MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .
MỤC LỤC . .
THUẬT NGỮVIẾT TẮT .
CHƯƠNG 1 : CHUYỂN MẠCH NHÃN ĐA GIAO THỨC MPLS
1.1. Tổng quan chuyển mạch nhãn đa giao thức .
1.1.1. Giới thiệu .
1.1.2. Định tuyến và chuyển mạch gói truyền thống .
1.1.3. MPLS là gì ?.
1.1.4. Lợi ích của MPLS .
1.2. MPLS và các thành phần .
1.2.1. LERs và LSRs
1.2.2. Lớp chuyển tiếp tương đương FEC
1.2.3. Nhãn .
1.2.4. Tuyến chuyển mạch nhãn (LSP)
1.2.5. Giao thức phân phối nhãn .
1.2.6. Kĩthuật điều khiển lưu lượng
1.2.7. Định tuyến ràng buộc .
1.3. Hoạt động của mạng MPLS .
1.4. Đường hầm trong MPLS .
1.5. Kiến trúc hệthống giao thức MPLS
1.6. Các ứng dụng của MPLS .
1.7. Tóm tắt chương .
CHƯƠNG 2 : CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ .
2.1. Mở đầu .
2.1.1. Động lực QoS .
2.2. Các định nghĩa cơbản .
2.2.1. QoS là gì ?.
2.2.2. Một sốkhái niệm cơbản của QoS .
2.2.3. Điều kiện cần thiết cho QoS . . .
2.3. Kiến trúc cơbản của QoS .
2.3.1. Phân biệt và đánh dấu .
2.3.2. QoS trong các phần tửmạng riêng lẻ .
2.3.3. Quản lý chất lượng dịch vụ
2.4. Mức chất lượng dịch vụ đầu cuối-đầu cuối .
2.5. Tóm tắt chương .
CHƯƠNG 3 : CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤTRONG MẠNG MPLS
3.1. Mở đầu .
3.2. Mô hình QoS và TE ban đầu
3.2.1. IntServ với RSVP .
3.2.2. DiffServ .
3.2.3. MPLS .
3.3. MPLS với DiffServ
3.3.1. MPLS hỗtrợDiffServ
3.3.2. Kĩthuật điều khiển lưu lượng DiffServ-Aware MPLS .
3.4. Thực hiện quản lý hàng đợi trong MPLS-DiffServ
3.5. Các thành phần QoS trong MPLS UNI .
3.6. Tóm tắt chương .
KẾT LUẬN .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
53 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 2454 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thích với các loại chuyển tiếp lớp 2 khác nhau (ATM,
Frame Relay, PPP)
Hình 9 miêu tả các giao thức có thể sử dụng trong hoạt động MPLS. Phương
thức định tuyến có thể là bất kỳ một trong các giao thức phổ biến. Phụ thuộc vào môi
trường hoạt động, các giao thức định tuyến có thể là OSPF, BGP, hay PNNI của ATM,
v.v… Module LDP tận dụng giao thức điều khiển truyền tin (TCP) để đảm bảo quá
trình truyền dữ liệu điều khiển từ một LSR đến LSR khác trong suốt một phiên. LDP
cũng duy trì LIB. LDP sử dụng giao thức UDP trong suốt giai đoạn vận hành tìm kiếm
của nó. Trong trường hợp này, LSR cố gắng xác định các phần tử lân cận và đồng thời
báo hiệu sự có mặt của chúng trong mạng. Điều này được thực hiện thông qua một
trao đổi các gói tin hello.
IP Fwd là phương thức chuyển tuyến lớp IP để tìm đường tiếp theo bằng cách
khớp địa chỉ dài nhất trong bảng của chúng. Với MPLS, điều này được thực hiện bởi
các LER. MPLS Fwd là phương thức chuyển tiếp để kết nối một nhãn với một cổng lối
ra cho các gói tin. Các lớp với miêu tả trong hình hộp với đường nét đứt có thể thực
hiện bằng phần cứng tạo nên hoạt động nhanh và hiệu quả.
