MỤC LỤC
LỜI MỞ DẦU .1
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ 3
I. Lịch sử hình thành ngành công nghiệp ô tô thế giới 3
1. Sự ra đời của ngành công nghiệp ô tô 3
2. Đặc điểm của ngành sản xuất ô tô 7
2.1. Về vốn đầu tư 7
2.2. Về công nghệ kỹ thuật 7
2.3. Về lao động 8
3. Vai trò của ngành công nghiệp ô tô 8
II. Quá trình phát triển ngành công nghiệp ô tô tại một số quốc gia và khu vực 9
1. Các nước công nghiệp phát triển có thị trường ô tô đã bão hoà 9
2. Các nước ASEAN và NICs 14
III. Xu hướng phát triển sản xuất ô tô trên thế giới 22
1. Về tổ chức sản xuất 22
2. Xu hướng về sản phẩm 23
3. Về thị trường 23
4. Về lao động và giá trị lao động trong công nghiệp ô tô 25
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ 26
I. Tình hình cung cấp và tiêu thụ ô tô ở Việt Nam 26
1. Sự ra đời của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam 26
2. Tình hình cung cấp và tiêu thụ ô tô ở Việt Nam 30
2.1. Tình hình tiêu thụ ô tô ở Việt Nam 30
2.2. Tình hình cung cấp ô tô trong nước 32
2.3. Tình hình nhập khẩu ô tô 34
II. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 35
1. Quy mô vốn FDI đăng ký và sử dụng 35
1.1. Tình hình vốn đăng ký 35
1.2. Tình hình vốn thực hiện 37
2. Cơ cấu FDI 38
2.1. Về chủ đầu tư 38
2.2. Về địa bàn đầu tư 40
2.4. Về hình thức đầu tư 40
3. Kết quả đạt được và nguyên nhân 41
3.1. Kết quả tài chính 41
3.2. Hiệu quả kinh tế xã hội 45
4. Tồn tại và nguyên nhân 49
4.1. Tồn tại về mặt tài chính 49
4.2. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém 53
CHƯƠNG III:CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ 58
I. Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010 58
1. Dự báo nhu cầu ô tô ở Việt Nam 58
1.1. Dự báo thị trường xe phổ thông 58
1.2. Dự báo thị trường xe ô tô cao cấp 59
2. Mục tiêu của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam 60
2.1.Mục tiêu trước mắt 60
2.2. Mục tiêu lâu dài 60
3. Quan điểm cơ bản xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam 61
3.1. Xây dựng ngành công nghiệp ô tô là việc lâu dài 61
3.2. Quan điểm về sản phẩm 62
3.3. Quan điểm về thu hút vốn đầu tư 62
3.4. Quan điểm về khoa học công nghệ 63
4. Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô 63
4.1. Chiến lược sản phẩm 63
4.2. Về tổ chức sản xuất 65
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô 66
1. Nâng cao hiệu quả đầu tư trong các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô 66
2. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất linh kiện 67
3. Xây dựng cơ cấu hợp lý đối với nhà sản xuất và sản phẩm 68
4. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách có liên quan 69
4.1.Chính sách thị trường 69
4.2. Chính sách nội địa hoá sản phẩm 70
4.3. Chính sách thuế 71
5. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ quản lý cơ sở sản xuất, cán bộ quản lý nhà nước 72
6. Đẩy mạnh cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ 73
KẾT LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
80 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp ô tô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Motor Corp (Mỹ)
-75%
9
Công ty LD CHRYSLER
No 1366/GP ngày 5/9/1995
17.000
Nhà máy VINAPPRO
-30%
- Chrysler inter Corp (Mỹ)
-70%
10
Công ty LD TOYOTA
No 1367/GP ngày 5/9/1995
20.000
-Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp
-20%
-Toyota Motor Corp (Nhật)
-KUO (Asia) Pte.Ltd (Singapore)
-80%
11
Công ty ISUZU
No 16/GP ngày 19/10/1995
6000
-SAMCO
-GOVIMEX
-30%
-ISUZU Corp
-ITOCHU Corp
-70%
12
Công ty LD Việt- Sin
No 1500/GP ngày 16/2/1996
2.200
-Trancimex
-30%
-SinBus Engineering Pte.Ltd (Singapore)
-70%
13
Công ty LD Hino
No 1599/GP ngày 18/5/1996
2.600
-Nhà máy sửa chữa ô tô số 1
-33%
-Hino Motor Ltd.
