MỤC LỤC
Mở đầu.
Phần một: sơ lược về bồn trũng cửu long.
Chương 1: Đặc điểm tự nhiên.
1.1 Vị trí địa lý vùng nghiên cứu .7
1.2 Đặc điểm khí hậu .7
1.3 Đặc điểm địa lý tự nhiên .7
Chương 2: Lịch sử nghiên cứu bồn trũng Cửu Long.
2.1 Giai đoạn trước năm 1975 .8
2.2 Giai đoạn sau năm 1975 8
Chương 3: Đặc điểm địa chất.
3.1 Địa tầng .11
3.2 Kiến tạo – Cấu tạo .18
3.3 Lịch sử hình thành – phát triển bồn trũng 22
Phần hai: ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC- KHOÁNG VẬT CỦA ĐÁ MÓNG
GK SV_1X LÔ 15-1 THUỘC BỒN TRŨNG CỬU LONG.
Chương 4: Đặc điểm thạch học - khoáng vật.
4.1 Đặc diểm thạch học .26
4.2Đặc điểm khoáng vật .26
Chương 5: Đặc điểm về độ rỗng thấm trong đá móng – các yếu tố ảnh hưởng.
5.1 Các kiểu lỗ rỗng trong đá móng.
5.1.1 Độ rỗng kiểu khe nứt – vi khe nứt .40
5.1.2 Độ rỗng hang hốc – vi hang hốc .41
5.2 Đặc tính biến đổi độ rỗng thấm trong đá móng.
5.2.1 Quá trình co giảm thể tích khi magma đông cứng . 42
5.2.2 Quá trình biến đổi do hoạt động kiến tạo .43
5.2.3 Quá trình biến đổi do hoạt động thủy nhiệt 44
5.2.4 Quá trình biến đổi do phong hoá .46
KẾT LUẬN . .48
TÀI LIỆU THAM KHẢO .50
PHỤ LỤC .51
82 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2218 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đặc điểm thạch học – khoáng vật học của đá móng giếng khoan SV_1X lô 15-1 thuộc bồn trũng Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át thúc và quá trình nguội lạnh diễn ra tiếp theo. Nhưng một số đứt gãy vẫn còn hoạt động ở mức độ yếu hơn. Các trầm tích có tuổi Miocene sớm phủ lên các trầm tích Oligocene. Hoạt động biển tiến đã tác động lên phần Đông Bắc bồn, trong khi đó ở phần Tây vẫn ở điều kiện lòng sông và châu thổ.
Vào cuối Miocene sớmï, sự thành tạo tầng sét biển Rotalia trên toàn bộ khu vực minh chứng cho biến cố lún chìm của bồn trũng và tầng sét này trở thành tầng đánh dấu địa chấn và tầng chắn khu vực tốt nhất.
Vào Miocene giữa, môi trường biển đã ảnh hưởng ít hơn.
Từ Miocene muộn đến nay, bồn trũng Cửu Long đã hoàn toàn thông với bồn trũng Nam Côn Sơn và sông Cửu Long trở thành nguồn cung cấp vật liệu chính cho khu vực này. Các trầm tích hạt thô được tích tụ trong môi trường ven bờ ở vùng Nam bồn và trong môi trường biển nông ở vùng Đông Bắc bồn. Các trầm tích hạt mịn hơn được vận chuyển vào bồn trũng Nam Côn Sơn và tích tụ tại đây trong điều kiện nước sâu hơn.
Phần hai
ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC KHOÁNG VẬT HỌC CỦA ĐÁ MÓNG GIẾNG KHOAN SV_1X LÔ 15-1 THUỘC BỒN TRŨNG CỬU LONG
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC KHOÁNG VẬT
4.1. Đặc diểm thạch học
Đá móng giếng khoan 1X mỏ Sư Tử vàng lô 15-1 thuộc bồn trũng Cửu Long chủ yếu gồm các loại đá : granit biotit và granodiorit amphibol. Trong đó loại đá granit biotit chiếm đa số.