Hình 9 : Hệ thống giao thức MPLS
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
22
Khoá luận tốt nghiệp
1.6. Các ứng dụng của MPLS
MPLS quan tâm một cách có hiệu quản các đòi hỏi của mạng đường trục ngày
nay bằng cách cung cấp giải pháp chuẩn cơ sở thực hiện những mục đích sau:
o Cải thiện chức năng chuyển tiếp gói trong mạng
¾ MPLS tăng cường và đơn giản hoá chuyển tiếp gói qua router sử dụng
mô hình chuyển mạch lớp 2
¾ MPLS đơn giản, cho phép triển khai một cách dễ dàng
¾ MPLS tăng chức năng mạng bởi vì nó cho phép việc định tuyến bởi
chuyển mạch ở tốc độ đường dây
o Hỗ trợ QoS và CoS với các dịch vụ khác nhau
¾ MPLS sử dụng thiết lập tuyến có điều khiển lưu lượng và giúp đạt được
các mức dịch vụ đảm bảo
¾ MPLS kết hợp thiết lập tuyến ràng buộc và lập tuyến hiện
o Hỗ trợ sự linh hoạt của mạng
¾ MPLS có thể được sử dụng để tránh vấn đề chồng phủ N2 kết hợp với
mạng lưới IP-ATM
o Tích hợp IP và ATM vào mạng
¾ MPLS cung cấp cầu nối giữa mạng truy cập IP và lõi ATM
¾ MPLS có thể sử dụng lại các chuyển mạch cứng/ router có sẵn của ATM,
kết hợp một cách có hiệu quả hai mạng riêng biệt
o Xây dựng khả năng vận hành liên mạng
¾ MPLS là một giải pháp chuẩn mà có thể đạt được sự hợp lực giữa mạng
IP và ATM
¾ MPLS làm cho IP dễ dàng kết hợp qua SONET tích hợp chuyển mạch
quang
¾ MPLS giúp xây dựng các mạng VPN mềm dẻo với khả năng điều khiển
lưu lượng
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
23
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
1.7. Tóm tắt chương
Trong chương 1, đã trình bày những vấn đề cơ bản của chuyển mạch nhãn đa
giao thức MPLS với các vấn đề được đề cập tới như : các thuật ngữ, các thành phần,
các giao thức sử dụng trong mạng MPLS cũng như nguyên tắc hoạt động của mạng.
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
24
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 2 : CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ
2.1. Mở đầu
Chất lượng dịch vụ (QoS) liên quan tới khả năng cung cấp các dịch vụ tốt hơn
của một mạng đối với một lưu lượng mạng đã chọn với những công nghệ khác nhau
bao gồm Frame Relay, ATM, Ethernet và các mạng 802.1, SONET, IP. Mục đích
chính của QoS là cung cấp thứ tự ưu tiên bao gồm cấp băng thông, điều khiển rung
pha và trễ (cần thiết đối với các ứng dụng thời gian thực và lưu lượng tương tác), cải
thiện sự mất mát. Một điều quan trọng nữa là cung cấp sự ưu tiên cho một hay nhiều
luồng mà không làm cho các luồng khác bị lỗi. Công nghệ QoS cung cấp những khối
cơ sở xây dựng sẵn có thể dùng trong các ứng dụng thương mại trong tương lai trong
các mạng WAN và đối với các nhà cung cấp dịch vụ mạng.
2.1.1. Động lực QoS
Lúc khởi đầu, mạng IP không có bất cứ quá trình nào thực hiện QoS. Internet
dựa trên TCP/IP không được hoạch định cho việc cung cấp thoại hay các dịch vụ khác
mà đòi hỏi rất chặt chẽ về băng thông, trễ và rung pha. TCP được định nghĩa với FTP,
SMTP, TELNET và các kiểu truyền dữ liệu khác. Nó đặc trưng bởi cửa sổ trượt với
kích cỡ thay đổi, khởi phát chậm, tránh tắc nghẽn bằng cách giảm nửa mọi mất mát,
điều chỉnh khoảng thời gian timeout cho việc nhận được xác nhận. Quá trình cơ bản
liên quan tới giải quyết tắc nghẽn, ví dụ khi tải lưu lượng lớn hơn băng thông cho
phép, là loại bỏ gói. Trong “môi trường chất lượng dịch vụ”, nhà cung cấp dịch vụ
thêm băng thông để giảm mức tắc nghẽn khi lượng lưu lượng trên Internet tăng lên.
Kết quả kéo theo là vốn của nhà cung cấp dịch vụ sẽ bị chi cho dung lượng lưu lượng,
mà điều này không cần thiết liên quan tới thu nhập từ dịch vụ, dẫn tới khó khăn trong
kinh doanh.
