Trong truyện "Cây huê xà", tác giả đã thành công khi xây dựng tình huống để qua đó nhân vật bộc lộ cái phàn sâu thẳm nhất trong tâm hồn mà bình thường khó nhận biết được. Năm Điền vốn là một thầy rắn lừng danh của xóm Thuồng Luồng. Nhưng khi xuất hiện thầy Hai Rắn tài ba hơn, hắn ghen tức cảm thấy bị sĩ nhục và đã đem con gái mình làm mĩ nhân kế để dò hỏi thằng lợi con thầy Hai Rắn về toa thuốc thoa vào tay khiến rắn không cắn mà nghe lời. Bất hạnh thay cho hắn toa thuốc ăn cắp được đó vì thiếu cây huê xà nên không linh nghiệm và hắn rơi vào bi kịch gậy ông đập lưng ông:"Con Lài chết, có lẽ vì Năm Điền không tin con gái nên cho rắn cắn nó trước. Chừng thấy nó chết y buồn quá nên tự tử theo, không muốn chuyện đổ bể ra e mất thể diện với bạn đồng nghề"[Hương rừng Cà Mau, tập 1, tr.197]Đặt nhân vật trong tình huống "hùm tha sấu bắt" là một kiểu tạo thời thế để lộ diện anh hùng khi Sơn Nam khám phá phẩm chất của những con người Nam Bộ tiêu biểu như ông Tư Đức, Năm Tự.
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3529 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Con người và không gian Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a.
Mặc dù tinh thần bất khuất của con người trong tác phẩm của Viễn Phương, Vũ Hạnh có tính chất quyết liệt hơn so với Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam song cả hai đều đã chọn những không gian xa lạ, thời gian phiếm định, nhân vật phần lớn xuất hiện dưới áo mão hình hài và tính danh phương Bắc. Đối với người dân Nam bộ, những hình ảnh ấy tuy không quá mơ hồ nhưng không phải ai cũng biết.
Cũng không giống với những trái tim sục sôi lòng căm thù giặc như ông già Sa Thét, anh Ba Hoành trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng, không có những “người mẹ cầm súng” như chị Út Tịch trong tác phẩm của Nguyễn Thi, cũng không có những cuộc đối đầu chạm trán một mất một còn với kẻ thù như những trang viết của nhiều nhà văn Nam bộ khác cùng thời, nhưng tấm lòng yêu nước của con người Nam bộ qua truyện ngắn Sơn Nam không vì thế mà trở nên đơn điệu, tẻ nhạt. Tình yêu của họ tuy lặng lẽ thâm trầm nhưng vô cùng thiết tha sâu lắng.
Truyện ngắn Sơn Nam không tập trung phản ánh mối quan hệ đối nghịch giữa ta và địch mà chủ yếu khắc họa quan điểm, thái độ, cách cư xử của con người Nam Bộ trong hoàn cảnh có ngoại xâm. Dù không trực tiếp thể hiện những mâu thuẫn giằng co quyết liệt giữa ta và địch, truyện của Sơn Nam vẫn thể hiện một tình yêu quê hương đậm đà, đằm thắm, một ý thức chống xâm lăng sâu sắc.
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Sơn Nam
2.2.1. Dùng ngoại hình để khắc họa tính cách
Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bề ngoài của nhân vật. Đó chính là những nét về diện mạo, hình dáng, trang phục, cử chỉ, tác phong của nhân vật được biểu hiện trong tác phẩm. Chỉ bằng vài nét bút thoáng qua có tính chất chấm phá nhưng Sơn Nam đã tái hiện, dựng lên chân dung các nhân vật một cách rất rõ nét trước mắt người đọc. Để từ chân dung đó, người đọc có thể nhìn thấu một cách sinh động, trọn vẹn tính cách nhân vật.
Tính cách nhân vật là sự thống nhất gi ữa bản chất bên trong và những biểu hiện muôn màu muôn vẻ bên ngoài như ngoại hình, thái độ cử chỉ, hành
động, lời nói hằng ngày… Nhân vật của Sơn Nam cũng không nằm ngoài những yếu tố chung đó. Tuy nhiên, điều đặc biệt là qua khảo sát ba tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau chúng tôi nhận thấy trong số hơn một trăm năm mươi nhân vật được tác giả đề cập đến [không kể nhân vật có tính cách mờ nhạt] chỉ có khoảng hai mươi nhân vật được ông phác thảo vài nét về hình dáng bên ngoài. Trong đó nhiều nhân vật chỉ được ông giới thiệu chung chung như khi giới thiệu nhân vật cặp rằng Be, ông Năm xay lúa, Nguyên Hưu Henri.
