Khóa luận Đền Hùng trong đời sống kinh tế và tín ngưỡng người dân Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử nghiên cứu 3

3. Nhiệm vụ nghiên cứu 5

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5

5. Phương pháp nghiên cứu 5

6. Đóng góp của khóa luận 5

7. Bố cục của khóa luận 6

NỘI DUNG 7

CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VÙNG VĂN HÓA PHÚ THỌ VÀ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG 7

1.1. Phú Thọ vùng văn hóa đất Tổ 7

1.1.1 Vị trí địa lí 7

1.1.2 Phú Thọ- vùng đất định cư cổ 7

1.1.3 Phú Thọ- vùng đất văn hóa cổ 10

1.2. Xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ- trung tâm di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng 12

1.3. Khu di tích lịch sử Đền Hùng 14

1.3.1 Vị trí địa lý 14

1.3.2 Lịch sử hình thành của Đền Hùng 16

1.3.3 Quá trình trùng tu 18

1.3.4 Các di tích kiến trúc thờ tự tại Đền Hùng 19

Tiểu kết chương 1 27

CHƯƠNG 2: ĐỀN HÙNG TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ NGƯỜI DÂN XÃ HY CƯƠNG- VIỆT TRÌ- PHÚ THỌ 28

2. 1. Khái quát chung đời sống kinh tế của người dân xã Hy Cương. 28

2.2 . Khảo sát bộ phận dân Hy Cương làm dịch vụ quanh Đền Hùng 30

2.2.1 Những người bán hàng quanh Đền Hùng 30

2.2.2 Những người làm nghề chụp ảnh quanh Đền Hùng 34

2.3 Khảo sát bộ phận dân Hy Cương làm trong Ban quản lý Đền Hùng 35

Tiểu kết chương 2 37

CHƯƠNG 3:ĐỀN HÙNG TRONG ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI DÂN XÃ HY CƯƠNG- VIỆT TRÌ- PHÚ THỌ 39

3.1 Các di tích xã Hy Cương 39

3.1.1 Đình Cổ Tích (Đình Hy Cương) 39

3.1.2 . Chùa Am Đường (chùa Tổ) 40

3.2 Khảo sát 41

3.3 Nhận xét 53

3.3.1 Về việc đi lễ Đền Hùng 53

3.3.2 Về hiểu biết các sự tích liên quan đến sự tích Đền Hùng 55

3.3.3 Về việc tham gia lễ hội Đền Hùng 61

Tiểu kết chương 3 63

PHẦN KẾT LUẬN 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO 68

 

 

