuất nhập khẩu, NH Quốc tế (VIB Bank) đang là những ngân hàng chiếm ưu thế trên thị trường ngoại hối [17].
Chính nhờ những cải cách theo hướng tích cực như trên, lượng kiều hối chuyển về trong nước đã tăng mạnh trong giai đoạn 2001-2006. Điều này được thể hiện trong bảng sau:
LƯỢNG KIỀU HỐI VÀ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2006
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Lượng kiều hối (tỷ đồng)
1,7
2,1
2,6
3,2
3,8
4,8
Dự trữ ngoại hối (tỷ đồng)
3,387
3,692
5,620
6,314
8,557
-
Tuần NK (tuần)
8,2
7,2
8,7
8,5
9,8
12
Nguồn: IMF và Niên giám thống kê các năm
Ngoài ra, nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào nên lượng ngoại tệ NHNN mua được lớn hơn nhiều so với lượng ngoại tệ NHNN bán ra, làm cho dự trữ ngoại hối nhà nước tăng đều và tương đối ổn định. Tính đến thời điểm cuối năm 2006, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ tương đương 12 tuần nhập khẩu, mức tối thiểu theo thông lệ quốc tế), giúp nâng cao khả năng thanh toán và hệ số tín nhiệm của Việt Nam. Về cơ bản, công tác quản lý ngoại hối nhà nước đã đáp ứng được các mục tiêu an toàn và tăng trưởng dự trữ, góp phần ổn định tỷ giá đồng Việt Nam và giá vàng, đặc biệt là trong một số thời điểm nhạy cảm tâm lý.
Chính sách quản lý tỷ giá hối đoái
Từ năm 1998 trở về trước, chế độ tỷ giá áp dụng ở nước ta thực chất là chế độ tỷ giá cố định, giá cả ngoại tệ do NHNN quyết định, tỷ giá hối đoái cố định được ấn định rất cao, không phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại hối, không phản ánh đúng giá trị đồng nội tệ.
Từ năm 1999 đến nay, NHNN thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá theo nguyên tắc thị trường: hàng ngày NHNN công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. NHNN cũng quy định tỷ giá giao dịch giữa VND và USD của các TCTD không vượt quá 0,1% (từ 1/7/2002 là 0,25% và từ năm 2007 là 0,5%) chênh lệch so với tỷ giá do NHNN công bố và điều chỉnh linh hoạt các mức trần gia tăng tỷ giá đối với các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi... Với chính sách quản lý tỷ giá hối đoái tương đối chặt như vậy (mặc dù biên độ dao động đã được nới lỏng lên 0,5%), trong giai đoạn 2001-2006, tỷ giá hối đoái giữa VND và USD biến động không nhiều qua các năm. Năm 2002 và 2003, tỷ giá biến động 2% nhưng trong ba năm sau đó, con số này chỉ là 1%.
TỶ GIÁ VND/USD DO NHNNVN QUY ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2001-2006
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tỷ giá VND/USD trung bình năm
15.070
15.368
15.608
15.739
15.875
15.957
Biến động so với năm trước (%)
100
102
102
101
101
101
Nguồn: IMF
Tuy nhiên, cơ chế điều hành tỷ giá này còn bộc lộ một số hạn chế kìm hãm sự phát triển của thị trường tiền tệ. Đó là:
Biên độ giao động tỷ giá trong giai đoạn là quá hẹp (0,1% và 0,25%), mặc dù từ năm 2007, tỷ giá này được nới rộng lên 0,5% nhưng vẫn còn hẹp. Do đó tỷ giá trên thị trường hầu như vận động một chiều, làm cho các ngân hàng dễ dàng dự đoán được xu thế vận động của tỷ giá, vì vậy việc áp dụng các phương thức giao dịch ngoại hối hiện đại rất hạn chế.
Việc các NHTM được phép xác định tỷ giá các loại ngoại tệ ngoài USD tạo kẽ hở cho việc mua bán USD thông qua loại ngoại tệ khác với tỷ giá vượt trần quy định.
Tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng chưa sát với tỷ giá thị trường. Tỷ giá các ngân hàng giao dịch với nhau trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao giờ cũng kịch trần - là tỷ giá do NHNN công bố cộng thêm biên độ dao động quy định.