Thành phần khoáng vật của các mẫu đá granit biotit gồm:
plagioclas (25–38%), fenpat kali (20– 32%), thạch anh (18 – 30%), khoáng vật màu gồm: biotit (4–10%), amphibol (2-4%).
Các khoáng vật thứ sinh gồm: caolin, clorit, canxit, epidot, muscovit, xerixit, xotxurit.
Các khoáng vật phụ bao gồm: sfen, zircon, apatit, quặng.
4.2. Đặc điểm khoáng vật:
Plagioclas: là những tinh thể có dạng lăng trụ , khá tự hình. Kích thước thay đổi từ 0.2mm x 0.5mm đến 2mm x 3.5mm, kích thước phổ biến khoảng 1mm x 2.5mm. Tất cả các tiết diện plagioclas đều có cấu tạo song tinh đa hợp kiểu anbit (ảnh 3, ảnh 5, ảnh 7, ảnh 17). Phần lớn các tiết diện plagioclas bị xerixit hóa, xoxurit hóa. Nhiều hạt plagioclas bị thạch anh thứ sinh, canxit trám đầy trong các khe nứt, lỗ hổng giữa hạt. Một vài tiết diện plagioclas nơi tiếp xúc với fenpat kali có các tiết diện thạch anh hình giun méo mó tạo thành kiến trúc myrmekit (ảnh 13). Plagioclas có màu giao thoa xám trắng bậc I. Thành phần plagioclas được xác định theo luật song tinh anbit trên tiết diện thẳng góc với mặt (010) với góc tắt đối xứng cực đại: Np’^(010) thay đổi từ 6.5 – 90 => số hiệu plagioclas N0 = 22-24 là oligioclas.
Fenspat kali: fenpat kali có 2 thế hệ:
Thế hệ 1 là octocla ( 98%) hình dạng kém tự hình, kích thước thay đổi từ
0.5mm - 3.5mm và phổ biến từ 2.0mm - 2.5mm. Octocla không màu nhưng thường bị caolin hóa, xerixit hóa nên mờ đục (ảnh 3, ảnh 8, ảnh 9). Trong các khe nứt của octocla cũng thường bị trám đầy bởi canxit hoặc thạch anh thứ sinh. Có nhiều tiết diện octocla có kích thước lớn bao lấy các khoáng vật khác như plagioclas (ảnh 7). Octocla có màu giao thoa xám trắng bậc I.
Fenpat kali thế hệ 2 là microlin (2%) với song tinh mạng lưới rất đặc trưng thay thế trên các tiết diện fenpat kali thế hệ 1 (ảnh 1, ảnh 4, ảnh 5).
Thạch anh gồm 2 thế hệ:
Thạch anh thế hệ I : ( ~95%) là những hạt có dạng tha hình, kích thước thay đổi từ 0.2mm đến 4mm, kích thước phổ biến từ 1.5mm đến 2mm. Thạch anh thường không màu, trong suốt, không bị biến đổi, có nhiều đường nứt nhỏ, trong các đường nứt này thường bị lấp đầy bởi canxit hoặc thạch anh thế hệ sau. Thạch anh có màu giao thoa xám trắng bậc I. Chúng thường có hiện tượng tắt làn sóng không đều.
Thạch anh II: (~5%) là những hạt tha hình, méo mó, kích thước nhỏ 0.1mmx0.2mm nằm ở dạng lắp đầy các đường nứt lỗ hổng của các khoáng vật khác. chúng cũng có màu giao thoa xám trắng bậc I (ảnh 8, ảnh 9, ảnh 15).
Biotit : phân bố đều khắp trong lát mỏng, có dạng tấm , dạng vảy, một số tiết diện bị ảnh hưởng của hoạt động kiến tạo nên bị uốn ép rất phức tạp (ảnh 6 ). Kích thước thay đổi từ 0.3mmx0.5mm đến 1.5mmx3.5mm. Đa số các hạt biotit đều bị clorit hóa (30-70%), có tiết diện bị clorit hoá hoàn toàn (ảnh 10, ảnh 14), dọc theo cát khai có nhiều quặng. Công thức đa sắc Ng(nâu sậm) > Np (vàng phớt nâu ). Biotit có màu giao thoa rất cao thường là xanh, đỏ bậc III. Các tiết diện biotit đều tắt thẳng.