Hơn nữa, các nhà cung cấp dịch vụ sau này tập trung chuyển sang triển khai
quản lý lưu lượng và các quá trình QoS. Có một vài lý do cho việc đó. Thứ nhất, với
sự gia tăng dung lượng lưu lượng trong mạng của họ, các nhà cung cấp nhận ra rằng
rất khó giảm bớt tắc nghẽn chỉ với băng thông. Thay đổi trong phân bố lưu lượng và
lỗi của node/ tuyến có thể dẫn tới kiểu tắc nghẽn không đoán trước, và sự vượt trội dự
trữ đáng kể qua toàn bộ mạng trở nên đắt ghê gớm. Thứ hai, nút cổ chai vẫn thỉnh
thoảng xảy ra khi truy cập, trong khi vượt quá dự trữ là không kinh tế. Thứ ba, sự suy
sụp trong nền kinh tế hiện nay trong ngành công nghiệp mạng đã dẫn tới các công ty
phải cắt giảm vốn mới cần thiết cho yêu cầu thêm băng thông, và thay vào đó là việc
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
25
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
tập trung vào việc nâng cao chức năng mạng trên cở sở vật chất có sẵn hiện tại. Thứ
tư, rất quan trọng đó là việc đưa ra mô hình kinh doanh trên cơ sở tiếp cận các dịch cụ
bổ sung và nâng cao. Mạng hội tụ có thể cung cấp thoại, dữ liệu, và các dịch vụ video
được hi vọng là dễ dàng vận hành và quản lý hơn các mạng song song đang tồn tại, mà
ảnh hưởng đáng kể tới chi phí vận hành. Nhưng để có thể thực hiện hội nghị từ xa dựa
trên chuyển mạch gói và các dịch vụ multimedia với đối tượng doanh nghiệp, mạng
hội tụ phải cung cấp chất lượng hoàn hảo và hỗ trợ thoả thuận cấp độ dịch vụ chặt chẽ.
2.2. Các định nghĩa cơ bản
2.2.1. QoS là gì ?
Trước khi thảo luận các quá trình QoS và liên hệ của nó tới MPLS, chúng ta
nên xem lại một vài định nghĩa chính và các khái niệm liên quan. Trong khi không có
một định nghĩa chính thức của QoS thì những định nghĩa sau được xem là có hiệu lực
trong phạm vi đề tài này.
Một cách cơ bản nhất, QoS cho phép bạn cải thiện chất lượng dịch vụ tốt hơn
đối với các luồng nhất định. Điều này được thực hiện bằng cách tăng mức ưu tiên đối
với một luồng và giảm mức ưu tiên của luồng khác. Khi sử dụng các công cụ quản lý
nghẽn mạch, bạn cố tăng mức ưu tiên của một luồng bằng hàng đợi và đảm bảo hàng
đợi theo các cách khác nhau.Công cụ quản lý hàng đợi được sử dụng để tránh tắc
nghẽn tăng mức ưu tiên bằng cách bỏ các luồng ưu tiên thấp trước các luồng ưu tiên
cao. Kiểm soát (policing) và hoạch định (shaping) cung cấp mức ưu tiên đối với một
luồng bằng cách hạn chế thông lượng (throughput) của luồng khác.
Yoram Bernet đã phân biệt giữa định nghĩa QoS thụ động và chủ động. Định
nghĩa thụ động miêu tả chất lượng dịch vụ như là lưu lượng chuyển tải qua mạng.
Trong khi định nghĩa chủ động liên quan tới quá trình điều khiển chất lượng dịch vụ
thu được bởi lưu lượng chuyển qua mạng. Định nghĩa chủ động của Bernet về chất
lượng dịch vụ mạng là “ Khả năng điều khiển các quá trình xử lý lưu lượng trong
mạng để mạng có thể gặp được đòi hỏi dịch vụ của ứng dụng nào đó và các chính sách
mà người dùng đưa ra đối với mạng”.
Jerry Ash cung cấp một tập hợp mở rộng các định nghĩa liên quan tới TE và
QoS từ quan điểm của nhà cung cấp dịch vụ. Trong khi khả năng quản lý và hoạch
định mạng đảm bảo cho chức năng của mạng trong tương lai, quản lý lưu lượng lại
liên quan tới việc tối ưu nguồn tài nguyên có sẵn của mạng dưới các điều kiện khác
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
26
Khoá luận tốt nghiệp
nhau. Quản lý lưu lượng bao gồm các chức năng điều khiển định tuyến, quản lý bảng
định tuyến, định tuyến động.