Để chỉ nhân vật cặp rằng Be trong Nhứt phá sơn lâm, tác giả miêu tả “hắn mặc áo bành tô vàng, miệng ngậm ống vố ”. Khi giới thiệu về Nguyên Hưu Henri trong Anh hùng rơm, tác giả miêu tả “đó là một ông lạ mặt, người Việt Nam, mặc âu phục, tay xách cặp da, hút ống vố ”. Thậm chí người tiếng tăm lừng lẫy như ông Năm Hên trong Bắt sấu rừng U Minh hạ tác giả chỉ miêu tả gián tiếp qua lời nhận xét của những nhân vật khác trong tác phẩm: “Coi tướng của ông ghê như tướng thầy pháp” [Hương rừng Cà Mau, tập 1, tr.92]. Dường như Sơn Nam không chú trọng đến việc miêu tả ngoại hình, kể cả đối với những nhân vật vốn được tôn vinh là phái đẹp. Một cô gái ở tuổi mười tám đôi mươi như “con Lài” trong Cây Huê Xà chỉ được tác giả giới thiệu một cách ngắn gọn: “Con Lài là đứa con gái nhan sắc”. Tương tự như vậy, nhân vật “con Bảy” trong Con Bảy đưa đò, tác giả cũng chỉ miêu tả “Con Bảy có gương mặt chữ điền, đôi mắt đen lánh và vóc hình cao ráo”.
Trong trường hợp Sơn Nam chú ý miêu tả ngoại hình của nhân vật thì mục đích sâu xa không phải là để khắc họa chân dung nhân vật, mà để nhằm nói lên một ý nghĩa nào đó.Trong truyện Hương Rừng, Sơn Nam đã khá chú ý đến cốt cách, vẻ đẹp bên ngoài của nhân vật Hoàng Mai. Có thể nói, đây là nhân vật đầu tiên trong Hương rừng Cà Mau và cũng là nhân vật duy nhất trong suốt ba tập truyện được ông chú trọng đến vẻ đẹp của một cô gái vừa độ trăng tròn. Đó là hình ảnh của một cô gái thuộc dòng dõi hoàng tộc. Cô có “làn da trắng trong leo lẻo”, “mái tóc đen huyền”, “má đỏ hây hây”, “miệng chúm chím hàm tiếu”. Nét đẹp vương giả, kiêu sa ấy còn được ông tô điểm bằng thói quen chiêm ngưỡng, thưởng thức cội Hoàng Mai trước sân mỗi ngày, “trong khi cả rừng U Minh này mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả, lạc loài ấy”! Tôn vinh vẻ đẹp của Hoàng Mai cùng một lúc tác giả đã đối lập với sự tiều tuỵ của cô sau những ngày nương thân chốn “rừng thiêng nước độc”. Cũng như bao nhiêu con người sinh sống ở chốn này, dòng máu hoàng tộc, quí phái của nàng không ngăn được sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Đôi bàn tay ngà ngày xưa đã rụng mất hết hồi nào, chỉ có năm cuốn vải nhỏ quấn khéo léo thay thế. Mái tóc đen huyền giờ đây chỉ cần chuyền về phía sau lưng gầy hàng chục sợi tóc thi nhau tuông xuống… lược chải đến đâu, tóc lùa đến đấy. Tuy gió bấc thổi về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi đốt lửa để sưởi rồi giẫm chân lên than hồng mà cười. Đêm đến nàng rên khe khẽ. Hoàng Mai đã nhiễm chứng phong cùi. Chú ý đến vẻ đẹp và sự quí phái của Hoàng Mai, nói đến gia phả nhà Nguyễn, toa thuốc trường sinh mà Tằng tổ mấy đời của cô để lại, Sơn Nam muốn đề cập đến số phận mong manh bé nhỏ của con người trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Xây dựng nhân vật Hoàng Mai, tác giả tỏ ra độc đáo trong việc phản ánh cuộc sống đầy khó khăn gian khổ của người đi mở đất. Mặt khác, đó cũng là lời tố cáo chính sách áp bức bóc lột của bọn thực dân cướp nước và bè lũ tay sai. Vì trốn chạy ách áp bức bóc lột, vì không sống được ở quê nhà nên con người phải dấn thân vào chốn “thanh lâm u cốc” và phải chịu trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhân vật truyện ngắn Sơn Nam có diện mạo bên ngoài rất bình thường. Có thể khẳng định, viết về con người Nam Bộ nhưng Sơn Nam đã không chú trọng nhiều vào việc khắc họa ngoại hình của họ. Ông chỉ điểm qua bằng những nét vẽ thô sơ nhưng qua đó hình ảnh con người Nam Bộ lại hiện lên một cách rõ ràng và chân thực. Họ chính là những con người mang những đặc điểm và vẻ đẹp riêng của vùng đồng bằng sông nước.