-Sumitomo Corp
-77%
14
Công ty LD NISSAN
No 1687/GP ngày 30/9/1996
3.600
-Nhà máy cơ khí ô tô Đà Nẵng
-25%
-Nissan Motor Co.Ltd
-Marubeni Corp
-Tan Chong & Son Motor Sdn Bhd (Malaysia)
-75%
Nguồn: Bộ Công Nghiệp
Với đường lối CNH - HĐH đất nước do Đại hội VIII của Đảng đề ra, Chính phủ Việt Nam đã quyết định xây dựng công nghiệp ô tô Việt Nam đi từ lắp ráp đến nội địa hoá. Ngày 14/11/1994 văn bản 2308/ UB-TĐ Hướng dẫn về đầu tư lắp ráp, sản xuất ô tô ở Việt Nam do SCCI và Bộ công nghiệp nặng ban hành có 5 yêu cầu cơ bản:
Một là, Các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực lắp ráp, sản xuất ô tô phải là các hãng sản xuất ô tô có năng lực tài chính, công nghệ về ô tô. Các công ty thương mại có thể góp vốn đầu tư.
Hai là, Chính phủ Việt Nam khuyến khích đầu tư theo hình thức liên doanh
Ba là, Các dự án phải có chương trình nội địa hóa sản phẩm tại Việt Nam, chậm nhất từ năm thứ 5 kể từ khi sản xuất phải đạt tỷ lệ nội địa hoá ít nhất 5% (tính theo giá trị), đến năm thứ 10 phải đạt ít nhất 30% tỷ lệ nội địa hoá.
Bốn là, Các dự án phải có cam kết cụ thể về chuyển giao công nghệ, đào tạo người Việt Nam về các mặt quản lý, chuyên môn kỹ thuật, công nghệ.
Năm là, Các dự án có chương trình xuất nhập khẩu sản phẩm hoặc linh kiện phụ tùng thì sẽ được hưởng các ưu đãi về thuế.
Mục tiêu lâu dài của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam được xác định trong Quy hoạch tổng thể ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010 là xây dựng ngành công nghiệp ô tô Việt Nam tiên tiến, hoàn chỉnh để Việt Nam có thể chế tạo lấy các loại ô tô cơ bản phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, với tỷ lệ chế tạo nội địa hoá khoảng 40% vào năm 2010 cho ô tô và 30% cho phụ tùng
Như vậy, nếu như quan điểm xây dựng công nghiệp ô tô Việt Nam thủa sơ khai là đi từ sản xuất phụ tùng cơ bản rồi nâng dần lên ô tô đã không có tính thực tiễn thì nay đã được thay thế bởi con đường đi từ lắp ráp ô tô rồi tiến hành từng bước nội địa hoá sản xuất phụ tùng như các nước ASEAN và Châu á đã trải qua. (Như đã trình bày ở Chương I)
Quy hoạch tổng thể phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010 xác định: “Công nghiệp ô tô của ta cũng sẽ trải qua 4 bước như ASEAN, hoặc có những ưu tiên bảo hộ hơn, tự do trong khuôn khổ và có kiểm soát của Nhà nước, không cạnh tranh hỗn loạn. Hiện nay, công nghiệp ô tô Việt Nam đang ở giai đoạn đầu với bước 1 là đang phát triển công nghiệp lắp ráp ô tô trong nước và chuẩn bị cho bước 2 là bắt đầu sản xuất chi tiết và bộ phận trong nước, tức là Việt Nam chậm hơn các nước ASEAN khoảng hơn 30 năm trong công nghiệp ô tô, tuy nhiên quãng thời gian của các bước ta có thể rút ngắn hoặc kéo dài, chính là do chính sách của chúng ta quyết định.
Về mô hình quản lý thì mỗi nước có một kiểu quản lý khác nhau. Để tiến nhanh và vững chắc, Việt Nam nên chọn mô hình quản lý của Hàn Quốc cho ngành công nghiệp ô tô của mình: Nhập khẩu công nghệ tiên tiến của các nước công nghiệp phát triển, sản xuất với quy mô lớn và có hiệu quả, hạn chế số lượng nhà sản xuất, hạn chế số lượng kiểu xe, duy trì sự cạnh tranh.