Trong [TE-QoS], QoS được định nghĩa là “một tập hợp các yêu cầu gặp phải
bởi mạng khi truyền dẫn một kết nối hay một luồng, hay tập hợp các ảnh hưởng của
chức năng dịch vụ mà xác định mức độ thoả mãn của người dùng dịch vụ”. Định nghĩa
này là “thụ động” theo phân biêt của Bernet, nhưng định nghĩa sau của Quản lý tài
nguyên QoS là “chủ động” : “chức năng mạng mà bao gồm phân biệt cấp độ dịch vụ,
rút ra bảng định tuyến, quản lý kết nối, cấp phát băng thông, bảo vệ băng thông, dành
sẵn băng thông, định tuyến ưu tiên, hàng đợi ưu tiên”.
Tóm lại, ta sẽ nói về QoS như là sự yêu cầu dịch vụ của rất nhiều các ứng
dụng, và về các quá trình QoS / các chức năng quản lý tài nguyên QoS như quá trình
điều khiển mạng mà cho phép một mạng thoả mãn QoS.
Yêu cầu dịch vụ của các ứng dụng khác nhau có thể biểu diễn bằng một tập
các tham số bao gồm băng thông, trễ, rung pha, mất mát gói, quyền ưu tiên và một vài
thứ khác. Ví dụ thoại và các ứng dụng multimedia rất nhạy cảm với trễ và rung pha,
trong khi các ứng dụng truyền dữ liệu có thể đòi hỏi mất mát gói rất thấp. Chúng ta sẽ
xem các tham số đó là các biến QoS.
2.2.2. Một số khái niệm cơ bản của QoS
Trễ
Trễ là khoảng thời gian một bản tin chiếm khi truyền từ điểm này sang điểm
khác trên mạng. Trễ bao gồm một số thành phần như thời gian tiêu tốn trong hàng đợi
của bộ định tuyến-trễ xếp hàng, thời gian cần thiết để thực hiện quyết định trong bộ
định tuyến-trễ chuyển tiếp, thời gian cần thiết để tuyến vật lý truyền dữ liệu-trễ lan
truyền và thời gian sử dụng để đặt gói tin lên mạng-trễ nối tiếp hoá. Thành phần có thể
được quản lý với QoS là trễ xếp hàng. Gói có ưu tiên cao hơn sẽ được đưa ra để truyền
trước các gói có ưu tiên thấp hơn và các kĩ thuật quản lý hàng đợi như RED có thể
được sử dụng.
Rung pha
Rung pha được định nghĩa như sự biến đổi trong các trễ chuyển tiếp đầu cuối-
đầu cuối. Trong một số ứng dụng, như các ứng dụng thời gian thực không thể chấp
nhận rung pha. Giao thức TCP cũng thực hiện rất kém dưới tác dụng của rung pha, vì
nó cố gắng điều chỉnh tốc độ truyền dẫn của nó tương ứng.
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
27
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
Băng thông
Băng thông biểu thị tốc độ tryền dữ liệu cực đại có thể đạt được giữa hai điểm
kết cuối
Tổn hao
Tổn hao gói tin là trường hợp khi gói tin không tới được đích của nó trước thời
gian timeout của bộ thu. Trong mạng TCP/IP thì tổn hao gói tin chủ yếu là do nghẽn,
đây là nguyên nhân tạo ra sự tràn bộ nhớ hoặc loại bỏ gói tin bởi các phương tiện quản
lý lưu lượng.
Cấp độ dịch vụ (CoS)
Khái niệm cấp độ dịch vụ CoS có nghĩa hẹp hơn QoS và chỉ ra một cách đơn
giản rằng các dịch vụ có thể phân loại được trong các cấp độ khác nhau, có thể được
cung cấp cho người sử dụng và được quản lý độc lập.
Thoả thuận mức dịch vụ (SLA)
SLA là hợp đồng giữa khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ SP, SLA định mức
dịch vụ nào SP định cung cấp. Ý tưởng rất đơn giản : khách hàng nào báo cáo bao
nhiêu lưu lượng họ sẽ gửi và trả tiền cho mức độ tối thiểu được đảm bảo trong lưu
lượng đó.
2.2.3. Điều kiện cần thiết cho QoS.
