MỤC LỤC
Chương 1 Những vấn đề lý luận chung về KCN & KCX
1 Khái quát chung về KCN & KCX
1.1 Khái niệm và đặc điểm về KCN& KCX
1.1.1 Khu chế xuất
1.1.2 Khu công nghiệp
1.2 Điểm giống và khác nhau giữa KCN & KCX
1.3 Quan hệ giữa FDI và sự phát triển của KCN & KCX
2 Kinh nghiệm xây dựng KCN & KCX của một số nước và bài học đối với Việt Nam
2.1 Kinh nghiệm từ sự thành công
2.1.1 Đài Loan
2.1.2 Thái Lan
2.1.3 Trung Quốc
2.2 Kinh nghiệm từ sự thất bại
2.2.1 Philippin
2.2.2 Thái lan
Chương 2 Thực trạng thu hút FDI vào KCN & KCX ở Việt Nam
1 Tình hình thu hút FDI và phát triển KCN & KCX ở Việt Nam thời gian qua
1.1 Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua
1.1.1 Nhận xét chung
1.1.2 Kết quả thu hút FDI
1.2 Hoạt động của các KCN & KCX ở Việt nam
1.2.1 Số lượng các KCN & KCX đã hình thành
1.2.2 Thực trạng xây dựng hạ tầng các KCN, KCX
1.2.3 Tỷ lệ lấp đầy
1.2.4 Tình hình sản xuất kinh doanh
1.2.5 Vấn đề lao động
1.2.6 Vấn đề môi trường
1.3 Đóng góp của KCN & KCX vào nền kinh tế quốc dân
2 Vài nét khái quát về các KCN & KCX ở ba vùng kinh tế động lực
2.1 Vùng kinh tế động lực Bắc Bộ
2.2 Vùng kinh tế động lực Trung Bộ
2.3 Vùng kinh tế động lực Nam Bộ
3 Công tác quản lý của nhà nước đối với việc phát triển KCN & KCX
3.1 Về chính sách đối với các doanh nghiệp trong KCN & KCX
3.2 Về cơ chế quản lý các doanh nghiệp trong các KCN & KCX
3.3 Một số bất cập trong công tác quản lý của nhà nước
3.4 Hướng giải quyết các vấn đề quản lý KCN trước mắt
4 Một số vấn đề tồn tại chủ yếu
4.1 Vấn đề khung pháp lý
4.2 Vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước và thủ tục hành chính
4.3 Vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy của Ban quản lý
4.4 Vấn đề liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng
4.5 Vấn đề liên quan đến dịch vụ
Chương 3 Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào KCN
1 Định hướng xây dựng và phát triển các KCN, KCX
1.1 Mục tiêu
1.2 Định hướng
2 Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển KCN & KCX ở Việt Nam
2.1 Về chính sách, luật pháp
2.2 Về phía cơ quan nhà nước Trung ương
2.3 Về phía Ban quản lý và các địa phương
103 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1527 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đó xuất khẩu khoảng 3.000 - 3.100 triệu USD (tăng khoảng 1,5%so với năm 2001), nộp ngân sách đạt khoảng 160 triệu USD (tăng khoảng 6% so với năm 2001).
Dự kiến năm 2003: dự kiến doanh thu của các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 4.600 - 4.800 triệu USD (sẽ có thêm một số dự án lớn quy mô vừa đi vào hoạt động như TOTO, Sumitomo Bakelite... và một số dự án bắt đầu sản xuất trong năm 2002 sẽ đạt công suất ổn định vào năm sau), trong đó xuất khẩu khoảng 3.200 - 3.300 triệu USD, nhập khẩu khoảng 3.300 - 3.500 triệu USD, nộp ngân sách 170 - 185 triệu USD[1] Báo cáo kế hoạch 2003 - Ban quản lý KCN, KCX - Bộ KH-ĐT
.
1.2.6. Vấn đề lao động
Tính đến hết năm 2001, các KCN ở Việt Nam đã thu hút gần 25 vạn lao động Việt Nam làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp, chưa kể đến hàng vạn lao động trong lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ cho KCN, trong các cơ sở sản xuất ngoài KCN có quan hệ với KCN.