Hocblen: phân bố không đều , có dạng tấm hoặc bị vỡ vụn. Kích thước từ 0.3mmx0.6mm đến 0.5mmx0.9mm. Bị clorit hóa nhẹ (10%), bị thạch anh, canxit trám đầy trong các khe nứt, có 2 hướng cát khai hợp thành góc 560, quặng xuất hiện dọc cát khai (ảnh 11, 12,15).
Công thức đa sắc: Ng(nâu sậm) > Nm (nâu vàng) >Np (vàng phớt nâu) (ảnh 18,19).
Hocblen có màu giao thoa bậc II, bậc III thường bị màu tự nhiên che lấp. Góc tắt nhỏ hơn 100.
Khoáng vật phụ:
Sfen: có dạng hình thoi, dạng lưỡi mác, khá tự hình, kích thước thay đổi từ 0.1mm-0.5mm, có nhiều đường nứt cắt ngang, có màu vàng sậm, chiết suất rất cao, thường đi cùng với quặng (ảnh 2, ảnh 3). Độ lưỡng chiết lớn, màu giao thoa thường là vàng bậc II (hơi ngả sang nâu).
Apatit: có dạng lăng trụ nhỏ, kích thước từ 0.1mm đến 0.3mm, không màu, trong suốt, độ nổi cao (ảnh 16, 17). Lưỡng chiết suất thấp có màu giao thoa xám trắng bậc I. Thường đi cùng biotit và quặng.
Zircon: là những tiết diện có dạng tròn kích thước nhỏ hơn 0.1mm, trong suốt không màu, độ nổi cao và có riềm phóng xạ rất đặc trưng. Zircon và sfen thường phân bố cùng với biotit. Zircon có màu giao thoa rực rỡ bậc III.
Khoáng vật thứ sinh
Clorit: có kích thước nhỏ, có hiện tượng đa sắc từ lục nhạt đến lục sậm hoặc lục hơi vàng (ảnh 18,19), chúng thường thay thế trên các tiết diện biotit, hocblen (ảnh 6,10,14). Clorit hình thành trong các lỗ rỗng thì có dạng tha hình (ảnh 4,14). Clorit có màu giao thoa thấp xám trắng bậc I.
Epidot: là những hạt tha hình, kích thước nhỏ, có màu thay đổi từ lục đến lục nhạt, phân bố trên khoáng vật màu (biotit). Epidot có độ lưỡng chiết cao màu giao thoa xanh bậc II.
Canxit: là những hạt nhỏ, khá tự hình, với 2 hướng cát khai, có ánh xà cừ đặc trưng, có tính biến chiết. Thường xuất hiện ở dạng lấp đầy khoảng trống trong các lỗ rỗng, khe nứt cắt ngang qua các khoáng vật khác (ảnh 6,12).
Quặng: là những hạt nhỏ dạng đẳng thước có màu đen, thường đi cùng các khoáng vật như biotit, hocblen, sfen (ảnh 10,11,12,13,14).
Kiến trúc: đá có kiến trúc nữa tự hình. Đôi chỗ còn có kiến trúc myrmekit, kiến trúc khảm.
Cấu tạo: đá có cấu tạo khối, đa số các mẫu đều bị nứt nẻ với những mức độ khác nhau. Thông thường một phần không gian khe nứt bị trám đầy bởi canxit hoặc thạch anh thứ sinh.
Aûnh 1: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Fenpat kali bị microlin hoá bao lấy các tiết diện plagioclas. SV_2858; 2N+; 3.3x4X.
Aûnh 2: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Khoáng vật phụ sfen với
hình dạng rất tự hình bị nứt nẻ theo chiều ngang tiết diện.
SV_2858; 1N-; 3.3x4X.
Aûnh 3: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Khoáng vật phụ sfen với hình dạng rất tự hình, fenpat kali bị caolin hoá. SV_2858; 1N-; 3.3x4X.