Với QoS như được định nghĩa ở trên, chúng ta hãy xem xét các yêu cầu cơ bản
mà cần phải có để có thể thu được nó. Để có thể cung cấp QoS cho nhiều loại yêu cầu
của ứng dụng (ví dụ : thoại, multimedia..), mạng phải thoả mãn hai điều kiện cần thiết
o Điều kiện thứ nhất là băng thông phải được đảm bảo cho một ứng dụng
dưới các điều kiện khác nhau, bao gồm cả nghẽn và lỗi.
o Điều kiện thứ hai là khi một ứng dụng truyền qua mạng, nó phải nhận được
sự đối xử dựa trên cấp độ thích hợp, bao gồm cả sự sắp xếp và việc loại bỏ
gói. Chúng ta có thể nghĩ là hai điều kiện đó là trực giao. Một luồng có thể
có băng thông hiệu quả nhưng phải chịu trễ (điều kiện thứ nhất đạt được
còn điều kiên thứ hai thì không). Hoặc một luồng có thể được phục vụ một
cách thích hợp trong mọi node mạng nhưng bị chấm dứt hoặc bị méo bởi sự
dao động một chút của băng thông (điều kiện thứ hai đạt được nhưng điều
kiện thứ nhất thì không). Vì thế cần phải thoả mãn cả hai điều kiện này để
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
28
Khoá luận tốt nghiệp
thu được đảm bảo QoS chắc chắn mà đã được yêu cầu bởi nhà cung cấp
dịch vụ và khách hàng của họ.
2.3 Kiến trúc cơ bản của QoS
Kiến trúc cơ bản đối với việc thực thi QoS bao gồm ba phần cơ sở
o Kĩ thuật phân biệt (identification) và đánh dấu (marking) QoS cho việc định
QoS từ đầu cuối tới đầu cuối giữa các phần tử mạng
o QoS trong các phần tử mạng riêng lẻ ( Ví dụ : hàng đợi, sắp xếp và các
công cụ hoạch định lưu lượng)
o Chức năng kiểm soát, quản lý, hoạch định (accouting) đối với việc điều
khiển và quản trị lưu lượng đầu cuối-đầu cuối qua mạng
Hình 10 : Kiến trúc cơ bản của QoS
2.3.1. Phân biệt và đánh dấu QoS
Phân biệt và đánh dấu được thực hiện thông qua phân loại (classification) và
điều phối (reservation)
- Phân loại
Để cung cấp dịch vụ hoàn hảo cho một loại lưu lượng thì đầu tiên nó phải
được phân biệt. Bước thứ hai gói có thể được đánh dấu. Hai bước đó tạo thành quá
trình phân loại. Khi một gói được phân biệt nhưng không được đánh dấu, phân loại
được xem là trên cơ sở mỗi chặng (per hop), khi mà việc phân loại chỉ liên quan tới
thiết bị mà nó vào, không liên quan tới router tiếp theo. Điều này xảy ra với hàng đợi
ưu tiên (PQ) và hàng đợi tùy ý (CQ). Khi gói được đánh dấu cho việc sử dụng rộng rãi
trên mạng, bit IP ưu tiên có thể được đặt.
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
29
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
Các phương pháp phân biệt luồng thông dụng gồm điều khiển danh sách truy
cập (ACL-Access control list), định tuyến kiểm soát (policy-base routing), tốc độ truy
cập cam kết (CAR-commited access rate), thừa nhận ứng dụng mạng (NAR-
network-base application recognition)
2.3.2. QoS trong các phần tử mạng riêng lẻ
Quản lý tắc nghẽn, quản lý hàng đợi, hiệu suất tuyến và các công cụ hoạch
định/kiểm soát cung cấp QoS với các phần tử đơn lẻ của mạng
- Quản lý tắc nghẽn
Bởi bản chất bùng nổ tự nhiên của voice/video/dữ liệu, thỉnh thoảng số lượng
lưu lượng vượt quá tốc độ của tuyến. Trong trường hợp đó, router sẽ làm gì? Liệu nó
sẽ lưu trữ các lưu lượng trong một hàng đợi và để gói đầu tiên là gói đầu sẽ ra? Hay nó
sẽ đặt các gói trong các hàng đợi khác nhau và phục vụ hàng đợi nào đó thường xuyên
hơn? Công cụ quản lý tắc nghẽn sẽ quan tâm tới câu hỏi này. Công cụ bao gồm hàng
đợi ưu tiên (PQ), hàng đợi tùy ý (CQ), hàng đợi trọng số (WFQ-weighted fair
queuing), hàng đợi có trọng số dựa trên cấp độ (CBWFQ-class-base weighted fair
queuing).