Cái khó của truyện ngắn là với một dung lượng giới hạn người sáng tác phải thể hiện được trọn vẹn ý đồ nghệ thuật của mình. Chính vì thế, Sơn Nam đã lựa chọn những nét vẽ chấm phá một cách thành công để tô điểm hình ảnh về người Nam Bộ. Không cầu kỳ, tỉ mỉ mà gây được ấn tượng rất chân thực gần gũi cho người tiếp nhận. Đó cũng chính là ưu điểm của cây bút truyện ngắn này.
Ngoại hình nhân vật trong truyện Sơn Nam thường ngầm thông báo cho người đọc về hoàn cảnh sống và tính cách của họ. Người nông dân đặc trưng Nam Bộ thường được biết đến với hình ảnh bộ quần áo bà ba đen và chiếc khắn rằn. Trong một số truyện ngắn, Sơn Nam đã chú ý khắc họa ngoại hình của họ bằng một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc. Đó là ông già Hai, người làm nghề trồng dưa ở xứ biển Hà Tiên. Sơn Nam viết: “Người được gọi là “ông già Hai” tuổi hơn năm mươi, dáng điệu ốm yếu. Tuy cách xa hàng trăm thước, tôi thấy rõ mái tóc bạc và bộ quần áo lãnh đen, lấp lánh dưới ánh nắng mai” [Mây trời và rong biển, tr.112]. Đọc truyện ngắn Hòn Cổ Tron, hình ảnh một ông già Nam bộ hiện lên qua sự miêu tả thật đặc sắc của Sơn Nam. Đó là một con người đặc trưng của Nam Bộ với “tóc búi sáu ót, gài lại bằng cọng gai kim quýt nhưng ông có một cảnh ngộ hết sức đặc biệt đó là sống một mình ở hòn, nhiều tháng liên tiếp phơi lưng trần dưới ành nắng…”. đó cũng chính là những hình ảnh quí báu để người đọc có cái nhìn ban đầu về nhân vật. Chúng ta có thể hình dung ra dáng vẻ của một ông già gân guốc, khỏe mạnh mang đậm phong cách Nam bộ [tóc dài, bới thành búi…]. Đó là một con người thong dong, từ tốn, từng trải, dày dặn kinh nghiệm, sống gần gũi chan hòa với đất trời, một con người tự do, phóng khoáng.
Hoàn cảnh sống của nhân vật Bảy Đặng lộ rõ trong ngoại hình của anh. Cuộc sống vất vả khó khăn, ngoài thời gian làm ruộng vợ chồng Bảy Đặng còn làm nghề bắt rùa để sinh sống. Mấy năm trôi qua, cuộc sống vẫn không khá lên nổi, thậm chí Bảy Đặng còn chưa đóng được thuế thân cho nhà nước. Người nông dân Nam Bộ vật lộn với cuộc sống, bán mặt cho đất bán lưng cho trời ấy được Sơn Nam khắc họa chỉ bằng một chi tiết ngắn gọn: “Một người trạc tuổi bốn mươi, bước ra từ đám khói mù mịt, lưng đen láng mướt mồ hôi”[Cấm bắt rùa, tr.14]. Còn đây là sự nhận xét về anh thanh niên Hai Kéo, một nông dân Nam Bộ đang tuổi lao động dưới con mắt của bà đầm phô-xi-đông: “Hai Kéo vừa trẻ, vừa cao ráo, nước da đen ngăm, lồng ngực phồng lên no tròn, mặt vuông, chân mày rậm. Nếu anh ta đứng dậy, thủ bộ thì ắt giống như lực sĩ Hy Lạp”[Bà đầm Phô-xi-đông, tr.46]. Rõ ràng Hai Kéo là một thanh niên nông thôn Nam Bộ với một vẻ đẹp khỏe mạnh và lực lưỡng. Đó còn là vẻ đẹp nhân hậu của con Bảy đưa đò khi người kể chuyện nhận xét: “Con Bảy có gương mặt chữ điền, đôi mắt đen lánh và vóc người cao ráo” [Hương rừng Cà Mau, tập 1, tr.236]; vẻ đẹp mặn mà của cô Mịn mơ màng hiện lên trong tâm trí anh Tư Bình Thủy: “…nhớ đến đôi mắt của cô Mịn, đôi mắt đen như nước rừng, có đôi vì sao chiếu xuống ngời lên lấp lánh” [Nhứt phá sơn lâm, tr.129]; vẻ đẹp cao sang quý phái của cô Hoàng Mai với “làn da trằng leo lẻo”, “mái tóc đen huyền”, “má đỏ hây hây”, “miệng chúm chím hàm tiếu”[Hương rừng, tr.267],…