2. Tình hình cung cấp và tiêu thụ ô tô ở Việt Nam
2.1. Tình hình tiêu thụ ô tô ở Việt Nam
Từ đầu thập kỷ 90 đến nay (1990-2001) lượng ô tô nhập khẩu và đăng ký mới ở nước ta ngày càng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước và năm 2001 là năm đỉnh cao (tăng 46.121 xe ô tô so với năm 2000). Từ năm 1990 đến năm 1995 toàn quốc đăng ký mới tổng số 113.502 xe ô tô, như vậy trong 6 năm này, bình quân mỗi năm tăng 18.917 xe ô tô. Từ năm 1996 đến năm 2001, do có sự gia tăng nhu cầu đi lại và mức sống của nhiều cá nhân, gia đình Việt Nam được nâng cao hơn trước nên số lượng tiêu thụ ô tô ở thị trường nước ta tăng mạnh: Toàn quốc đăng ký mới tổng số 191.979 xe ô tô . Như vậy trong 6 năm này, bình quân mỗi năm tăng 31.996 xe ô tô, tăng gần gấp đôi so với 6 năm trước đó. Riêng trong 3 tháng đầu năm 2002, toàn quốc đăng ký mới 13.602 xe ô tô, nâng tổng số xe hiện có trong cả nước lên 547.791 xe ô tô.(Xem bảng)
Lượng ô tô lưu hành tại Việt Nam từ 1996 đến 2001
Nguồn: Tạp chí ô tô xe máy
Nhưng mức cầu này chưa làm hài lòng các nhà hoạch định kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế và chưa bằng 50% nhu cầu dự báo của các hãng sản xuất, lắp ráp ô tô ở Việt Nam. Nguyên nhân chính của việc chậm mở rộng thị phần ô tô của nước ta là do giá thành ô tô còn quá cao, chưa phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam. Năm 1997, giá một chiếc xe ô tô du lịch lắp ráp tại Việt Nam dao động từ 20.000-60.000 USD. Đơn cử, xe Mercedes- Benz C200K số cơ khí giá 48.194 USD, số tự động giá 52.920 USD; Mercedes- Benz 140D giá 27.000USD. Xe ô tô cũ nhập từ nước ngoài về giá cũng không thấp hơn 4000 USD. Trong khi đó thu nhập bình quân của người dân Việt Nam là 280 USD/năm, người giàu nhất cũng chỉ đạt từ 500-1500USD/ tháng (chưa bằng 1/20 giá ô tô và 1/2 giá ô tô cũ nhập khẩu)
Tình hình cung cấp ô tô trong nước
Ô tô nước ta được cung cấp từ hai nguồn chính là nhập khẩu và do các liên doanh lắp ráp và chế tạo ô tô trong nước cung cấp.
Công nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô Việt Nam thời gian qua phát triển chậm nhưng cũng đã sản xuất ra nhiều sản phẩm, thay thế gần như toàn bộ số lượng xe ô tô cũ kỹ của Đông Âu trước đây. Nhiều kiểu mẫu xe tiên tiến đang thịnh hành ở các nước công nghiệp phát triển như Iveco Turbo Daily, BMW 325i, Mitsubisshi Pajero, Ford Laser, Toyota Camry,…đã được các nhà sản xuất ô tô liên doanh với Việt Nam đưa vào nước ta, đáp ứng phần nào nhu cầu các loại xe du lịch cho các cơ quan, công sở và các quan chức Nhà nước.
Tính đến hết ngày 30/6/2002, chúng ta có 11 đơn vị hoạt động trong lĩnh vực lắp ráp và chế tạo ô tô (mặc dù có 14 dự án lắp ráp ô tô được cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam nhưng có 3 dự án không triển khai là Chrysler, Nissan, Viet-Sin; Chrysler và Viet-Sin bị giải thể theo quyết định ra ngày 6/7/2000 và ngày 18/12/2000, riêng Nissan dãn tiến độ đến 2003) và cả 11 cơ sở này đều là liên doanh. Tổng sản lượng ô tô tại Việt Nam tính từ ngày cấp giấy phép đầu tư đầu tiên là 68.196 xe với nhiều loại xe khác nhau. Sản lượng bình quân năm của mỗi liên doanh là 1300/năm và mỗi loại xe sản xuất tại Việt Nam chỉ có sản lượng bình quân là 378 xe/năm. Trong khi đó với số chủng loại xe này nếu được sản xuất ở 1 số nước khác trong khu vực thì sản lượng của họ gấp nhiều lần của Việt Nam, ví dụ sản lượng ô tô năm 1992 của Hàn Quốc là 1.754.500 xe. Điều này cho thấy sự nhỏ bé về quy mô sản xuất của ngành công nghiệp ô tô nước ta. Khi so sánh với quy mô bình quân của ASEAN thì quy mô sản xuất của các nhà sản xuất ô tô Việt Nam mới chỉ bằng 1% .