Aûnh 4: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Fenpat kali bị microlin hoá,
phần màu lục là khoáng vật thứ sinh clorit. SV_2906; 1N-; 3.3x4X.
Aûnh 5: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Fenpat kali bị microlin hoá.
SV_2906; 2N+; 3.3x4X.
Aûnh 6: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Biotit bị tác động của lực kiến tạo
làm cho biến dạng méo mó, đồng thời bị clorit hoá.
SV_2906;1N-; 3.3x4X
Aûnh 7: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Fenpat kali còn tươi
bao lấy các hạt plagioclas bị cerixit hoá.
SV_2906;2N+; 3.3x4X.
Aûnh 8: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Thạch anh thế hệ II trám đầy trong
khe nứt làm giảm độ rỗng thấm của đá. SV_3101;1N-; 3.3x4X.
Aûnh 9: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Thạch anh thế hệ II trám đầy
trong khe nứt làm giảm độ rỗng thấm của đá.
SV_3101;2N+; 3.3x4X.
Aûnh 10: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Biotit bị clorit hoá , khoáng vật phụ
sphen màu trắng, dọc theo cát khai và ven rìa biotit giải phóng ra quặng màu đen.
SV_3101;1N-; 3.3x4X.
Aûnh 11: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Khoáng vật màu hocblen
dạng lăng trụ có 1 hướng cát khai, quặng tập trung thành từng cụm.
SV_3201;1N-; 3.3x4X.
Aûnh 12: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Khoáng vật màu
hocblen dạng lăng trụ có 1 hướng cát khai.
SV_3201;2N+; 3.3x4X.
Aûnh 13: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Kiến trúc myrmekit: các giao thể
thạch anh hình giun nằm ở ranh giới tiếp xúc giữa plagioclas và fenpat kali.
SV_3201;2N+; 3.3x4X.
Aûnh 14: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Biotit bị clorit
hoá hoàn toàn. SV_3101;1N-; 3.3x4X.
Aûnh 15: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Thạch anh thứ sinh và khoáng vật màu hocblen nâu. SV_3201;2N+; 3.3x10X.
Aûnh 16: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Khoáng vật phụ apatit dạng lăng trụ lục giác. SV_3201;1N-; 3.3x4X.
Aûnh 17: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Khoáng vật phụ apatit có màu giao thoa xám trắng bậc I, plagioclas có dạng lăng trụ rất tự hình. SV_3201;2N+; 3.3x4X.
Aûnh 18: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Tiết diện hocblen với
hai hướng cát khai 560 , màu đa sắc theo Nm. SV_3201;1N-; 3.3x4X.
Aûnh 19: Đá granit biotit giếng khoan 1X mỏ Sư Tử Vàng. Tiết diện hocblen với
hai hướng cát khai 560, màu đa sắc theo Np. SV_3101;1N-; 3.3x4X.
Chương 5
Đặc điểm về độ rỗng thấm trong đá móng
các yếu tố ảnh hưởng
5.1 Các kiểu lỗ rỗng trong đá móng
Hai kiểu lỗ rỗng thường gặp trong đá móng là lỗ rỗng dạng khe nứt / vi khe nứt và lỗ rỗng dạng hang hốc / vi hang hốc. Trong mỗi khu vực, tùy thuộc đá móng đã bị tác động ảnh hưởng của quá trình biến đổi nào sẽ quyết định loại lỗ rỗng nào chiếm ưu thế.
Ơû phần trên cùng, trong đới mà đá móng bị phong hóa, lỗ rỗng khe nứt giảm đi đáng kể, trong khi lỗ rỗng bên trong tinh thể và hang hốc do hòa tan, rửa lủa lại thường có mặt. Thực tế đá móng luôn chịu tác động của nhiều yếu tố kết hợp, nên kiểu không gian lỗ rỗng của đá móng thường bao gồm cả 2 loại lỗ rỗng trên.