Con số gần 25 vạn lao động này chiếm hơn 50% tổng số lao động đang làm việc trong toàn khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này cho thấy các KCN đang có một sức hấp dẫn lớn đối với lao động Việt Nam. Tuy nhiên lao động của chúng ta còn yếu về kỹ thuật, chúng ta còn thiếu lao động lành nghề. Do vậy đào tạo nhân lực là một trong những vấn đề quan trọng trong việc phát triển KCN.
Quá trình hình thành và phát triển KCN trong thời gian qua đã tạo nên sự dịch chuyển lao động từ các vùng nông thôn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đến các vùng có KCN, góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hoá. Điều này đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội ngoài hàng rào như nhà ở, các công trình công cộng, trường học, bệnh viện... đồng bộ với quá trình xây dựng và phát triển KCN.
1.2.7. Về công nghệ và bảo vệ môi trường
Nhìn chung các doanh nghiệp KCN có trang thiết bị và trình độ công nghệ ở mức tiên tiến so với trình độ chung của cả nước. Có một số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ cao như Rorze Robotech ở KCN Nomura (Hải Phòng), Fujitsu ở KCN Biên Hoà II (Đồng Nai), Canon ở KCN Thăng Long (Hà Nội)...
Trong tất cả các dự án thành lập KCN đều được các cơ quan chức năng xem xét kỹ vấn đề bảo vệ môi trường. Cho đến nay đã có 15 KCN đã có hệ thống xử lý nước thải. Các KCN còn lại chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải do nhiều lý do, trong đó có lý do chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư, các nhà máy đi vào hoạt động chưa nhiều nên lượng nước thải công nghiệp còn ít.
1.3. Đóng góp của KCN vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
Trong mấy năm gần đây, hoạt động của các KCN đã giữ được sự tăng trưởng khá cao, đạt được kết quả tăng nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung, ngành công nghiệp và khu vực có vốn ĐTNN nói riêng.
Các KCN, KCX góp phần thúc đẩy xuất khẩu. Năm 1997, các KCN đạt tổng giá trị sản lượng 1.155 tr.USD, chiếm 15% giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp cho xuất khẩu 848 tr.USD, gần bằng 10% giá trị xuất khẩu của cả nước, trong đó 47% giá trị xuất khẩu là của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và tăng gần hai lần so với năm 1996. Năm 1998, các con số trên tuần tự là: 1.871 tr.USD, 14%, 65%, trên 50%. Năm 1999 là 2.400 tr.USD, trên 20%, trên 65%, trên 50%.
Trong 6 tháng đầu năm 2000, các KCN tạo ra giá trị sản lượng chiếm trên 25% giá trị sản lượng công nghiệp trong GDP và 16% giá trị xuất khẩu của cả nước với doanh số đạt 1,5 tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 1 tỷ USD, tỷ lệ xuất khẩu đạt 65%, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước cả về doanh số và giá trị xuất khẩu[15] Tạp chí Thông tin KCN Việt Nam, số 34 tháng 7 năm 2000, tr 9 - 10
.
Trong năm 2001, riêng các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong các KCN doanh thu gần 4,5 tỷ USD , trong đó giá trị xuất khẩu đạt gần 3 tỷ USD, bằng 60% giá trị xuất khẩu của toàn bộ khu vực FDI. Các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách gần 150 tr.USD.
Doanh thu tháng 8/2002 của các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 420 tr.USD, trong đó xuất khẩu khoảng 300 tr.USD, do đó tổng doanh thu của 8 tháng đầu năm 2002 đạt khoảng 3200 tr.USD, xuất khẩu đạt 2100 tr.USD.