- Quản lý hàng đợi
Bởi vì hàng đợi không phải kích thước vô hạn, nên nó sẽ đầy và tràn. Khi hàng
đợi đầy. Bất cứ một gói thêm nữa bất kì sẽ không thể vào trong hàng đợi và nó sẽ bị
bỏ. Đây là hiện tượng bỏ đuôi (tail drop). Vấn đề với bỏ đuôi là router sẽ không thể
bảo vệ những gói này khỏi bị bỏ( kể cả những gói ưu tiên cao). Vì vậy cần thiết có một
quá trình thực hiện hai việc:
o Cố gắng đảm bảo rằng hàng đợi không bị làm đầy, vì thế cần có một không
gian cho các gói ưu tiên cao
o Cần có một vài loại tiêu chuẩn đối với việc bỏ một gói có mức ưu tiên thấp
trước khi bỏ gói có mức ưu tiên cao
Phát hiện trọng số sớm ngẫu nhiên(Weighted early random detect-WERD)
cung cấp phương thức thực hiện những quá trình này
- Hiệu suất tuyến
Nhiều lần các tuyến tốc độ thấp nảy sinh vấn đề với các gói lớn. Ví dụ trễ nối
tiếp của gói 1500 byte trong một tuyến 56kbps
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
30
Khoá luận tốt nghiệp
-Kích thước của gói: 1500byte . 8bit/byte = 12000bit
-Tốc độ tuyến : 56000 bps
Kết quả : Trễ sẽ là 12000/56000 = 0.214s hay 214ms
Nếu một gói thoại tới sau một gói kích thước lớn. Trễ của thoại sẽ quá lớn
thậm chí ngay cả trước khi gói rời router! Chia nhỏ tuyến và ghép xen cho phép chia
các gói lớn thành các gói nhỏ hơn và ghép xen vào các gói thoại. Ghép xen cũng quan
trọng như chia nhỏ. Không có lý do gì để chia nhỏ gói mà để những gói thoại theo sau
những gói đã được chia nhỏ.
Một yếu tố ảnh hưởng khác nữa là việc loại trừ quá nhiều các bit mào đầu
(overhead bit). Ví dụ tiêu đề gói RTP có 40byte, với một tải cỡ nhỏ cũng phải khoảng
20 byte, và trong một số trường hợp thì mào đầu có thể bị gấp đôi.
- Kiểm soát và hoạch định lưu lượng
Hoạch định được sử dụng để tạo một luồng lưu lượng mà giới hạn khả năng
băng thông tối đa của luồng. Nó được sử dụng rất nhiều để tránh vấn đề tràn như đã đề
cập ở phần giới thiệu. Ví dụ, nhiều topo mạng sử dụng Frame Relay trong thiết kế hub-
and-spoke. Trong trường hợp này, điểm trung tâm thường có tuyến băng thông cao
(T1), trong khi các điểm ở xa có băng thông thấp hơn (384kbps). Trong trường hợp
này có thể lưu lượng từ điểm trung tâm sẽ bị tràn tại tuyến băng thông thấp. Hoạch
định là một cách hoàn hảo để lưu lượng gần với 384Kbps để tránh tràn ở điểm ở xa.
Lưu lượng được lưu trữ tạm thời để truyền dẫn sau đó để duy trì tốc độ đã định.
Kiểm soát tương tự như hoạch định, nhưng khác một khía cạnh rất quan trọng:
Lưu lượng ở một tốc độ xác định không được lưu trữ tạm thời (và thường bị bỏ).
2.3.3. Quản lý chất lượng dịch vụ
Quản lý chất lượng dịch vụ cho phép đặt và đánh giá mục đích và kiểm soát
chất lượng dịch vụ. Các phương pháp thông thường theo những bước sau:
o Bước 1 : Vạch ranh giới mạng với các thiết bị. Nó giúp cho việc xác định
đặc tính lưu lượng của mạng. Cũng như thế các ứng dụng với mục tiêu vì
chất lượng dịch vụ có thể được phân chia ( thường dựa vào thời gian đáp
ứng).
o Bước 2 : Triển khai các kĩ thuật QoS khi đã thu được các đặc tính lưu lượng
và các ứng dụng vì mục tiêu tăng chất lượng dịch vụ.
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
31
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
o Bước 3 : Đánh giá kết quả bằng việc kiểm thử đáp ứng của các ứng dụng để
xem khi nào mục tiêu chất lượng dịch vụ đã đạt được.