Độ rỗng kiểu khe nứt – vi khe nứt
Lỗ rỗng nứt nẻ thường hiện diện ở đới cà nát do ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo. Đặc trưng là các khe nứt với các kích thước khác nhau (ảnh 7,8,9,14).
Độ rỗng khe nứt và vi khe nứt thay đổi khác nhau tùy theo độ sâu và theo từng khu vực. Kích thước các khe nứt quan sát trên các mẫu lõi thông thường có chiều dài từ 5cm – 10 cm, đường kính lỗ rỗng thay đổi từ 0.5cm – 1.5cm. Những khe nứt chỉ quan sát được dưới kính hiển vi với chiều dài từ 5mm – 15mm và đường kính thường gặp từ 0.05mm – 0.2 mm, đôi khi tồn tại các khe nứt kiến tạo với đường kính vài cm.
Các khe nứt thường có dạng phân nhánh rất phức tạp, khe nứt càng nhiều thì sự phân nhánh càng phức tạp, khi đó các khe nứt thường cắt nhau hoặc nối thông với các lỗ rỗng dạng hang hốc và vi hang hốc. Chính nhờ điều này đã làm cho khả năng chứa đặc biệt là tính chất thấm của đá móng tăng lên rất nhiều.
Các lỗ rỗng dạng khe nứt là những lỗ rỗng liên thông nên nó đóng vai trò quyết định tính chất thấm của đá móng. Mật độ phân bố của các khe nứt thường không đều, nó tùy thuộc vào mức độ biến đổi và đới biến đổi của đá móng.
5.1.2 Độ rỗng hang hốc – vi hang hốc
Độ rỗng hang hốc – vi hang hốc tùy thuộc vào mức độ mà đá móng bị biến đổi bởi các quá trình hoạt động thủy nhiệt và quá trình phong hóa. Giá trị độ rỗng hang hốc dao động từ 0% – 5% đôi khi lên tới 10%. Kích thước của các hang hốc này thường nhỏ hơn 1mm, phổ biến từ 0.3mm – 0.7mm.
Đặc tính biến đổi độ rỗng thấm trong đá móng
Đặc tính thấm chứa của đá móng tại mỏ Sư Tử Vàng biến đổi trong phạm vi rất rộng và hết sức phức tạp. Nó phụ thuộc rất chặt chẽ vào mức độ biến đổi, phá hủy và cà nát của đá. Hiện tượng khá phổ biến trong mặt cắt đá móng là có sự xen kẽ giữa các đới có tính chất thấm chứa tốt với các đá đặc sít không thấm hoặc thấm chứa rất kém. Sự xen kẽ này nhiều khi lặp đi lặp lại nhiều lần trong một khoảng độ sâu không lớn của ngay cùng một giếng khoan. Ở những khu vực đá bị biến đổi mạnh hoặc xung quanh các đới đứt gãy phá hủy lớn, độ rỗng thấm của đá cao hơn hẳn so với các nơi khác. Xu thế chung là tính chất rỗng thấm của đá giảm theo chiều sâu.
Một điểm cần lưu ý là ở những khoảng độ sâu có mặt với tỷ lệ cao của khoáng vật thạch anh và canxit thứ sinh, thì nơi đó lưu lượng của dòng dầu bị giảm đáng kể (ảnh 8, 9, 15). Tuy nhiên đây là những khoáng vật rất dễ bị hòa tan bởi các dung dịch hóa phẩm mang tính acid, vì vậy trong quá trình khai thác con người có thể can thiệp vào vỉa chứa nhằm làm tăng độ rỗng thấm của đá.
ä Nguyên nhân tạo độ rỗng thấm trong đá móng:
Hầu hết các khối đá móng kết tinh của thềm lục địa Việt Nam nói chung và bể Cửu Long nói riêng bị nứt nẻ và biến đổi bởi ảnh hưởng của các quá trình:
Quá trình co giảm thể tích khi magma đông cứng.
Quá trình biến đổi do hoạt động kiến tạo.
Quá trình biến đổi do hoạt động phong hóa.
Quá trình biến đổi do hoạt động thủy nhiệt.