Như vậy, trong lĩnh vực xuất khẩu, các KCN đã có những đóng góp đáng kể, góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của đất nước, thu hút vốn đầu tư, tạo diều kiện tăng trưởng GDP nhanh và vững chắc. Nhìn chung, các doanh nghiệp KCN có tỷ lệ xuất khẩu khá cao, trung bình đạt khoảng 65%, tốc độ tăng xuất khẩu khá nhanh trong những năm gần đây. Điều này rất phù hợp với chủ trương, đường lối cũng như mục tiêu mà Đảng và Chính phủ ta đề ra trước khi thành lập KCN
Các KCN ở Đồng Nai, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hà Nội, Hải Phòng đã có đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố. Các ngành công nghiệp có đóng góp lớn cho xuất khẩu là điện tử, dệt may, giày dép. Hầu hết các sản phẩm của KCN có chất lượng cao, thay thế một phần nhập khẩu, thoả mãn ngày càng cao hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Những tỉnh, thành phố có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong KCN bắt đầu có đóng góp cho ngân sách. Các KCN thuộc tỉnh Đồng Nai đã đóng góp cho ngân sách nhà nước năm 1999 trên 500 tỷ đồng, tăng trên 60% so với năm 1998.
Các KCN đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu công nghệ. Phần lớn các nhà máy trong KCN có công nghệ tiên tiến ở khâu quyết định chất lượng sản phẩm, góp phần đưa tỷ lệ xuất khẩu của các KCN tăng nhanh. Hiện nay, trên 90% vốn đầu tư vào các KCN là nguồn vốn ĐTNN, tạo ra một môi trường rất thuận lợi để ta thu hút công nghệ mới và học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Thực tế, chúng ta đã tiếp nhận được rất nhiều phương pháp quản lý tiến bộ và kinh nghiệm về tổ chức kinh doanh. Việc tiếp thu công nghệ hiện nay đang diễn ra dưới nhiều hình thức: đầu tư 100% vốn nước ngoài, mua dây chuyền công nghệ theo hình thức chìa khoá trao tay, mua licence, cử người đi học nước ngoài ... nhưng hai hình thức đầu là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng công nghệ hay trình độ công nghệ là vấn đề mà phía Việt Nam chúng ta cần phải rất quan tâm khi chấp nhận nó.
Các KCN, KCX có vai trò trong việc thu hút một đội ngũ lao động và cán bộ có trình độ và tay nghề cao. Đến hết tháng 10 năm 2000, các KCN của Việt Nam đã thu hút được trên 18 vạn lao động, tạo ra sức mua cho xã hội hơn 1000 tỷ đồng một năm. Ngoài số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp KCN, các KCN đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản phục vụ cho phát triển KCN. Tay nghề của công nhân, trình độ cán bộ quản lý được nâng lên và từ đây lan toả ra bên ngoài.
KCN công nghiệp tác động đến phát triển các cơ sở nguyên liệu, dịch vụ cho KCN, nâng cao giá trị nông sản, mở rộng thị trường, hình thành các đô thị vệ tinh, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội.
ĐTNN góp phần quan trọng hình thành và phát triển KCN. Ngược lại, KCN là địa bàn thuận lợi cho các nhà ĐTNN tiến hành sản xuất kinh doanh với thủ tục hành chính đơn giản hơn, hiệu lực quản lý nhà nước phát huy rõ nét hơn, có điều kiện để thành lập doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN phù hợp với mong muốn của họ.
KCN đang trở thành địa điểm thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước do nhà nước có chính sách phù hợp nhất là các chính sách đất đai, huy động vốn, tài chính ngân hàng và các doanh nghiệp bắt đầu nhận rõ lợi ích lâu dài của việc đầu tư vào các KCN như an tâm về quy hoạch, bảo vệ môi trường, dịch vụ hạ tầng đầy đủ hơn.
KCN không chỉ mang lại lợi ích kinh tế xã- hội mà còn góp phần củng cố an ninh, quốc phòng. Trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch phát triển KCN, các cơ quan quản lý nhà nước về KCN phối hợp với bộ quốc phòng để có những điều chỉnh cần thiết đáp ứng nhu cầu quốc phòng (KCN Nội Bài - Hà Nội, KCN Đà Nẵng, KCN Phú Tài - Thừa Thiên Huế). Kết hợp trong xây dựng một số công trình , ngành có tính lưỡng dụng, vừa phục vụ khinh tế trước mắt nhưng khi cần có thể nhanh chóng chuyển sang quốc phòng (hạ tầng KCN, công nghiệp hoá chất, cơ khí , điện tử,...), tạo điều kiện cho quân đội tham gia phát triển KCN, KCX (Công ty máy 28 của Bộ quốc phòng dã liên doanh với Nisho Iwai của Nhật Bản để phát triển KCN Long Bình tại Đồng Nai...)