DIỄN BIẾN TỶ GIÁ VND/USD NĂM 2006
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNNVN 2006
Tóm lại, từ năm 2001 đến 2006, việc kiểm soát tiền tệ của NHNNVN đã từng bước được đổi mới với những cải cách quan trọng và những quyết định thận trọng, phù hợp với điều kiện thị trường trong nước. CSTT giai đoạn này nhìn chung theo xu hướng mở rộng, mặc dù có thắt chặt hơn từ thời điểm năm 2004 về tỷ lệ dự trữ bắt buộc. CSTT được thực hiện nhằm hướng tới các mục tiêu cụ thể như : hoàn thiện vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của các công cụ tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc; tự do hoá và thị trường hoá lãi suất; từng bước tự do hoá thị trường ngoại hối; và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, mục tiêu điều tiết giá cả chưa phải là mục tiêu chính trong các chính sách và công cụ được sử dụng trong giai đoạn này. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ của CSTT vẫn còn một số hạn chế nhất định như đã chỉ ra ở trên. Do đó, trong những năm sắp tới, các công cụ này cần tiếp tục kế thừa và phát huy những tiến bộ đã đạt được để trở nên hoàn thiện hơn, qua đó thực hiện được các mục tiêu của CSTT, trong đó có một mục tiêu rất quan trọng là kiểm soát lạm phát. Kiểm soát lạm phát trong cùng giai đoạn 2001-2006 cũng sẽ là chủ đề được đề cập đến trong phần tiếp theo của chương này.
VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2006
Khái quát tình hình lạm phát ở Việt Nam từ 1986 đến 2000
Giai đoạn 1986 - 1990
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, công cuộc cải cách nền kinh tế đã được khởi xướng với mục tiêu là “vực dậy” và phát triển kinh tế, trong đó bao gồm cả mục tiêu đẩy lùi lạm phát. Tuy nhiên, cũng chính trong những năm đầu sau đổi mới này, thời kỳ 1986-1988, tình hình lạm phát lại diễn ra nghiêm trọng nhất. Có thể nói, trong ba năm 1986, 1987 và 1988, Việt Nam gặp phải tình trạng siêu lạm phát. Đỉnh cao của lạm phát kể từ năm 1954 đến nay xảy ra vào năm 1986. Giá bình quân năm 1986 bằng 774% so với năm 1985 [26]. Ảnh hưởng của lạm phát bao trùm lên mọi lĩnh vực, từ sản xuất, tiêu dùng, tài chính, tín dụng, đời sống nhân dân, đe doạ sự ổn định về mặt chính trị của đất nước. Kinh tế rơi vào suy thoái với tốc độ tăng trưởng năm 1986 chỉ là 2,84%. Điều này được thể hiện trong bảng dưới đây:
TĂNG TRƯỞNG GDP VÀ LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 1986-1990
Chỉ tiêu
1986
1987
1988
1989
1990
Tăng trưởng GDP (%)
2,84
3,63
6,01
4,69
5,10
Lạm phát (%)
774,7
223,1
349,4
34,7
67,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Sau 18 tháng duy trì được tốc độ lạm phát tương đối thấp (trên 2%/tháng), đến cuối năm 1990, đầu năm 1991, lạm phát có xu hướng tăng trở lại. Mức giá vào tháng 1/1991 tăng thêm 14,3% so với tháng 12/1990 [19]. Từ đây, công cuộc chống lạm phát ở nước ta lại bước vào một giai đoạn mới.
Giai đoạn 1991-1998
Tình hình lạm phát từ năm 1991 đến năm 1998 được thể hiện qua hình sau:
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1998
Nguồn: Niên giám thống kê các năm
Quan sát hình trên, ta dễ dàng nhận thấy lạm phát diễn biến không ổn định từ năm 1991 đến năm 1998. Vào năm 1991, lạm phát phi mã hoành hành với tỷ lệ tương ứng là 67,5 %. Vào năm 1993, 1996 và 1997, tỷ lệ lạm phát xuống thấp ở mức trên dưới 5%/ năm. Các năm khác trong giai đoạn này, lạm phát dao động ở mức trên dưới 10%/năm. Tuy nhiên, từ năm 1990 đến năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao so với các năm trước, GDP tăng từ khoảng 6%/năm đến trên 9%/năm [20].