5.2.1 Quá trình co giảm thể tích khi magma đông cứng.
Khi dung thể magma granitoid đông cứng và kết tinh thường kèm theo hiện tượng co giảm thể tích bên trong cũng như bên ngoài. Sự thay đổi thể tích là do sự thay đổi nhiệt độ diễn ra một cách đột ngột và không đồng đều cũng như do sư ïtăng dần của độ nhớt trong quá trình kết tinh. Hiện tượng co giảm thể tích sẽ giảm theo chiều sâu của từng thể magma. Chính sự co giảm như vậy đã làm xuất hiện trong đá móng những khe nứt hang hốc riêng biệt.
Theo kết quả nghiên cứu của Orpov M.A 1974 chỉ ra rằng nguyên nhân làm co giảm thể tích của các thể xâm nhập granitoid là do sự giảm thể tích của từng khoáng vật tạo đá gây ra. Ở nhiệt độ biến đổi từ 650oC-1200oC, thể tích bên trong bị co giảm chiếm khoảng 2% thể tích toàn khối. Ở nhiệt độ như vậy tác giả đã tính được sự co giảm thể tích cho từng khoáng vật riêng biệt thường gặp trong magma granitoid là:
Thạch anh co giảm 1.09%
Fenspat kali 0.28%
Plagiolas 0.22%
Mica 0.11%
Hocblen 0.07%
Như vậy rõ ràng là những khoáng vật tạo đá chính của graintoid như (thạch anh, fenspat kali, plagiolas) đã đóng vai trò chủ đạo làm giảm thể tích khối magma. Do đó trong quá trình đông cứng, sự co giảm thể tích sẽ là cao nhất đối với đá có hàm lượng thạch anh cao. Ngược lại những đá có hàm lượng thạch anh thấp và fenspat cao (tonalit, monxolit – thạch anh hoặc diorit) thể tích của chúng bị co giảm ít hơn hoặc nhỏ nhất.
Quá trình biến đổi do hoạt động kiến tạo.
Các hoạt động kiến tạo là một trong những nguyên nhân gây ra sự biến đổi đá móng một cách sâu sắc và rộng khắp mang tính toàn khu vực. Hoạt động kiến tạo ở bể Cửu Long chủ yếu gây ra trong Mezozoi và tái hoạt động lại vào đầu Kainozoi. Cường độ của các hoạt động kiến tạo có lẽ xảy ra mạnh mẽ nhất trong hai thời kì: một vào thời gian thành tạo các thể batolit (từ cuối Triat đến cuối Kreta) và một vào thời gian tách giãn của móng thành tạo rift (cuối Eocene đầu Oligocene). Ở thời kì sau, những hoạt động kiến tạo bao gồm các chuyển động thẳng đứng, chuyển động ngang và chuyển động xoay đã phân cắt tầng móng ra thành các khối khác nhau. Biên độ dịch chuyển thẳng đứng giữa các khối từ vài chục mét đến hơn 1000m và biên độ dịch chuyển ngang từ vài chục mét đến vài trăm mét. Tại những khu vực gần hệ thống đứt gãy biên độ dịch chuyển ngang còn lớn hơn nhiều.
Kết quả của các chuyển động này đã tạo ra một loạt các hệ thống đứt gãy phát triển dọc theo phương Đông Bắc – Tây Nam và phương Đông – Tây. Dọc theo các hệ thống đứt gãy lớn thuộc vùng trũng, nhiều hoạt động núi lửa xảy ra rất mạnh mẽ và rộng khắp. Kết quả của các hoạt động núi lửa này đã thành tạo ra một loạt các đá magma phun trào có thành phần khác nhau ( từ andezit, bazan đến diabaz...) có bề dày từ vài mét đến vài chục mét.