KCN là mô hình phù hợp để thực hiện cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ và hội nhập quốc tế”, không chỉ nhằm thu hút ĐTNN mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước hoạt động. Với các nước đang phát triển như Việt Nam, KCN là một mô hình thử nghiệm rất quan trọng để áp dụng cơ chế này trong toàn quốc nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn nữa cho hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động ĐTNN nói riêng.
2. Vài nét khái quát về KCN, KCX ở 3 vùng kinh tế động lực
2.1. Vùng kinh tế động lực Bắc Bộ
Tính đến hết năm 1999, số KCN đã được thành lập là 10 (trong đó có 1 KCNC), tổng diện tích các KCN đã được thành lập là 1307 ha, số dự án đầu tư tại các KCN là 43 dự án với tổng vốn đầu tư 1086,6 tr.USD và 253,4 tỷ đồng[2] Báo cáo về tình hình phát triển KCN, KCX thời gian qua và một số giải pháp kiến nghị
.
Số dự án
Số vốn đầu tư đăng ký
Tổng cộng:
- Dự án đầu tư trong nước:
Xây dựng CSHT KCN
Đầu tư SXCN và dịch vụ SXCN
- Dự án FDI:
Xây dựng CSHT KCN
Đầu tư SXCN và dịch vụ SXCN
43
3
3
0
40
7
33
1086,6tr.USD+#253,4 tỷ đ
96tr.USD+#253,4 tỷ đ
96tr.USD+#253,4 tỷ đ
990,6 tr. USD
565,6 tr. USD
425tr. USD
(Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Cho đến tháng 1 năm 2002, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đã thu hút được 53 dự án FDI (bằng 5% tổng dự án) với tổng số vốn đăng ký 645 tr. USD (bằng 8% tổng vốn đăng ký của các KCN) và 2 dự án trong nước với 6,5 tỷ đồng vốn đầu tư.
Việc thu hút đầu tư trong nước vào các KCN ở vùng này có khó khăn do giá thuê đất tại khu vực này khá cao, có thể nói là cao nhất so với các KCN khác nên các doanh nghiệp trong nước ít có khả năng thuê đất.
Nhìn chung, tình hình thu hút đầu tư vào các KCN này chậm, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nguyên nhân: do chi phí đầu tư tại vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ cao; môi trường đầu tư tại vùng này không thuận lợi bằng các tỉnh phía Nam (theo phản ánh của các nhà đầu tư), thu nhập của dân cư thấp nên nhu cầu tiêu dùng chưa nhiều
Việc tiến hành xây dựng các KCN thực hiện chậm, tổng vốn xây dựng hạ tầng các KCN mới đạt khoảng 225 tr. USD (chiếm 33% tổng vốn đầu tư theo dự toán), nhìn chung việc xây dựng cơ sở hạ tầngcác KCN ở vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ thường kéo dài từ 5 - 7 năm (trừ KCN Nomura - Hải phòng).
Từ KCN Nomura Hải Phòng, giai đoạn I (50 ha) của KCN Nội Bài (Hà Nội) có cơ sở hạ tầng đã được xây dựng hoàn chỉnh, các KCN, KCX khác trong vùng triển khai xây dựng hạ tầng chậm do giải phóng mặt bằng, việc đền bù giải toả phức tạp, tốn kém thời gian và do khả năng thu hút đầu tư hạn chế, do vậy các chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cầm chừng. Có trường hợp, tuy được thành lập từ 4 - 5 năm, nhưng chủ đầu tư vẫn chưa thực hiện dự án như KCN Daewoo - Hanel.