Ngoài ra, trong một số truyện ngắn Sơn Nam cũng chọn cách điểm qua về hình dáng, diện mạo của nhân vật làm bật lên đặc điểm bề ngoài của họ để người đọc dễ có cơ sở nắm bắt. Tác giả chỉ dành một câu để miêu tả ngoại hình của ông Năm Hên trong truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ. Qua lời nhận xét của nhân vật “tôi”, ông Năm Hên có dáng vẻ “như tướng của ông thầy pháp”. Tên cặp rằng Be trong truyện Nhất phá sơn lâm với đặc điểm
“hắn mặc áo bành tô vàng, miệng ngậm ống vố”; tên Nguyen Huu Henry trong Anh hùng rơm là một “ông lạ mặt, người Việt Nam, mặc âu phục, tay xách cặp da, miệng hút ống vố”,… Các chi tiết miêu tả ngoại hình dù rất nhỏ nhưng có giá trị trong việc thể hiện tính cách nhân vật. Khi xây dựng tác phẩm, mỗi nhân vật đều có một vai trò, vị trí nhất định. Có tác giả
chú ý nhiều đến ngoại hình, có người lại đặt nặng yếu tố ngôn ngữ, với nhà văn Sơn Nam cái mà ông mong muốn người đọc chú ý đến nhiều nhất đó là tính cách nhân vật. Mỗi nhân vật, Sơn Nam chỉ dành đôi ba dòng để miêu tả ngoại hình của họ vì điều quan trọng mà nhà văn muốn nhấn mạnh đó là tính cách của con người họ.
2.2.2. Dùng hành động và ngôn ngữ để khắc họa tính cách
Sơn Nam ít chú ý đến việc khắc họa nội tâm phức tạp. Điều này cũng rất phù hợp với tính cách của con người Nam bộ. Họ là những người thẳng tính, bộc trực, cởi mở. Những suy tư dằn vặt trong cuộc sống chỉ thoắt đến, tồn tại trong một khoảnh khắc nào đó rồi chợt tan biến đi. Họ không giấu giếm những niềm vui nỗi buồn của riêng mình, họ ít chôn chặt trong lòng những ưu tư phiền muộn. Bằng mọi cách, họ trút hết ra bên ngoài.
Để người đọc có thể thấy được rõ nét tính cách của nhân vật, ông rất chú ý trong việc mô tả hành động và ngôn ngữ của nhân vật.
Thể hiện tính cách nhân vật qua miêu tả hành động là một thủ pháp cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hành động là những việc làm cụ thể của nhân vật trong các quan hệ ứng xử với các cá nhân vật khác nhau và trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Hành động được xem như là kết quả cuối cùng của quá trình nhận thức, quá trình tâm lý, quá trình tình cảm. Qua hành động, Sơn Nam muốn để cho nhân vật của mình nói lên những suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái diễn biến bên trong nhân vật.
Có những chi tiết được Sơn Nam sử dụng để khắc sâu tính cách nhân vật, chẳng hạn đối với ông Năm Hên trong Bắt sấu rừng U minh Hạ. Hành động qui phục cả đàn sấu dẫn về làng đủ để thể hiện sự gan dạ mưu trí, thông minh sáng tạo của ông. Thế nhưng, hình ảnh một ông lão mặc áo rách vai, tóc rối bù, mắt đỏ ngầu tay cầm bó nhang đang cháy dở quơ qua quơ lại trên đầu và một tiếng hát ảo não rùng rợn ở cuối tác phẩm là một chi tiết đã mang lại cho người đọc một ấn tượng đậm nét hơn nữa về nhân vật này. Hình ảnh có vẻ phù chú, bùa phép đó là một biểu hiện trong đời sống tâm linh của người dân Nam bộ. Hành động của ông năm Hên có thể xem là một cách để tri ân những người đã khuất.