Thêm vào đó, những cơ sở sản xuất ô tô tại Việt Nam tỏ ra thiếu quan tâm đến các loại xe thương dụng, đặc biệt là xe thương dụng chở hàng và chở khách sang trọng và tiện nghi vừa phải, hợp với sức mua và giá cước vận tải ở Việt Nam. Hầu hết hai loại xe này vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài vào dưới hình thức xe đã qua sử dụng (dưới 4 năm) hoặc nhập khẩu sau đó đóng vỏ tại Việt Nam, gây lãng phí nguồn lực, ngoại tệ và tạo điều kiện cho sự tồn tại của các xe thương dụng cũ kỹ ở Việt Nam. Cho đến nay, mặc dù Nhà nước đã có chính sách hạn chế và cấm nhập khẩu xe nguyên chiếc để dành thị trường nội địa cho các liên doanh lắp ráp và chế tạo ô tô trong nước song số lượng xe được tiêu thụ là xe nhập khẩu vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Bảng 4 : Sản lượng sản xuất của 11 liên doanh lắp ráp và chế tạo ô tô Việt Nam
Đơn vị: Chiếc
TT
Tên doanh nghiệp
Sản lượng sản xuất tính đến 30/6/2002
1
Công ty LD Toyota
18.146
2
Công ty LD Vindaco
3.075
3
Công ty LD Ford Việt Nam
4.279
4
Công ty LD VMC
12.480
5
Công ty LD Hino Motors VN
411
6
Công ty Vidamco-Daewoo
8.894
7
Công ty LD Suzuki
3.415
8
Công ty LD Isuzu
2.088
9
Công ty LD Mercedes
3.943
10
Công ty LD Mê Kông
5.443
11
Công ty LD VinaStar
6.022
Tổng
68.196
Nguồn: Bộ Công nghiệp
Tình hình nhập khẩu ô tô
Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về doanh số bán ra của ô tô do các liên doanh trong nước sản xuất thì lượng ô tô nhập khẩu cũng tăng trưởng với tỉ lệ tương đối cao. Nếu như năm 2000 lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc là 10.068 xe thì lượng xe tương ứng của năm 2001 là 27.054 xe. Từ lượng xe nhập khẩu hàng năm khoảng gần 20.000 chiếc/năm trong những năm 1996-1999 thì lượng ô tô nhập khẩu năm 2000 đột ngột giảm xuống còn hơn 10.000 chiếc. Luật doanh nghiệp Việt Nam ra đời năm 2000 với những quy định thông thoáng hơn về điều kiện thành lập doanh nghiệp dã khiến số doanh nghiệp tăng lên đáng kể, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp ra đời và nhu cầu mua ô tô của họ là rất thiết yếu. Chính vì vậy mà so với mức tăng trưởng 190% của số xe do các doanh nghiệp trong nước bán ra thì lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc tăng 270% trong năm 2001.
Bảng 5: Cơ cấu nguồn cung cấp sản phẩm ô tô tại Việt Nam
Đơn vị: Chiếc
Năm
Tổng xe tiêu thụ
Các liên doanh cung cấp
Xe nhập khẩu nguyên chiếc
1996
24.707
5.538
19.169
1997
19.915
6.535
13.975
1998
23.126
4.906
18.520
1999
23.000
5.915
17.085
2000
23.068
13.540
9.528
2001
46.121
19.097
27024
Thị phần bình quân hàng năm
100%
34.8%
65.2%
Nguồn: TBKTVN
II. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Quy mô vốn FDI đăng ký và sử dụng
1.1. Tình hình vốn đăng ký
Tính đến thời điểm này, các dự án liên doanh có tổng số vốn đăng ký là 586,945 triệu USD, chiếm 10,1% vốn đầu tư nước ngoài thuộc khu vực công nghiệp nặng và 3,77% trong toàn ngành công nghiệp Việt Nam. Trong đó vốn FDI là 389,2 triệu USD, bằng 71,6% tổng vốn dăng ký. So với tổng số vốn của ngành cơ khí Việt Nam có được sau hơn 40 năm xây dựng và phát triển là 3000 tỷ VNĐ (khoảng 300 triệu USD), thì tổng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp ô tô trong 10 năm qua là con số đáng kể và thực sự đáng lưu tâm, để xem xét việc hoạch định chính sách phát triển ngành này trong các năm tới. Từ bảng số liệu chúng ta thấy, trong giai đoạn 1991-1996, hàng năm ngành công nghiệp ô tô được bổ sung một lượng vốn đầu tư đáng kể do sự ra đời liên tiếp của các liên doanh lắp ráp sản xuất ô tô. Nếu như năm 1991, vốn đầu tư đăng ký là 95,150 triệu USD, trong đó vốn FDI là 66,605 triệu USD (bằng 70% vốn đăng ký) thì đến năm 1993, tổng vốn đăng ký đã tăng 33.87% với lượng tăng tương ứng là 32,229 triệu USD, vốn FDI tăng thêm 20,95 triệu USD lên thành 87,555 triệu USD. Trong các năm 1994-1995, khối lượng vốn đầu tư tăng nhanh hơn. Năm 1994, vốn đầu tư tăng 50 triệu USD với tốc độ tăng tương ứng là 39.25%, vốn FDI tăng với tốc độ cao 57,1% lên thành 125,055 triệu USD. Đặc biệt trong năm 1995, vốn đầu tư có tốc độ tăng vượt bậc 249,7% với lượng tăng tuyệt đối là 442,066 triệu USD và vốn FDI cũng có tốc độ tăng kỷ lục là 258,37% khiến tổng vốn FDI trong ngành công nghiệp ô tô đạt 448,155 triệu USD . Có thể nói, đây là năm có mức tăng vốn kỷ lục trong ngành sản xuất ô tô Việt Nam từ trước đến nay.