Giai đoạn 1999-2000
Đây là giai đoạn xu hướng lạm phát đổi chiều thành giảm phát. Nếu như tỷ lệ lạm phát năm 1998 lên tới 9,2% thì sang các năm sau, con số giảm dần xuống còn 0,1% vào năm 1999 và -0,6% vào năm 2000. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này chủ yếu là do những biến động về kinh tế trong nước cũng như trên thị trường thế giới, không phải xuất phát từ những bất cập trong chính sách.
Từ tháng 3 đến tháng 12/1999, tức là trong 8 tháng liên tục, chỉ số giá cả giảm. Tính riêng từng mặt hàng, có ảnh hưởng quan trọng đến chỉ số giá cả ở Việt Nam thì giá lương thực sụt giảm trong cả năm: chỉ số giá lương thực giảm 7,8% so với tháng 12 năm 1998, thậm chí giảm tới 10,5% ở thời điểm tháng 12/1999. Sự giảm sút giá lương thực là do được mùa lúa (sản lượng lương thực quy thóc đạt mức cao chưa từng có ở nước ta: 33,8 triệu tấn) và giá gạo xuất khẩu giảm 17,8% (so với năm 1998) dưới tác động của xu hướng đi xuống của giá gạo trên thị trường thế giới [13]. Có thể nói, chính tình trạng cung vượt cầu trong nền kinh tế đã là nguyên nhân chủ yếu giúp cho giá lương thực có xu hướng đi xuống, kéo theo việc lạm phát chỉ ở mức rất thấp.
Sang năm 2000, chỉ số giá liên tục giảm và tình trạng này kéo dài trong nhiều tháng ở quý II và quý III; trong một số tháng, CPI có nhích lên nhưng không đáng kể. So với tháng 12/1999, chỉ số giá giảm suốt từ tháng 3 cho đến tháng 12 và bình quân cả năm đã giảm 0,6%. Giá hàng lương thực - thực phẩm vẫn tiếp tục giảm và đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giảm phát trong năm này. Trong cả năm này, giá lương thực giảm 9,5%, giá thực phẩm giảm 2,3% so với năm 1999. Tuy các hàng hoá khác đều có giá tăng từ 1% đến 3% nhưng do trọng số của nhóm lương thực - thực phẩm trong giỏ hàng hóa để tính CPI lớn (gần 50%) nên chỉ số giá chung cả năm bị kéo xuống thấp [13], [22].
Tình hình kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006
Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2006 diễn biến theo hai xu hướng rõ rệt: giai đoạn 2001-2003: lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và tương đối ổn định; trong khi đó, sang thời kỳ 2004-2006 (và năm 2007): lạm phát diễn ra ở mức cao và đáng lo ngại. Điều đó được thể hiện qua hình sau:
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2006
Nguồn: Niên giám thống kê các năm
Với diễn biến như vậy, phân tích dưới đây sẽ chia giai đoạn nghiên cứu thành hai thời kỳ: thời kỳ lạm phát được kiểm soát tốt 2001-2003 và thời kỳ lạm phát ở mức cao 2004-2006.
Thời kỳ 2001-2003: Lạm phát được duy trì ở mức thấp và ổn định
Như đã đề cập đến ở trên, thời kỳ 2001-2003 tiếp nối sau thời kỳ giảm phát 1999-2000, do đó, tình hình giá cả trong ba năm này vẫn còn có “dư âm” của thời kỳ trước, nhất là trong năm 2001.
Trong năm đầu tiên của thời kỳ, giá cả khá ổn định. Chỉ số trượt giá tháng 12/2001 so với cùng kỳ năm 2000 là 100,8% hay tỷ lệ lạm phát của năm đó là 0,8%. Nền kinh tế đã trải qua 5 tháng chỉ số giá tăng, 3 tháng chỉ số giá đứng và 4 tháng chứng kiến giá giảm. Một đặc điểm nữa là biên độ dao động của chỉ số giá qua các tháng rất nhỏ, chưa đến 0,5%/ tháng (trừ tháng 12/2001, mức giá chung tăng 1%). Điều đó được thể hiện qua hình sau:
DIỄN BIẾN CPI QUA CÁC THÁNG CỦA NĂM 2001
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001
Trong năm 2001, giá hàng lương thực tiếp tục giảm mạnh, ở thời điểm tháng 6, tháng 7 năm 2001 chỉ bằng 94% so với tháng 12/2000. Với nhóm hàng thực phẩm, mặt bằng giá thị trường qua các tháng đều ở mức xấp xỉ 100% so với tháng 12/2000. Đến cuối năm,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNH021.doc