Việc thu hút đầu tư váo các KCN ở vùng trọng diểm kinh tế Bắc Bộ hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, kể cả đối với một số KCN đã có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh như KCN Nội Bài, đặc biệt là KCN Nomura Hải phòng. Các chủđầu tư của 2 KCN này đã thực hiện xây dựng xong cơ sở hạ tầng KCN (hoặc giai đoạn I), tuy nhiên mới chỉ cho thuê lại được phần đất nhỏ, nên chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn đầu tư. Đến hết tháng 12 năm 1999, cứ 1 USD đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN mới thu hút được 1,6 USD vốn đầu tư thực hiện vào sản xuất và dịch vụ. Thực tế, tỷ lệ này là rất thấp so với các tỉnh phía Nam (ví dụ: ở Đồng Nai con số này đạt trên 20 USD, Bình Dương trên 4 USD...). Rút kinh nghiệm, các chủ đầu tư của nhiều KCN, KCX (nhất là các KCN do doanh nghiệp Việt Nam phát triển hạ tầng) tiến hành thực hiện đầu tư theo hình thức cuốn chiếu. Việc thu hút đầu tư vào các KCN chậm cũng phản ánh hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất thấp, khả năng thu hồi vốn đầu tư rất khó khăn, chưa nói đến khả năng sinh lời.
2.2. Vùng kinh tế động lực Trung Bộ
Miền Trung là khu vực chính phủ ưu tiên phát triển kinh tế, xã hội nhằm tạo sự cân đối kinh tế giữa các vùng trong cả nước. Theo quy hoạch tổng thể đã được chính phủ phê duyệt đến năm 2010 sẽ xây dựng 10 KCN, KCX ở các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Thừa Thiên Huế. Cho đến nay ở khu vực này đã thành lập được 8 KCN trong đó có khu Dung Quất (14000 ha) thuộc hai tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng. Diện tích chiếm đất của 8 KCN ở khu vực này là 14890 ha. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đã thu hút được 12 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư là 80 tr.USD và gần 120 dự án đầu tư trong nước với vốn đầu tư gần 1700 tỷ đồng[7] Dự thảo Nghị định của Chính phủ ban hành quy chế KCN, KCX, Số 514 BKH/KCN, ngày 23/1/2002
.
Vốn FDI đầu tư vào các KCN trong 3 năm (1997 - 1999)
Năm
Số dự án được
cấp GPĐT
Vốn đầu tư đăng ký
1997
1998
1999
2
2
3
10,2
7,3
1320,75 (Kể cả 1300 tr USD của dự án Nhà máy lọc dầu số 1)
(Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Vừa qua, chính phủ đã quyết định cho nghiên cứu xây dựng thí điểm khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, các cơ quan nhà nước đang tiến hành nghiên cứu về mô hình tổ chức và quản lý khu kinh tế mở.
Miền Trung là vùng phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề về thiên tai, lũ lụt. Vì vậy việc xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN và thu hút đầu tư vào các KCN sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thời gian qua, việc thu hút đầu tư vào vùng này rất chậm, nếu không kể dự án nhà máy lọc dầu số 1(tại KCN Dung Quất) thì trong 6 năm (1993-1998) cả vùng mới thu hút được 13 dự án FDI (vốn đầu tư 203,6 tr.USD) nhưng thực tế có 1 dự án (vốn đầu tư 110 tr.USD) xin tạm hoãn.
2.3. Vùng kinh tế động lực Nam Bộ
Khu vực này có nhiều KCN được thành lập nhất, đến nay đã có 37 KCN được thành lập với diện tích 8864 ha và đã thu hút được nhiều dự án đầu tư nhất với hơn 760 dự án FDI (chiếm 85,8% tổng số dự án có vốn FDI đầu tư vào các KCN) với tổng số vốn đăng ký trên 6,9 tỷ USD (bằng 75%) và khoảng 430 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư trên 28 nghìn tỷ đồng (bằng gần 84% tổng vốn đầu tư của các dự án đầu tư trong nước vào các KCN).
Năm 1999, doanh thu của các doanh nghiệp KCN, KCX đạt gần 2092 tr.USD, trong đó giá trị sản phẩm xuất khẩu đạt khoảng 1466 tr.USD[2] Báo cáo về tình hình phát triển KCN, KCX thời gian qua và một số giải pháp kiến nghị
.