Bảng 6 : Tình hình vốn đầu tư của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam
1991
1992
1993
1994
1995
1996
97-2002
Vốn đăng ký trong năm
(triệu USD)
95,150
0
32,229
50
442,066
83,376
0
Vốn đăng ký cộng dồn
(triệu USD)
95,150
95,150
127,379
177,379
619,445
702,821
702,821
tăng so với năm trước (%)
-
0
33,87
39,25
249,2
13,45
0
Vốn góp của bên nước ngoài trong năm (triệu USD)
66,605
0
20,945
38
323,1
15,96
0
Vốn góp của bên nước ngoài cộng dồn
(triệu USD)
66,605
66,605
87,55
125,05
448,15
564,11
564,11
tăng so với năm trước (%)
-
0
31,44
42,83
258,37
25,87
0
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Có hai nguyên nhân giải thích cho vấn đề này:
Một là, xu hướng vận động của dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới đang hướng vào các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia có môi trường đầu tư mới lạ như Việt Nam, làm gia tăng vốn đầu tư nước ngoài không chỉ trong ngành công nghiệp ô tô mà cả toàn nền kinh tế nước ta.
Hai là, việc đầu tư có hiệu quả của nhiều ngành nghề khác, cùng tốc độ phát triển kinh tế luôn ở mức cao (hơn 8%/ năm) đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài mạo hiểm hơn.Thêm vào đó, thị trường ô tô ASEAN được đánh giá là thị trường có tiềm năng lớn do mật độ người dân trên 1 ô tô còn cao và thị trường sản xuất và lắp ráp ô tô ở Việt Nam vẫn còn có thể thâm nhập.
Năm 1996, lượng vốn đầu tư tăng thêm 83,376 triệu USD, được đóng góp bởi sự ra đời của công ty liên doanh Hino Motors Việt Nam, làm cho vốn đầu tư toàn ngành tăng 13,45% và đưa tổng vốn đăng ký đạt mức 702,821 triệu USD và tổng vốn FDI đạt 564,11 triệu USD. Hiện nay, vốn đăng ký đầu tư lắp ráp và sản xuất ô tô ở nước ta chỉ còn đạt 586,945 triệu USD, trong đó vốn FDI là 483 triệu USD do hai liên doanh CHRYSLER và Công ty kỹ nghệ liên doanh Viet-Sin bị giải thể theo quyết định ra ngày 6/7/2000 và 18/12/2000. Thực trạng này có thể giải thích bởi những bất cập trong chính sách, công tác quản lý dự án và do nhu cầu thị trường ô tô trong nước đã không đúng như mong muốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, còn phải kể đến chính sách hạn chế số lượng nhà đầu tư trong lĩnh vực lắp ráp ô tô do số lượng các nhà cung cấp sản phẩm ô tô như hiện nay được xác định là thừa đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tình hình vốn thực hiện
Hiện nay, cả 11 dự án liên doanh lắp ráp và sản xuất ô tô đều đang hoạt động. Tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 326.813 triệu USD, bằng 60,14% tổng vốn đăng ký.
Đi đầu trong việc triển khai dự án là công ty liên doanh FORD Việt Nam với tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện của dự án là 100%. Các liên doanh VIDAMCO- DAEWOO và MEKONG cũng có tỷ lệ này ở mức cao, lần lượt đạt 99,29% và 93,80%. Bảy trên tổng số 11 liên doanh có tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện của dự án đạt mức > 50%. (Xem bảng 6)
Như vậy, so với tình hình thực hiện các dự án có nhân tố nước ngoài khác ở Việt Nam, vốn thực hiện trong các dự án ô tô chiếm 60,14% là tỷ lệ tương đối cao, cho thấy tinh thần thiện chí của các bên nước ngoài khi tham gia liên doanh.