Hậu quả của các hoạt kiến tạo nói trên đã làm cho đá móng bị nứt nẻ mạnh, dập vỡ và cà nát ở những mức độ khác nhau ( ảnh 4, 6, 8, 9, 14, 15). Bên cạnh đó các hoạt động kiến tạo cũng làm phát sinh, phát triển trong đá móng nhiều hệ thống khe nứt phát triển theo những hướng khác nhau. Tuy nhiên, những khe nứt có hướng gần vuông góc với hệ thống đứt gãy chính là phát triển hơn cả. Nhìn chung những đới có hoạt động nứt nẻ và mật độ khe nứt cao thường nằm trùng vào các đới đứt gãy, phá hủy lớn và cường độ nứt nẻ có xu thế giảm dần theo cường độ hoạt động đứt gãy.
Quá trình nứt nẻ, cà nát và vỡ vụn nói trên tuy không làm thay đổi thành phần nhưng lại làm biến đổi khá mạnh mẽ kiến trúc, cấu tạo và đặc biệt là đặc tính thạch học của đá móng. Mức độ nứt nẻ, vỡ vụn của đá móng phụ thuộc vào cường độ hoạt động kiến tạo của khu vực. Ngoài ra nó còn phụ thuộc khá nhiều vào thành phần khoáng vật của đá móng. Trong cùng một điều kiện bị tác động của các lực kiến tạo như nhau thì những đá chứa nhiều khoáng vật cứng và giòn như thạch anh thường dễ bị vỡ vụn và nứt nẻ hơn những đá chứa khoáng có tính chất mềm và dẻo như fenpat và mica.
Quá trình biến đổi do hoạt động thủy nhiệt.
Sau tác động của phá hủy kiến tạo, những hoạt động thủy nhiệt cũng là một trong những tác nhân quan trọng làm biến đổi thành phần cũng như đặc tính vật lý thạch học của đá móng.
Trong các dung dịch magma nóng chảy đều có chứa một lượng hơi nước nhất định. Đối với các khối gratnit nóng chảy thường chứa tới 7% lượng hơi nước. Trong quá trình kết tinh và đông cứng của magma, khối lượng hơi nước này dần dần được tách ra và trở thành các dung dịch khoáng hóa thủy nhiệt, chúng di chuyển tuần hoàn trong khối. Hành trình di chuyển, cường độ và phạm vi hoạt động cũng như mức độ ảnh hưởng của chúng có liên quan chặt chẽ tới thành phần, mức độ nứt nẻ mạnh hay yếu của đá móng.
Do chế độ hoạt động kiến tạo xảy ra mạnh mẽ nên đã tạo ra một hệ thống đứt gãy và nứt nẻ khá dày đặc tồn tại trong các tầng đá móng bồn trũng Cửu Long nói chung và mỏ Sư Tử vàng nói riêng. Chính các hệ thống đứt gãy và khe nứt này thường là những đưỡng dẫn rất thuận lợi để cho các dung dịch khoáng hóa thủy nhiệt từ dưới sâu di chuyển lên phía trên hoặc hoạt động tuần hoàn trong khối đá móng. Thường những hoạt động thủy nhiệt xảy ra với cường độ mạnh nhất tại các khu vực mà ở đó đá móng bị cà nát và phá hủy rất mạnh.
Trong giai đoạn đầu, các dung dịch thủy nhiệt có độ linh động lớn bởi nồng độ khoáng hóa của chúng còn thấp. Chính vì vậy trên đường di chuyển và hoạt động, các dung dịch thủy nhiệt hòa tan mạnh mẽ những khoáng vật kém bền vững (như fenspat và các khoáng vật màu). Kết quả của sự hòa tan đó đã tạo ra những lỗ rỗng dạng hang hốc và vi hang hốc có kích thước và hình dạng rất khác nhau. Bên cạnh đó, kích thước những khe nứt mở ban đầu cũng ngày càng được mở rộng ra do sự hòa tan những khoáng vật ở hai bên thành khe nứt. Như vậy ở giai đoạn ban đầu do tác dụng hòa tan của dung dịch thủy nhiệt xảy ra mạnh mẽ, do đó đã làm tăng khả năng thấm chứa của đá móng granitoid.