Trong Hồn người trong ly rượu, bản chất thâm độc, dã man của hương xã Tư được tác giả khắc sâu bằng chi tiết hắn cho người giết kẻ tình địch rồi lấy máu đem pha rượu cho vợ mình uống, sau đó hắn đưa vợ đến tận nơi để chứng kiến cảnh người chết đang nằm sóng soài trên mặt đất.
Trong truyện Sông Gành Hào, ở nhân vật chú Tư Đức, ta thấy ngoài lòng tự trọng, tinh thần trọng nghĩa khinh tài, ở chú còn có điểm đáng quí khác. Nó được biểu hiện qua thái độ của chú khi đối diện với ông Rốp. Sau một đêm chú bị bắt vì chở củi lậu, ông Rốp thả chú về chờ ngày trát đòi đến đóng tiền phạt [vì đây là lần đầu tiên vi phạm], chú bảo: “Chết thì tôi chịu chứ tôi đi về. Cha con tôi không có nhà cửa gì ráo… Bởi vì tôi không có đất… tôi đã cất nhà không nhiều lần rồi mà ở không yên…” [Hương rừng Cà Mau, tập 3, tr.186].
Ngoài nhân vật chú tư Đức, Ông Mười Bạch và ông Tư Nếp, ông hương cả Bình đều là những nhân vật hành động. Sơn Nam xây dựng tính cách nhân vật trên tinh thần miêu tả lời nói và hành động của họ.
Nắm bắt được vai trò quan trọng của ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học, Sơn Nam đã chú ý xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của mình luôn đi kèm hành động với ngôn ngữ. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, cách nói của họ luôn tương ứng với hành động họ sẽ làm. Từ đó, giúp người đọc có thể nhận ra đặc điểm về tính cách của con người Nam Bộ.
Cách nói của người dân ở một địa phương thường phản ánh những đặc trưng của môi trường mình đang sống. Nói khác đi, những cảm nhận quen thuộc của họ bao giờ cũng được thể hiện qua cách diễn đạt của mình. Với người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, môi trường sông nước miệt vườn đã tạo cho họ một cách nói tương ứng. Trong điều kiện giao lưu, tiếp nhận những bản sắc độc đáo riêng từ cách nói của người dân mỗi miền, cách
nói của nhân vật trong truyện ngắn Sơn Nam nói riêng và của người Nam Bộ nói chung phần nào đẽ thể hiện được nét đặc trưng của người dân vùng sông nước. Cách đối thoại của nhân vật trong truyện ngắn Sơn Nam đã bộc lộ những nét riêng trong lối sống và cách cư xử của người dân Nam Bộ, thể hiện văn hóa vùng miền của chính họ. Ngôn ngữ nhân vật [chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại] trong truyện Sơn Nam là ngôn ngữ thường nhật của người dân Nam Bộ. Nó thể hiện được tính cách và tâm lý ứng xử của họ trong cuộc sống, đó là sự bộc trực, mộc mạc, dân dã, tính hào hiệp, trọng nghĩa.
Nhân vật của Sơn Nam thường có cách nói đi thẳng vào vấn đề, ít quanh co màu mè, ít gây sự khó hiểu chi người nghe. Trong truyện ngắn " Con sấu cuối cùng", khi biết nhân vật "tôi" vì tò mò mà đến ông Năm Hên để điều tra thủ đoạn, và ông cai tổng Hi hiểu nhầm Năm Hên vì tham hai lượng vàng trên người cô dâu mà liều mạng với cá sấu, ông Năm Hên không quanh co, nói thẳng suy nghĩ của mình:
"Cháu tưởng bác vì tham hai lượng vàng nên liều mạng cưỡi lên lưng sấu hả. Thôi mình vô nhà nói vài lời nữa rồi ai về nhà nấy. Bác ra nghề lần chót đâu phải vì cai tổng Hi mà vì lí do khác. Nếu tiếc hai lượng vàng ổng cứ mượn thợ chài tới đó mà mò lên"[Hương rừng Cà Mau, tập 2, tr.21].
Qua cách nói đó thể hiện tính cách người Nam Bộ thẳng thắn, đơn giản, sòng phẳng không kiểu cách câu nệ. Trong truyện " Mùa len trâu", cuộc nói chuyện của hai vợ chồng chú Tư diễn ra một cách tự nhiên, thoải mái:
"thím Tư hơi giận:
- Nghề gì? Chăn trâu mà cũng học nữa à? Tôi không ham cái nghề đó.