Để dễ dàng phát triển, có thể sử dụng Quản lý kiểm soát chất lượng dịch vụ
của Cisco(QPM-QoS policy manager), Quản lý thiết bị chất lượng dịch vụ (QDM-QoS
devices manager). Để kiểm định mức dịch vụ, có thể sử dụng Giám sát chức năng
mạng của Cisco (IPM-Internetwork Performance Monitor)
2.4. Mức chất lượng dịch vụ đầu cuối-đầu cuối
Mức độ dịch vụ liên quan tới khả năng chất lượng dịch vụ đầu cuối-đầu cuối
thực tế, có nghĩa là khả năng cung cấp các dịch vụ cần thiết bằng cách xác định rõ lưu
lượng đầu cuối-đầu cuối hay biên-biên(edge-to-edge). Các dịch vụ khác nhau ở mức
độ chất lượng dịch vụ, miêu tả chặt chẽ cách thức xác định giới hạn dịch vụ bằng cách
xác định băng thông, trễ, rung pha, và đặc tính mất mát.
Có ba mức cơ bản của chất lượng dịch vụ đầu cuối-đầu cuối có thể được cung
cấp bởi mạng không đồng nhất:
Hình 11 : Ba mức của Chất lượng dịch vụ đầu cuối-đầu cuối
o Best-efford service : Có rất ít chất lượng dịch vụ, best-efford service cơ bản
dựa trên kết nối không có sự đảm bảo. Được đặc trưng bởi hàng đợi FIFO,
không có sự khác biệt giữa các luồng.
o Differentiated service ( còn gọi là chất lượng dịch vụ mềm) : Một vài luồng
được đối xử tốt hơn các luồng khác ( tiến hành nhanh hơn, băng thông trung
bình cao hơn, tốc độ mất mát trung bình thấp hơn). Đây là sự ưu tiên mang
tính thống kê, không phải là đảm bảo cứng và nhanh. Nó được thực hiện
bằng cách phân loại lưu lượng và sử dụng các công cụ chất lượng dịch vụ
như PQ, CQ, WFQ, và WRED.
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
32
Khoá luận tốt nghiệp
o Gruaranteed service ( còn gọi là chất lượng dịch vụ cứng) : Thực sự là cách
dành riêng tài nguyên mạng cho lưu lượng xác định thông qua các công cụ
chất lượng dịch vụ như RSVP, CBWFQ.
Quyết định loại dịch vụ thích hợp với mạng triển khai phụ thuộc vào vài nhân
tố:
o Ứng dụng hay khó khăn mà khách hàng đang cố gắng giải quyết. Mỗi loại
dịch vụ thích hợp cho ứng dụng nhất định.
o Tốc độ mà khách hàng thực tế có thể nâng cao hệ thống của họ. Có một
phương thức nâng cao tự nhiên từ công nghệ cần thiết để cung cấp các dịch
vụ khác nhau cho tới sự cần thiết cung cấp các dịch vụ bảo đảm.
o Cái giá cho việc thực thi và triển khai các dịch vụ đảm bảo (Gruaranteed
Service) cao hơn so với dịch vụ phân biệt (Differentiated service).
2.5. Tóm tắt chương
Trong chương 2, chúng ta đã là quen với các khái niệm cơ bản về chất lượng
dịch vụ (QoS) cũng như kiến trúc cơ bản của QoS.
Chất lượng dịch vụ (QoS) cung cấp dịch vụ khác biệt ( Differentiated service),
cung cấp mức ưu tiên cao hơn cho các luồng hay dịch vụ đảm bảo (Guranteed service)
cung cấp sự đảm bảo mức độ dịch vụ. Cả hai tương phản với Best-effort service, cung
cấp những gì mà được xem như là có rất ít QoS.
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
33
Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
CHƯƠNG 3 : CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ TRONG MẠNG MPLS
3.1. Mở đầu
Chuyển mạch nhãn đa giao thức thường xuyên được đề cập tới chủ yếu xung
quanh vấn đề công nghệ chất lượng dịch vụ cho mạng chuyển mạch gói. Trong khi
thực tế rằng MPLS đóng vai trò rất quan trọng trong việc cho phép QoS, QoS lại
không phải là một thành phần cơ bản của MPLS. Cụ thể hơn, MPLS cung cấp môi
trường hướng kết nối cho phép kĩ thuật điều khiển luồng của mạng chuyển mạch gói.
Kĩ thuật điều khiển luồng có thể đảm bảo băng thông cho rất nhiều luồng khác nhau,
đó là điều kiện cần cho QoS. Để điều khiển trễ và rung pha trong các ứng dụng nhạy
cảm về thời gian (là một đòi hỏi chủ yếu khác của chất lượng dịch vụ). MPLS-TE phải
kết hợp công nghệ cung cấp luồng lưu lượng với cách đối xử đối với những cấp độ
nhất định của chúng, ví dụ như Giao thức dành sẵn tài nguyên (RSP) với mở rộng báo
hiệu đường hầm (RSVP-TE), và chuyển tiếp dựa trên dịch vụ phân biệt (DiffServ).