Tại vùng trọng điểm kinh tế Nam Bộ có 2 KCX là Tân Thuận và Linh Trung đang hoạt động và thu được nhiều thành công:
KCX Tân Thuận
KCX Linh Trung
Số dự án đầu tư còn hiệu lực
Tổng số vốn đầu tư
Diện tích đất cho thuê lại
Tỷ lệ lấp kín
Doanh thu năm 1999
Giá trị xuất khẩu năm 1999
Giá trị nhập khẩu năm1999
Lao động đến hết tháng 12/1999
107
522025 tr.USD
121,2 ha
57,7%
409,874 tr.USD
407 tr.USD
337,564 tr.USD
24.672 người
25
115,9 tr.USD
37,4 ha
85%
144,341 tr.USD
143,33 tr.USD
117,8 tr.USD
19.466 người
(Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Ngoài 2 KCX nói trên, tại vùng trọng điểm kinh tế Nam Bộ còn có một số KCN được đánh giá thành công như KCN Biên Hoà II, KCN Việt Nam - Singapore... Sự thành công của các KCN này được đánh giá trên cả mặt thu hút đầu tư, cơ sở hạ tầng KCN, vốn thực hiện, doanh thu và giá trị hàng hoá xuất khẩu của các dự án trong KCN.
Tính đến đầu năm 2000, với 478 dự án đầu tư nước ngoài (tổng vốn đầu tư 5372,67 tr.USD) và gần 200 dự án đầu tư trong nước (vốn đầu tư trên 13 nghìn tỷ đồng) và tạo việc làm cho gần 130 nghìn lao động, nhìn chung tình hình thu hút đầu tư vào các KCN ở các tỉnhvùng trọng điểm kinh tế Nam Bộ đạt nhiều khả quan hơn các vùng khác trong cả nước.
Tuy việc thu hút đầu tư vào các KCN trong mấy năm gần đây có nhiều khó khăn, nhưng vốn đầu tư vào các KCN ở vùng này vẫn đạt tỷ lệ cao so với các vùng còn lại, điển hình là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai...Đặc biệt trong 2 năm 98 - 99 có nhiều doanh nghiệp trong nước đã đầu tư vào các KCN, như tại thành phố Hồ Chí Minh có 57 doanh nghiệp trong nước đầu tư vào các KCN (vốn đầu tư trên 1000 tỷ đồng).
Với gần 130 nghìn lao động đang làm việc tại các KCN, KCX trong vùng, nhưng việc thực hiện các cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào các KCN như nhà ở, bệnh viện, trường học, trung tâm đào tạo nghề, khu thương mại, khu vui chơi giải trí... phục vụ người lao động vẫn chưa được các tỉnh quan tâm.
3. Công tác quản lý của nhà nước đối với việc KCN, KCX
KCX là một mô hình tương đối mới ở Việt Nam nên còn rất nhiều vấn đề về môi trường pháp lý chưa thật sự hoàn chỉnh. Nhằm tạo điều kiện cho các KCN, KCX ở Việt Nam thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư, chính phủ Việt Nam đã ban hành, sửa đổi, bổ sung rất nhiều lần các chính sách, chỉ thị, nghị định, thông tư... điều chỉnh hoạt động của các KCN, KCX theo hướng ngày càng thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà ĐTNN.
3.1. Về chính sách đối với các doanh nghiệp trong các KCN, KCX
Tháng 12 năm 1987, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức thông qua Luật ĐTNN tạo điều kiện pháp lý quan trọng thu hút ĐTNN làm tiền đề cho sự ra đời KCN ở nước ta. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh hoạt động KCN là nghị định 36/CP ban hành ngày 24/4/1997 về quy chế KCN, KCX, KCNC thay thế cho 2 quy chế riêng biệt: quy chế KCX ban hành năm 1991 và quy chế KCN ban hành năm 1994. Nghị định này được xây dựng trên cơ sở hệ thống pháp luật hiện hành mà cốt lõi là Luật ĐTNN, Luật đất đai và các luật khác. Do tồn tại hai hệ thống luật khác nhau điều chỉnh các doanh nghiệp trong KCN (Luật khuyến khích đầu tư trong nước áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước, Luật ĐTNN áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN) đã tạo nên sự khác biệt trong tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các loại hình doanh nghiệp, nhất là các điều kiện ưu đãi thuế, giá một số cá yếu tố đầu vào (điện, nước..), giá cả dịch vụ,...