Mặt khác trong quá trình hoạt động, dung dịch thủy nhiệt ngấm dần vào đá và ở đó sẽ xảy ra những phản ứng hóa học giữa một số khoáng vật trong đá với một số nguyên tố hóa học trong dung dịch thủy nhiệt. Sản phẩm của các phản ứng hóa học nói trên đã tạo ra một loạt các khoáng vật mới như clorit, epidot, canxit, thạch anh thứ sinh (ảnh 8, ảnh 9, ảnh 12, ảnh 15). Hầu hết các khoáng vật có nguồn gốc thủy nhiệt mới sinh này xuất hiện dưới dạng thay thế một phần các khoáng vật nguyên sinh hoặc ở dạng lấp đầy vào các lỗ rỗng và các khe nứt mở đã được hình thành do các phá hủy kiến tạo trước đó. Và như vậy ở những giai đoạn cuối, các hoạt động thủy nhiệt đã làm giảm đi một phần tính chất chứa và thấm của đá móng.
Tóm lại, các hoạt động thủy nhiệt diễn ra trong móng granitoid ở bồn Cửu Long mang tính chất hai mặt, hoặc làm tăng lên, hoặc làm giảm đi tính chất thấm chứa của đá móng, tuỳ thuộc vào giai đoạn cuối của chúng. Nhưng nhìn chung các hoạt động thủy nhiệt là một trong những tác nhân rất tích cực để hình thành nên khả năng chứa được sản phẩm trong chúng.
Quá trình biến đổi do phong hoá.
Đá móng ở mỏ Sư Tử Vàng được thành tạo từ thời gian từ cuối Triat cho đến cuối Kreta. Do các vận động kiến tạo trong khu vực mà các khối magma này dần dần được nâng lên và lộ ra trên bề mặt trong một thời gian tương đối dài có lẽ cho tới khi chúng được các trầm tích trẻ Kainozoi (chủ yếu có tuổi Oligecene sớm) phủ lên trên. Thời gian đá móng bị phong hóa, nếu tính cả cho thời kì Paleocene – Eocene là từ nhỏ hơn 30 đến nhỏ hơn 35 triệu năm. Thời gian phong hoá của đá móng còn lâu hơn nữa tại một số khu vực vắng mặt các trầm tích Oligocene sớm. Trong suốt thời gian lộ ra ở điều kiện bề mặt, do những thay đổi lớn về nhiệt độ, khí hậu cũng như các hoạt động của sinh vật, phần trên cùng của các khối xâm nhập bị biến đổi do các qua trình phong hóa và những quá trình bóc mòn, xâm thực. Kết quả của những biến đổi đó đã hình thành nên một lớp vỏ phong hoá với chiều dày không đồng nhất.
Cường độ phong hóa của đá móng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như bề mặt địa hình cổ, thành phần ban đầu, mức độ nứt nẻ và phá huỷ của đá do tác động của các quá trình biến đổi trước đó. Ở những khu cực phân bố nhiều đá có tỷ lệ fenspat và khoáng vật màu cao, thì mức độ phong hóa xảy ra mạnh mẽ hơn nhiều so với những nơi phân bố các đá có tỷ lệ thạch anh cao. Những nghiên cứu về cổ địa mạo cho thấy bề mặt cổ địa hình tạo một số cấu tạo lớn phân cắt không nhiều, chỉ dao động trong khoảng từ vài chục mét đến 100 -150 m. chính điều này càng làm thuận lợi hơn cho quá trình phong hóa (đặc biệt là phong hóa hóa học) xảy ra khá triệt để từ đó hình thành nên một lớp vỏ phong hóa khá dày ở một số nơi.
Phong hóa vật lý làm đá bị nứt nẻ, vỡ vụn ở các mức độ khác nhau và dẫn đến sự tái phân bố lại của các khoáng vật bền vững trong đá (như thạch anh). Tiếp theo đó quá trình phong hóa hóa học xảy ra làm biến đổi sâu sắc thành phần cũng như tính thạch vật lý của đá.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đặc điểm thạch học – khoáng vật học của đá móng giếng khoan SV_1X lô 15-1 thuộc bồn trũng Cửu Long (KL2006).doc