Bảng 7: Tình hình thực hiện vốn đầu tư của các doanh nghiệp liên doanh lắp ráp và sản xuất ô tô
Đơn vị: Triệu USD
Tt
Tên doanh nghiệp
Tổng vốn đầu tư
% Thực hiện
(3)=(2)/(1)
Theo giấy phép (1)
Thực hiện đến 30/6/02 (2)
1
Công ty LD Toyota
89
49
55,06
2
Công ty LD Vindaco
32
12,362
38,06
3
Công ty LD Ford VN
72
72
100
4
Công ty LD VMC
58
25
43,1
5
Công ty LD Hino Motors VN
17,03
8,111
47,63
6
Công ty Vidamco-Daewoo
32,229
32
99,29
7
Công ty LD Suzuki
34,175
50,87
61,07
8
Công ty LD Isuzu
50
15
30
9
Công ty LD Mercedes
70
25,605
36,58
10
Công ty LD Mê Kông
35,995
33,765
93,80
11
Công ty LD VinaStar
53
33,1
62,45
Tổng
543,429
326,813
60,14
Nguồn: Bộ Công nghiệp
2. Cơ cấu FDI
2.1. Về chủ đầu tư
Trong 11 liên doanh sản xuất ô tô Việt Nam hiện nay, phía đối tác nước ngoài chủ yếu là các tập đoàn sản xuất nổi tiếng đến từ Mỹ ( Ford), Nhật Bản (Toyota, Mitsubishi, Suzuki, Isuzu...), Đức (Mercedes/ Daimler Benz) , Hàn Quốc (Deawoo) và cả các nước trong khu vực Đông Nam á như Malaysia (Proton), Indonesia (Daihatsu). Từ bảng số liệu ta thấy phần vốn của các dối tác này chiếm khoảng 70% vốn đăng ký của các liên doanh. Nhiều nhất là 80% như ở liên doanh Toyota và thấp nhất cũng là 65% ở liên doanh Vidamco- Deawoo. Tỉ lệ góp vốn của phía đối tác nước nước ngoài trong các liên doanh khá cao do đây là ngành đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn. Với tỉ lệ góp vốn lớn, phía nước ngoài có tiếng nói quyết định trong việc dưa ra đường lối hoạt động của các liên doanh. Còn phía các đối tác Việt Nam đều là doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Công nghiệp, Bộ GTVT, Bộ Quốc phòng và một số nhỏ thuộc địa phương với tỷ lệ góp vốn thấp, trung bình khoảng 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Hiện nay, tỷ lệ cao nhất mới chỉ là 35% và thấp nhất là 20% vốn pháp định. Bên Việt Nam chủ yếu góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, việc góp vốn theo phương thức này vừa không làm tăng trách nhiệm bảo toàn vốn của bên Việt Nam trong liên doanh, vừa làm cho bên nước ngoài không phát huy hết cố gắng của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh xét trên góc độ dài hạn.
Tỷ lệ góp vốn thấp dẫn đến tỷ lệ phân chia lợi nhuận thấp và hoạt động quản lý điều hành của bên Việt Nam trong liên doanh bị hạn chế đáng kể. Vấn đề bức xúc trong các liên doanh sản xuất và lắp ráp ô tô hiện nay là, mặc dù luật đầu tư nước ngoài dành cho bên Việt Nam quyền phủ quyết theo nguyên tắc nhất trí trong những vấn đề quan trọng, nhưng thực tế trong những vấn đề quan trọng nhất mà các bên chưa nhất trí như giá nhập khẩu đầu vào của bộ linh kiện CKD, giá thiết bị đầu tư, các vấn đề liên quan đến chiến lược kinh doanh dài hạn,… bên Việt Nam vẫn phải nhượng bộ do không đủ thông tin và Nhà nước chưa có những quy định đầy đủ và đồng bộ để vận dụng.
Có thể nói, vai trò của đại diện Việt Nam trong liên doanh lắp ráp và sản xuất ô tô là thụ động nên việc thực hiện các cam kết về chuyển giao công nghệ và nội địa hoá sản phẩm của đối tác nước ngoài còn nhiều chậm trễ.
2.2. Về địa bàn đầu tư
Các liên doanh chủ yếu tập trung ở các thành phố như Hà Nội (6 liên doanh ), thành phố Hồ Chí Minh (2 liên doanh). Các liên doanh đặt nhà máy ở các thành phố là để thuận tiện cho việc nhập khẩu linh kiện phục vụ cho sản xuất, hơn nữa tiện cho việc tiêu thụ sản phẩm. Theo công ty Mercedes-Benz thì cứ 100 xe bán được thì có tới 65 chiếc từ đại lý thành phố Hồ Chí Minhvà 30 chiếc tại Hà Nội, các tỉnh còn lại chỉ bán 5 chiếc.