Chương này thảo luận các kiến trúc khác nhau và việc triển khai các mặt của mạng
đưòng trục chuyển mạch gói cho phép MPLS, cũng như các thành phần QoS của giao
diện MPLS UNI được định nghĩa bởi MPLS/ Frame Relay Alliance.
3.2. Mô hình QoS và TE ban đầu
Khi cộng đồng liên mạng nhận ra sự cần thiết của QoS trong mạng chuyển
mạch gói, một vài hướng hé mở. Dịch vụ tích hợp (IntServ) cùng với giao thức báo
hiệu RSVP, cung cấp kiến trúc QoS xác thực đầu tiên. Tuy nhiên sau khi xem xét
những vấn đề về sự linh hoạt và vận hành của IntServ với RSVP, IETF đã định nghĩa
kiến trúc dịch vụ phân biệt (DiffServ), với dạng cơ bản không đòi hỏi giao thức báo
hiệu. Sau đó MPLS được đưa ra như một cách tiếp cận hướng kết nối thích hợp với
không kết nối dựa trên mạng IP, và nó cho phép công nghệ điều khiển lưu lượng.
3.2.1 IntServ với RSVP
IntServ đã định nghĩa những đòi hỏi cho các quá trình QoS để thoả mãn hai
mục đích:
1. để phục vụ các ứng dụng thời gian thực
2. để điều khiển việc chia sẻ băng thông giữa các cấp độ lưu lượng khác nhau
Hai kiểu dịch vụ đã được định nghĩa tuân theo kiến trúc IntServ :
Đỗ Tiến Dũng-Lớp K46ĐA
34
Khoá luận tốt nghiệp
Dịch vụ đảm bảo ( Guaranteed Service ) và Dịch vụ tải được điều khiển
(Controlled Load Service), cả hai đều tập trung vào những đòi hỏi của ứng dụng riêng
lẻ.
Dịch vụ đảm bảo được định nghĩa để cung cấp mức độ chắc chắn của băng
thông, một biên trễ đầu cuối-đầu không đổi, không mất mát hàng đợi; và nó được dự
kiến cho các ứng dụng thời gian thực như thoại và video. Định nghĩa dịch vụ tải được
điều khiển không bao gồm bất kì một sự đảm bảo chất lượng chắc chắn nhưng nó đúng
hơn là “ sự xuất hiện của một mạng tải nhẹ”. Nó dự định dành cho các ứng dụng mà có
thể dung sai trong một khoảng giới hạn lượng mất mát và trễ, bao gồm các ứng dụng
thời gian thực thích nghi.
Để có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra và cung cấp các dịch vụ dự kiến, mô
hình IntServ gồm rất nhiều các tham số lưu lượng như tốc độ và giới hạn chùng (slack
term) cho dịch vụ đảm bảo; và tốc độ trung bình và kích cỡ bùng nổ (burst size) cho
dịch vụ tải được điều khiển. Để thiết lập giá trị những tham số này trong một mạng và
để cung cấp dịch vụ đảm bảo cho lưu lượng thời gian thực, RSVP được phát triển như
giao thức báo hiệu cho việc dành sẵn và điều khiển hiện.
Kiến trúc IntServ đã thoả mãn cả hai điều kiện cho mạng QoS. Nó cung cấp
băng thông thích hợp và tài nguyên hàng đợi cho mỗi luồng ứng dụng ( một “vi
luồng”). Tuy nhiên triển khai IntServ với RSVP đòi hỏi trạng thái mỗi vi luồng và báo
hiệu ở mỗi chặng. Nó thêm sự phức tạp đáng kể đối với việc vận hành mạng và không
linh hoạt. Vì thế mô hình IntServ chỉ được triển khai ở một số hữu hạn mạng, và IETF
đã chuyển sang phát triển hướng DiffServ thay thế với sự phức tạp tối thiểu.
3.2.2 DiffServ
Kiến trúc DiffServ thừa nhận một khía cạnh trái ngược với IntServ. Nó định
nghĩa Cấp độ dịch vụ (CoS), gọi là toàn thể (Aggregates), và chức năng quản lý tài
nguyên QoS với mỗi node, hay mỗi chặng (Per-Hop). Các định nghĩa CoS bao gồm
hành vi toàn thể (BA) xác định những yêu cầu cho việc sắp xếp (scheduling)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyển mạch nhãn đa giao thức mpls (đh qg hn).pdf