Để cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, Chính phủ đã ban hành Nghị định 10/CP về những biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài với những qui định thông thoáng hơn, ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói chung trong đó có doanh nghiệp KCN. Tuy nhiên, Nghị định này chưa giải quyết được vấn đề phân biệt đối xử giữa hai hệ thống doanh nghiệp.
Nhằm từng bước xoá bỏ sự khác biệt về điều kiện kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định 53/1999/QĐ ngày 26/3/1999 qui định giảm giá một số hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN, người nước ngoài ví dụ giá bán điện, giá cước viễn thông, giá nước sạch; một số khoản phí và lệ phí theo quyết định này cũng được miễn giảm như lệ phí đặt ăn phòng đại diện giảm từ 5000 USD xuống còn 1 triệu VND (giảm gần 70 lần) không cần cả lệ phí gia hạn, lệ phí nộp đơn xin giấy phép đầu tư cũng được bãi bỏ. Quyết định 53/Ttg còn qui định việc dùng đồng tiền Việt Nam để thanh toán các loại giá dịch vụ, phí và lệ phí. Tuy nhiên, việc thực hiện các qui định này diễn ra rất chậm.
Ngoài ra, việc cho phép các doanh nghiệp KCN thuê lại đất của doanh nghiệp phát triển hạ tầng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như các doanh nghiệp ngoài KCN nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn sản xuất, kinh doanh và yên tâm đầu tư là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề này, Quyết định 53/Ttg đã qui định doanh nghiệp KCN, KCX được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời hạn hợp đồng ký với doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN, KCX.
Nhằm xích gần thêm một bước giữa các qui định pháp luật về đầu tư trong nước và ĐTNN để tiến tới một luật đầu tư thống nhất, tạo thế chủ động trong hội nhập quốc tế và không ngừng tạo dựng môi trường pháp lý đồng bộ theo hướng thông thoáng, ổn định cho hoạt động ĐTNN, ngày 9/6/2000 Chính phủ nước ta lại chính thức thông qua Luật ĐTNN sửa đổi bổ sung một số điều của luật ĐTNN năm 1996. Đối với hoạt động của KCN, Luật sửa đổi lần này áp dụng cho các doanh nghiệp KCN và cả các công ty phát triển hạ tầng, tiếp tục thể hiện nguyên tắc khuyến khích các doanh nghiệp có vốn ĐTNN vào KCN như: thuế chuyển lợi nhuận thấp hơn (3%, 5%, 7% thay cho 5%, 7%, 10%), thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn và thời hạn miễn giảm dài hơn so với các doanh nghiệp cùng loại đầu tư ngoài KCN, thủ tục đầu tư vào KCN dễ dàng hơn... Luật này cùng với việc đổi mới nâng cao hiệu lực điều hành, chúng ta sẽ lấy lại được lợi thế thu hút ĐTNN vào nền kinh tế nói chung và KCN nói riêng.
Ngay sau khi sửa đổi luật ĐTNN, ngày 31/7/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/CP và lồng ghép chính sách được xây dựng trên cơ sở bố cục của Nghị định 12/CP và lồng ghép chính sách khuyến khích đầu tư đã được quy định tại Nghị định 10/CP và Quyết định 53/Ttg. Điều này thể hiện sự quan tâm liên tục của Chính phủ Việt Nam trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ĐTNN nói chung và đầu tư vào KCN Việt Nam nói riêng.
3.2. Về cơ chế quản lý
Trong thời gian qua chúng ta đang tiến hành cơ chế quản lý KCN theo hình thức ''một cửa, tại chỗ''. Cơ chế này đã được quy định cụ thể trong Nghị định 36/CP năm 1997 về KCN, KCX. Để giúp Chính phủ quản lý KCN, một bộ máy tổ chức bao gồm các Bộ, Ngành, Trung ương, Uỷ ban nhân dân tỉnh và Ban quản lý KCN cấp tỉnh đã được hình thành. Nhiệm vụ của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh là thực hiện quản lý một cửa đối với KCN, KCX tập trung trước hết vào công tác vận động, xúc tiến đầu tư, cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp KCN. Luật ĐTNN cũng đã trao nhiều quyền hơn cho các Ban quản lý KCN cấp tỉnh thông qua cơ chế uỷ quyền và thực hiện quản lý ''một cửa''. Đó là bước tiến bộ mới về mặt luật pháp và quản lý nhà nước.