Bảng 8: Địa bàn đầu tư của ngành công nghiệp ô tô
STT
Địa bàn
Tên liên doanh
1
Thành phố Hà Nội
- Công ty MEKONG
- Công ty VMC
- Công ty VIDAMCO
- Công ty MERCEDES-BENZ
- Công ty DAIHATSU
- Công ty HINO
2
Thành phố Hồ Chí Minh
- Công ty MEKONG
- Công ty MERCEDES-BENZ
3
Tỉnh Hải Dương
- Công ty FORD
4
Tỉnh Sông Bé
- Công ty VINASTAR
5
Tỉnh Vĩnh Phúc
- Công ty SUZUKI
6
Tỉnh Vĩnh Phúc
- Công ty TOYOTA
Nguồn: Tạp chí công nghiệp
Về hình thức đầu tư
Toàn bộ 11 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp ô tô ô tô ở Việt Nam đều là các liên doanh do trong văn bản 2308/UB-TĐ ngày 14/11/1994 về Hướng dẫn lắp ráp, sản xuất ô tô ở Việt Nam do SCCI và bộ vông nghiệp nặng ban hành thì 1 trong 5 yêu cầu cơ bản là chính phủ khuyến khích đầu tư theo hình thức liên doanh vì doanh nghiệp liên doanh là phương tiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài có hiệu quả. Thành lập và phát triển các doanh nghiệp liên doanh là cách thức để chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam một cách nhanh chóng nhất cũng như phát huy tối đa hiệu quả từ nhiều phía. Doanh nghiệp liên doanh còn là trường đào tạo trực tiếp đội ngũ những nhà kinh doanh, những cán bộ kỹ thuật làm việc theo mô hình kinh doanh hiện đại với tác phong công nghiệp. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp bên đối tác nước ngoài đẩy chi phí quảng cáo và bán hàng lên cao để thực hiện ý đồ “lỗ theo kế hoạch”, khiến đối tác Việt Nam không kham nổi, từ đó độc chiềm bằng cách chuyển đổi liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài. Mới đây, trong tháng 6/2002 chính phủ vừa quyết định ngừng không cấp thêm giấy phép thành lập doanh nghiệp sản xuất xe hơi mới nhằm bảo hộ các liên doanh đã có ở Việt Nam. Bình luận về việc này, tổng giám đốc công ty Ford Việt Nam, ông Jason Liu, cho rằng đây là một quyết định phù hợp nhằm động viên các liên doanh hiện có đầu tư thêm để xây dựng nhà máy phù hợp tiêu chuẩn quốc tế, đầy đủ phương tiện kỹ thuật góp phần nhanh chóng tăng tỷ lệ nội địa hoá ô tô. Theo ông Liu thì với quy mô thị trường trong nước, 14 giấy phép đã cấp và 11 nhà máy lắp ráp dang hoạt động đã là quá đủ rồi.
3. Kết quả đạt được và nguyên nhân
3.1. Kết quả tài chính
a. Sản lượng
Tính đến ngày 30/6/02, với tổng vốn đầu tư thực hiện 326,813 triệu USD ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã có được một năng lực sản xuất có thể nói là quá dồi dào để đáp ứng nhu cầu trong nước. Mười năm trước đây, công nghiệp ô tô Việt Nam mới chỉ dừng ở việc sửa chữa, bảo dưỡng, tân trang một số bộ phận nào đó hoặc chế tạo theo mẫu những chi tiết mau hỏng của ô tô thì ngày nay, hàng năm chúng ta có khả năng sản xuất ra 148.900 xe ô tô vượt mức cầu nội địa về sản phẩm.
Bảng 9: Tình hình khai thác công suất của 11 liên doanh lắp ráp và sản xuất ô tô năm 2000 và 2001
TT
Tên doanh nghiệp
Công suất thiết kế (xe/năm)
Năm 2001
Năm 2000
Sản lượng sản xuất (xe)
Tỷ lệ khai thác công suất (%)
Sản lượng sản xuất (xe)
Tỷ lệ khai thác công suất (%)
1
Công ty LD Toyota
20.000
5.586
27.93
1.600
23.00
2
Công ty LD Vindaco
10.000
456
4.56
779
7,79
3
Công ty LD Ford VN
26.000
1.862
7.16
1.195
4,60
4
Công ty LD VMC
20.000
1.748
8.74
2.222
11,11
5
Công ty LD Hino Motors VN
2.600
105
4.04
91
3,50
6
Công ty Vidamco-Daewoo
9.500
2.830
29.80
1.750
18,42
7
Công ty LD Suzuki
10.000
1.463
14.63
947
9,47
8
Công ty LD Isuzu
6.000
722
12.00
454
6,49
9
Công ty LD Mercedes
7.000
1.824
26.06
547
7,80
10
Công ty LD Mê Kông
20.000
836
4.18
414
2,07
11
Công ty LD VinaStar
17.800