- Má nó nói dỡn hay sao chớ?
Chú Tư lại vấn thuốc hỏi vợ:
- Má nó ngủ hay thức? Nãy giờ nghe không? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rồi?
- Tôi nằm nghe đây mà. Nghe bằng lỗ tai chứ nghe bằng miệng sao mà ừ hử từng chập?
- Má nó nghe à tôi nói tới khúc nào rồi?
- Tới lúc trâu từ Ba Thê lội qua Bảy Núi"[Hương rừng Cà Mau, tập 3, tr.42]
Trong đoạn đối thoại trên, ngôn ngữ nhân vật mang tính ngang hàng, ít có tôn ti, nhưng không vì thế mà thím Tư bị nhìn nhận là người phụ nữ trắc nết. Bình đẳng trong ứng xử nói năng đến bình đẳng trong cuộc sống là một đặc điểm đáng quí của con người Nam Bộ.
Kiểu ngôn ngữ nhân vật thể hiện trực tiếp qua lời nói, đặc biệt là qua đối thoại xuất hiện phổ biển trong tác phẩm của Sơn Nam. Ngôn ngữ thường đi kèm với hành động, bởi vậy thường đơn giản thẳng thừng, không màu mè kiểu cách, không có những diễn biến nội tâm phức tạp, ít có ngôn ngữ độc thoại, ít có những điều uẩn khuất giấu kín.
Hay đoạn đối thoại sau giữa thằng Lợi và con Lài trong truyện Cây huê xà:
Thằng Lợi day lại cười:
- Đi đâu vậy cô hai … rắn bông súng?
Con Lài sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc. Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:
- Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất. Cười em làm chi.
- Rắn đâu dám cười rắn. Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài.”[ Hương rừng Cà Mau, tập 1, tr.194-195]
Cách nói của con Lài và Thằng lợi mang đậm chất dân dã, mộc mạc, không hoa mĩ, trau chuốt bằng những lời hay ý đẹp của những đôi trai gái yêu nhau.
Ở truyện Con cá chết dại, Sơn Nam sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc trong đoạn đối thoại giữa nhân vật Hồng, người phụ nữ đã xa chồng mười năm đang ở vậy nuôi con và anh Hai Tỵ, người cũng đang trong hoàn cảnh cô đơn:
“-Anh muốn “quá giang” qua sông?
-…Cô lầm rồi. Tôi mời cô lên bờ.
Huệ tức giận lên tiếng để hỗ trợ với mẹ:
- Ổng không quá giang thì mình cứ bơi tới, hơi đâu mà hỏi.
Hồng không nghĩ rằng mình là kẻ đang yếu thế. Tuy “mẹ góa con côi”, nàng đã nuôi con đến khôn lớn. Nàng dám xuống miệt này để gặt lúa và làm mắm, bất chấp đường xa.
- Ủa! Bơi đi đâu lạ vậy? Tôi đâu phải ăn cướp. Tôi là đứa biết điều giàu lòng nghĩa hiệp. Đời tôi cô độc lắm. Tôi nhảy xuống rạch bây giờ! Đòi tự tử để hăm dọa kẻ giàu tình cảm chăng?Hồng mỉm cười để lộ hai má lúm đồng tiền:
- Chết đâu chết phứt đi. Lì lợm quá. Để người ta làm ăn.
Hai Tỵ nói:
-Tôi nhảy xuống rạch để níu chiếc xuồng của cô.
- Đủ rồi nghen! Đừng nói dai.”
Tính bộc trực thẳng thắn được thể hiện rõ trong lời nói của nhân vật Hai Tỵ, còn cô Hồng hiện lên là người phụ nữ góa chồng nhưng đứng đắn và khá đáo để trong cách nói năng đối đáp. Đoạn đối thoại còn để lại chút dư vị hài hước hóm hỉnh qua lời nói bông đùa của nhân vật Hai Tỵ. Quả thật cách ăn nói có phần táo tợn của anh đã làm cho người khác phải để ý đến mình.
Đoạn đối thoại sau giữa Tư Bình Thủy và cặp rằng Be [Nhứt phá sơn lâm, tr.132] lộ rõ lên tính cách của con người Nam Bộ. Khi anh Tư Bình Thủy đang kể chuyện xứ mình và nói vài câu thơ Vân Tiên cho đám tay rìu rừng U Minh cùng nghe thì cặp rằng Be xuất hiện.