Cho đến nay, 30 Ban quản lý KCN cấp tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập để quản lý hoạt động của các KCN trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trừ những trường hợp đặc biệt để quản lý một KCN, chuyên biệt như Ban quản lý KCN Việt Nam - Singapore, Ban quản lý KCN Dung Quất và Ban quản lý KCN Hoà Lạc.
Theo quy định hiện hành, các Bộ, Ngành uỷ quyền cho Ban quản lý KCN cấp tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ quản lý Nhà nước như Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ủy quyền việc cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư nước ngoài có quy vốn đầu tư đến 40 triệu USD; Bộ Thương mại đã uỷ quyền phê duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu và quản lý hoạt động thương mại; Bộ Lao động, Thương binh và xã hội uỷ quyền cấp phép cho người lao động nước ngoài, Bộ xây dựng uỷ quyền thẩm định thiết kế kỹ thuật: Bộ tài chính uỷ quyền chấp thuận chế độ kế toán, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam uỷ quyền cấp chứng chỉ xuất xứ hàng hoá (C/O), Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền quyết định các dự án trong nước đầu tư vào KCN...
Về cơ bản cơ chế uỷ quyền đã phát huy những tác dụng tích cực, Ban quản lý KCN cấp tỉnh đã được trao quyền quyết định nhiều hơn trong quản lý KCN, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý Nhà nước theo nguyên tắc một cửa, tại chỗ đối với KCN, rút ngắn hơn thủ tục hành chính, phần nào giải toả được tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài về việc thực hiện các thủ tục hành chính phiền hà, mất thời gian.
Ngày 17 tháng 8 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 100/2000/QĐ-Ttg chuyển giao Ban quản lý các KCN Việt Nam về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và Quyết định 99/2000/QĐ-Ttg quy định các Ban quản lý KCN cấp tỉnh (trừ Ban quản lý KCN Dung Quất và Ban quản lý KCN Việt Nam - Singapore) trực thuộc UBND cấp tỉnh.
3.3. Những bất cập trong tổ chức quản lý KCN, KCX do thực tiễn Việt Nam đặt ra.
Nhìn tổng thể cả trước năm 2002 và hiện tại, trong tổ chức quản lý KCN, KCX ở Việt Nam có những hạn chế sau:
- Về cơ bản hệ thống tổ chức quản lý các KCN, KCX trong tình trạng chưa đủ luận cứ khoa học, thiếu sự rõ ràng về vị trí của tổ chức và thiếu cơ sở để ổn định và tổ chức một cách cần thiết. Lý do là việc hình thành, phát triển các KCN, KCX ở nước ta đặt trong điều kiện rất mới mẻ, vừa nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo nước ngoài, chưa có thực tiễn, chưa có kinh nghiệm về mô hình tổ chức quản lý.
- Hiện tại dù có sự điều chỉnh về tổ chức quản lý đối với các KCN, KCX (sau năm 2000) nhưng trên thực tế vẫn chưa tỏ rõ đầu mối tổ chức ở Trung ương làm chức năng trực tiếp tham mưu, đề xuất, tổng hợp, chỉ đạo, hướng dẫn, xử lý các vấn đề thuộc thẩm quyền của Trung Ương đối với các KCN, KCX trong cả nước.
- Bất cập trong tổ chức quản lý các KCN, KCX không chỉ xem xét trên góc độ thuần tuý về mặt tổ chức mà cần được xem xét trên cả góc độ các cơ sở pháp lý và thực tiễn bối cảnh đặt ra. Cơ sở pháp lý và tổ chức quản lý KCN, KCX vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hiện nay và xu hướng phát triển các KCN, KCX trong bối cảnh hội nhập quốc tế khu vực. Tuy Chính phủ đã ban hành Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 để tạo cơ sơ pháp lý cho tổ chức quản lý các KCN, KCX. Song những quy định trong quy chế này cho đến nay có nhiều điểm không còn phù hợp hoặc không đáp ứng yêu cầu do thực tế phát triển, có nhiều vấn đề mới xảy ra. Mặt khác, do bản thân hệ thống tổ chức quản lý các KCN, KCX đã sẵn có những h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19354.doc