1.560
8.76
958
5,40
Tổng
148.900
19.097
12.7
13.957
9,37
Nguồn: Bộ Công Nghiệp
Năm 2000, một năm được đánh giá là thời điểm khởi sắc của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam. Sự thay đổi đột biến của cầu là do sự ra đời một số chính sách mới của Nhà nước, như Luật doanh nghiệp mới thông thoáng hơn đã tạo điều kiện cho hàng nghìn doanh nghiệp mới ra đời, nhu cầu sắm xe ở các doanh nghiệp đóng góp một phần đáng kể vào sự gia tăng của tổng cầu về ô tô năm 2000 và 2001; hay, Bộ GTVT đã ra quyết định yêu cầu xe chở khách liên tỉnh nếu không đảm bảo tiêu chuẩn quy định đều bị cấm lưu thông. Theo số liệu điều tra sơ bộ, số xe liên tỉnh bị buộc phải thay mới theo quyết định này phải lên tới 20.000 – 30.000 xe.Do đó, tổng số xe các liên doanh bán ra tăng tới 109% so với năm 1999, dẫn đến các liên doanh đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và sản lượng sản xuất năm 2000 cũng tăng vượt bậc so với các năm trước (tăng 33,4%). Tuy vậy, cơ hội khai thác công suất trong năm này của các liên doanh lắp ráp ô tô vẫn chỉ dừng ở một rất mức khiêm tốn: tỷ lệ khai thác công suất bình quân năm 2000 mới chỉ đạt 9,37%. Sở dĩ như vậy là do thị trường tiêu thụ ô tô ở Việt Nam còn nhỏ, lại có nhiều nhà sản xuất nên thị phần của từng liên doanh là rất nhỏ, dẫn đến khả năng khai thác công suất bị hạn chế nhiều. Và, từ năm điển hình này chúng ta cũng có thể một phần đoán được tình hình vận hành kết quả đầu tư của các liên doanh này ở những năm trước là khó có thể khá hơn và cũng cho thấy khả năng tăng đầu tư mở rộng năng lực sản xuất của các liên doanh sản xuất ô tô trong thời gian tới là rất ít có triển vọng.
b. Doanh thu
Tính đến hết ngày 30/6/01, tổng số xe các liên doanh đã bán ra trên thị trường là 48.222 xe trong tổng số 50.480 xe đã được lắp ráp tại Việt Nam kể từ ngày cấp giấy phép đầu tư. Tổng doanh thu bán sản phẩm trong thời gian này là 1.141.700.396 USD và tổng lãi là -10.564.774 USD.
Năm 1996, 7 trên tổng số 8 liên doanh đi vào hoạt động đều bị thua lỗ. Duy nhất có liên doanh VMC là làm ăn có lãi, đạt 2.441.787 USD. Năm 1997, tình hình chưa có gì khả quan. Con số doanh nghiệp làm ăn có lãi vẫn chỉ là 1 nhưng tổng số liên doanh lỗ lại tăng lên 9 do có thêm 2 liên doanh mới đi vào hoạt động.
Thời kỳ 1998-99, đã có 3 doanh nghiệp làm ăn có lãi trong 2 năm liên tiếp : liên doanh TOYOTA, SUZUKI và LD ô tô VINASTAR với tổng lãi lần lượt là 7.600 triệu USD, 7.323 triệu USD và 1.222 triệu USD. Năm 2000, phần lớn các liên doanh làm ăn có lãi, với tổng lãi đạt 16.790.288 triệu USD và riêng 6 tháng đầu năm 2001 tổng lãi đạt 16.705.181 triệu USD bằng 99.49% tổng lãi của cả năm 2000. Đây là dấu hiệu tốt cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong thời gian tới.
Như vậy, nếu xem xét cả thời kỳ từ 1996 đến 30/6/2001 thì hiện nay mới chỉ có 3 trên tổng số 11 liên doanh làm ăn có hiệu quả: LD TOYOTA, VMC và SUZUKI bởi tổng lãi của cả thời kỳ là những con số dương: 18.695.000 USD; 1.462.578 USD và 11.093.000 USD. Các liên doanh còn lại phần lớn làm ăn không có lãi. Nguyên nhân cơ bản của hiện trạng này là:
- Thứ nhất, do sức mua của thị trường trong những năm qua còn yếu. Trung bình trong 5 năm gần đây, cả nước chỉ tiêu thụ khoảng 20.000 xe nội địa/năm mà vốn đầu tư lớn, doanh thu không đủ bù đắp chi phí.
- Thứ hai, việc nhập khẩu ồ ạt xe ô tô cũ, đã qua sử dụng dưới 4 năm từ nước ngoài vào Việt Nam có giá thành rẻ hơn nhiều so với xe liên doanh đã làm giảm thị phần của xe liên doanh. Riêng ô tô nhập khẩu chiếm 3/4 thị phần