“Hắn chống xuồng từ trong rừng đi ra, hất hàm lên:
-Ê, Tư Bình Thủy nói dóc cái gì đó? Thằng này bữa nay bày đặt o mèo nữa hả? Thi phú của mày ăn nhập vào đâu?
Tư Bình Thủy trợn mắt nhìn cặp rằng Be. Hắn nhếch mép:
- Nói chơi không được hả? Tao cho mày hay: cô Mịn muốn có hạnh phúc thì hãy tìm một người giống như tao. Cô sẽ có áo bông quần lãnh.
Rồi hắn day lại nhìn cô Mịn mà cười:
Phải vậy không cô Mịn? Cưa củi làm chi mà áo rách vai, rách ngực. Người ta thấy da, thấy thịt của cô kìa…cô dòm lại coi…trắng xát.
Nhanh như chớp Tư Bình Thủy xách búa lội nước đùng đùng lại gần xuồng cặp rằng Be mà chửi:
- Ỷ làm cặp rằng hả? Đồ tục tĩu! Tao chém mày!”
Trong những trường hợp điển hình, đụng chạm đến danh dự và quyền lợi của họ, những người dân nghèo Nam Bộ như anh Tư Bình Thủy lại bộc lộ sự thẳng thắn và có những hành động rất nóng nảy. Họ không thể bằng lòng và không chịu để yên cho những kẻ ăn nói tráo trở, hành động xấc xược như tên cặp rằng Be chẳng hạn.
Thông qua những cuộc đối thoại trên, chúng ta có thể nhận ra tính cách của từng nhân vật. Họ vốn là những người hiền lành, chất phác thật thà nên nghĩ sao nói vậy, không hoa mỹ cầu kì. Bao nhiêu niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống họ đều trút cả ra bên ngoài. Có thể nói rằng từ cách thức xưng hô, ngôn ngữ diễn đạt của họ, người đọc có thể hình dung ra một cảnh tượng sinh động. Nhiều nhân vật trở nên sống động cũng nhờ một phần lớn ở cách nói năng, ứng phó mà tác giả đã tạo cho họ.
2.2.3. Tạo tình huống để nhân vật bộc lộ tính cách
Tình huống "là một trạng thái có tính chất riêng biệt và trở thành được qui định. Tình huống góp phần biểu lộ nội dung" [truyện ngắn những vấn đề…..tr. 110]. Nguyễn Minh Châu cho rằng tình huống chính là" một cái tình thế xảy ra chuyện, hết sức cụ thể và riêng biệt, ở đó cốt truyện và nhân vật nương tựa vào nhau để thưc hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả"[tài liệu truyện ngắn những …tr.112]. Như vậy tình huống chỉ là một khoảnh khắc thời gian, một "lát cắt trên thân cây cổ thụ"[Nguyễn Minh Châu], nhưng ở đó cuộc sống đậm đặc nhất chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, bắt buộc con người ở vào tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, thạm chí có khi đó là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại.
Thật vậy, tình huống truyện không chỉ là yếu tố thúc đẩy cốt truyện phát triển mà như ta đã thấy nó còn như là “chất xúc tác”, là thứ nước rửa ảnh để từ đó nhà văn tái hiện rõ nét hơn tính cách, bản chất của từng nhân vật. Qua đó phần nào khái quát được bức tranh tính cách của con người trong hiện thực đời sống.
Truyện của Sơn Nam thường xoay quanh cuộc sống sinh hoạt hằng ngày trong gia đình, làng xóm, những điều mắt thấy, tai nghe. Vì vậy nó sẽ trở nên vô cùng đơn điệu, nhàm chán nếu đó chỉ là những lời kể lại một cách vô cảm. Nét đặc trưng trong những truyện ngắn của ông là bao giờ trong những câu chuyện đời thường ấy cũng có những “chi tiết phát sáng”, những tình huống rất đắt.
Trước hết, Sơn Nam đã đặt nhân vật trong các tình huống để các nhân vật tự bộc lộ bản chất, tính cách của mình. Nhân vật bị đặt trong tình huống trớ trêu buộc lòng phải giải quyết được vấn đề đặt ra trong tình huống đó. Chính trong quá trình giải quyết tình huống có vấn đề, bản chất, tính cách con người được thể hiện một cách rõ nét.
Trong truyện "Tình nghĩa giáo khoa Thư", "Bà vợ thứ mười" tình huống diễn ra đơn giản rất đời thường đó là tình huống đòi nợ nhưng chứa đựng ý nghĩa nhân si nh sâu sắc về con người và cuộc đời. Ở truyện " Tình nghĩa giáo khoa Thư", thầy phái viên báo Chim Trời từ Rạch Gía xuống miệt Hậu Giang gặp Tư Có để thu tiền nợ báo, khi gặp thầy xã trưởng, chỉ qua một câu xã gaio hỏi thăm của thầy phái viên:'' từ đây đến nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy", mà tên xã trưởng đã thể hiện cái tính hống hách, khinh rẽ kẻ bần cùng:" để tôi ra lệnh cho phó hương ấp đòi tên đó tới công sở. Nó thiếu tiền của nhà báo hả? Nghèo mà không biết thân. Rất bất bình trước thái độ hách dịch của xã trưởng: "thầy cố nén sự bực tức khi nghe người độc giả yêu mến của mình bị thầy xã khinh khi cho dù nghĩ đến tương lai thầy hơi buồn nghĩ đến sự thất bại về tài chính. Bằng tình huống đòi nợ tính cách các nhân vật đã được biểu hiện rõ ràng: Thầy phái viên nhân ái bộc trực, tuy không đòi được nợ nhưng có thêm được người bạn mới là con nợ cùng chí hướng nhân cách. Quan hệ giữa chủ nợ và con nợ đã trở thành người bạn tâm giao tri kỉ.
Cũng tình huống này, trong truyện "Bà vợ thứ mười" bản chất của nhân vật kẻ ác như bà cai tổng Báu bị lộ rõ với thủ đoạn bất nhân:"thằng Nậu bèn kể lể tâm sự: nó vay của bà tổng Báu mười giạ lúa với hai mươi đồng bạc để làm mùa. Năm rồi mùa màng thất bát, nó trả không nổi. Bà cai Tổng gọi nó đến làm sẵn giấy tờ cho nó mượn thêm mười giạ lúa nữa. Nó đồng ý vi dốt nát không biết đọc. Dè đâu theo giấy tờ, nó đã cam kết bán đứt phần đất hương hỏa"[Hương rừng Cà Mau, tập 1, tr.62].
Trong các truyện "Một cuộc bể dâu", "Xóm Cù Là", Sơn Nam tạo ra tình huống cái chết, qua đó tính cách từng loại nhân vật bộc lộ rõ nét. Trong truyện "Một cuộc bể dâu", tình tiết lão Bích" tắt thở trong buổi chiều tàn, trên chiếc xuồng nát, giữa cánh đồng nước mênh mông không bến bờ đã làm cho những con người xa lạ nương tựa bấu víu vào nhau. Nhân vật Tư Lập, vợ chồng Hai Tích đã nhiệt tình hết lòng giúp đỡ thằng Kìm chôn xác cha trong mùa nước lũ:" ông dở cái nón che mặt lão Bích, phun rượu kéo tay xác chết ra cho ngay ngắn. Hai chiếc nóp gói kín xác của kẻ bạc mệnh. Bà Hai vào nhà rút mười sợi dây choại, chuyền xuống. Sau rốt hai ông bà lụm khụm khiêng xuống xuồng cái thớt trên của cối xay lúa cũ"[Hương rừng Cà Mau, tập3, tr.18]. Trong hoàn cảnh ấy chiếc nóp, chiếc cối đá là thứ tài sản quý giá của những con người sống chung với thiên nhiên khắc nghiệt ở Nam Bộ vào mùa lũ và lúc này đây chúng có giá trị hơn bất cứ áo quan sơn son thiếp vàng nào vì chưa đựng tình người, tấm lòng trượng nghĩa quên thân của những con người khinh tiền tài trọng nhân nghĩa.
Ngược lại trong tác phẩm "Xóm Cù Là", qua cái chết của thầy cai tổng Hanh, bản chất của con người được bộc lộ. Gía trị đạo đức băng hoại, con người bất hiếu bất nghĩa, bị tham vọng đồng tiền che mờ nhân tính. Xác chết của cai tổng Hanh đối với con trai ông ta là miếng mồi béo bở để kiếm được số tiền lớn:"Cậu Hai tin chắc nếu quàn suốt nữa tháng thì vẫn có vô số thân bằng quyến hữu đến điếu. Tổng cộng số tiền ấy tính đổ đồng mỗi người năm đồng. Cậu Hai thấy ngoài sân nơi che rạp đã xuất hiện quá nhiều thân hào. Họ chờ đợi để phúng điếu bằng tiền bạc"[Hương rừng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van hoan chỉnh.doc