doc77 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6363 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đền Hùng trong đời sống kinh tế và tín ngưỡng người dân Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- hiện tại- tương lai. Mặt khác, nội dung trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương phản ánh được mối quan hệ giữa Vua Hùng và thời đại Hùng Vương dựng nước. Bảo tàng Hùng Vương ra đời phần nào đáp ứng được lòng mong đợi của đồng bào cả nước, của người Việt Nam sống xa Tổ quốc, các nhà khoa học và bạn bè quốc tế. Thăm viếng đền Hùng và tham quan Bảo tàng Hùng Vương, người Việt Nam có được một dịp ôn lại truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, hiểu sâu sắc hơn về thời đai các Vua Hùng dựng nước và tấm lòng toàn dân tộc đến với đền Hùng. Đối với khách quốc tế đến thăm đền Hùng và Bảo tàng Hùng Vương sẽ có dịp hiểu được ngộn nguồn dân tộc Việt Nam, văn hóa Việt Nam. (xem ảnh 10) Đền thờ quốc tổ Lạc Long Quân Nhằm quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh thời đại các Vua Hùng và tưởng nhớ công ơn các bậc thủy tổ đã có công khai thiên lập quốc, đền thờ cha Lạc Long Quân là một thiết chế văn hóa mới nằm trong quần thể Di tích lịch sử đền Hùng được khởi công xây dựng ngày 26 tháng 3 năm 2007 tại đồi Sim, xã Chu Hóa, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ và khánh thành vào ngày 29 tháng 3 năm 2009 đúng vào dịp lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm Kỷ Sửu. Kiến trúc đền Lạc Long Quân bao gồm: Đền chính, cổng, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, tả vu, hữu vu, lầu hóa vàng, các công trình phụ trợ và hạ tầng kỹ thuật với tổng diện tích đất là 13,79 ha. (xem ảnh 8) Như vậy, có thể thấy rằng xã Hy Cương rất giàu những giá trị văn hóa bao gồm cả giá trị văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Đền Hùng là di tích lịch sử văn hóa đặc biệt của Quốc gia- nơi thờ tự Tổ tiên của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiểu kết chương 1 Có thể thấy rằng, Phú Thọ là cái nôi của nền văn hóa dân tộc và là vùng đất định cư cổ của nước ta, là mảnh đất kết tinh nhiều giá trị văn hóa của cả nước từ thời xa xưa. Chính thời đại Hùng Vương với những giá trị lịch sử và văn hóa đã tạo nên Đền Hùng ở chính trung tâm lịch sử của các Vua Hùng, thành quả đó còn được lưu giữ cho con cháu đền ngày nay. Đó là hệ thống các di tích trong khu di tích lịch sử Đền Hùng. Các Vua Hùng đã xây dựng lên một nền văn hóa phong phú, rực rỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Nền văn hóa đó dù trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, bị tàn phá, lấy đi và mai một nhiều nhưng mảnh đất ấy vẫn giữ được đủ sức chứng minh cho một nền văn hóa vật thể luôn tỏa sáng. CHƯƠNG 2: ĐỀN HÙNG TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI DÂN XÃ HY CƯƠNG – VIỆT TRÌ- PHÚ THỌ Khái quát chung đời sống kinh tế của người dân xã Hy Cương. Hy Cương là một xã miền núi, 80% diện tích là đất đồi gò. Nơi đây có hai hồ lớn là hồ Lạc Long Quân và hồ Gò Cong cung cấp nước tưới cho đồng ruộng và cũng là điểm du lịch hấp dẫn. Cư dân ở Hy Cương nghề nghiệp thuần nông, trên đồi trồng sắn, sơn, sở, dọc, cọ và một ít chè, dưới thì ruộng cấy lúa, trồng ngô, rau các loại... Nghề làm ruộng phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Theo thống kê của Ủy ban nhân dân xã Hy Cương thì trên địa bàn của xã có 1778 số nhà ở của hộ dân cư. Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 702,98 ha, trong đó đất nông, lâm nghiệp, thủy sản là 314,05 ha. Đất lâm nghiệp là 186,73 ha. Đất phi nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản là 197,20 ha. Số lượng trang trại của xã là có 3 trang trại. Về cơ cấu số hộ làm kinh tế: theo thống kê của xã Hy Cương thì trên địa bàn xã có 890 hộ làm nông nghiệp trong đó có 2920 lao động. Hộ phi nông nghiệp là 228 hộ, trong đó có 367 lao động. (trong đó tiểu thủ công nghiệp là 45 khẩu, vận tải là 29 khẩu, dịch vụ là 234 khẩu, các ngành khác là 50 khẩu). (năm 2009). Như vậy có thể thấy rằng đa số người dân xã Hy Cương làm nông nghiệp (chiếm khoảng 80%). Chỉ có 20% là phi nông nghiệp. Trong số thành phần phi nông nghiệp thì dịch vụ chiếm 147 hộ trong tổng số 228 hộ (chiếm 64%). Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: Về trồng trọt: Năm 2009 diện tích cây lúa thực hiện cả năm là 169ha. Năm 2008 đạt 177ha, giảm 8 ha. Diện tích cây ngô: 45ha Diện tích cây lạc: 2ha Diện tích đậu đỗ các loại: 8ha Diện tích Dưa chuột: 10ha Diện tích cây mía: 3ha Diện tích rau các loại: 25ha Diện tích hoài sơn: 7ha Diện tích cây chè: 8ha Có thể thấy rằng trong cơ cấu cây trồng của xã thì cây lúa chiếm diện tích nhiều nhất (61%). Về chăn nuôi: Đàn trâu có 63 con (năm 2008 là 63 con), đàn bò có 700 con (năm 2008 là 734 con), đàn lợn 2550 con (năm 2008 là 1982 con), gia cầm có 65000 con. Nuôi thả cá kết hợp đắp giữ nước 15,6ha. ( Theo số liệu ở Ủy ban nhân dân xã Hy Cương năm 2009) Như vậy tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm ở xã cũng tương đối phát triển với số lượng đàn lớn. Nhìn chung kinh tế của xã Hy Cương phát triển tương đối ổn định. Hy Cương là một xã thuần nông với 80% số hộ làm nông nghiệp. Năm 2009 diện tích, sản lượng, số lượng gia súc, gia cầm có chiều hướng giảm so với năm 2008. Bình quân lương thực đạt 200kg/người. Năm 2008 đạt 220kg/ người, giảm 20kg/người. Tuy nhiên tổng thu nhập trong xã đạt 24.003.700.000 đồng, so với năm 2008 đạt 22.698.000.000 đồng, tăng 1.305.700.000đồng. Bình quân thu nhập đạt 5.300.000 đồng/ người, so với năm 2008 đạt 5.200.000 đồng/ người, tăng 100.000 đồng/ người Các sơ sở dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp cũng ngày càng được chú trọng phát triển. Diện tích và sản lượng nông nghiệp giảm tuy nhiên tổng thu nhập trong xã lại tăng cao hơn năm trước. Điều đó chứng tỏ cơ cấu kinh tế của xã có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang các hình thức sản xuất khác như dịch vụ, thủ công nghiệp… Xã đã tăng cường chỉ đạo tập trung phát triển dịch vụ phục vụ lễ hội, làm tăng thu nhập, do đó đời sống của nhân dân phát triển ổn định, phát triển khá. Xã Hy Cương có nhiều tiềm năng để phát triển một nền kinh tế toàn diện, đẩy mạnh phát triển ngành dịch vụ. Bởi trên địa bàn của xã có nhiều di tích về văn hóa thu hút đông đảo số lượng khách mỗi năm: khu di tích lịch sử Đền Hùng, chùa Am Đường… Đó sẽ là tiền đề để phát triển kinh tế cho xã, nâng cao đời sống cho người dân. Các ngành dịch vụ phát triển, với sự quy hoạch hợp lí sẽ mang đến một hình ảnh mới cho khu di tích lịch sử Đền Hùng. Thu hút được đông đảo nhân dân từ khắp mọi miền tổ quốc về thăm Đền Hùng. Để Đền Hùng cũng như Hy Cương xứng đáng là vùng đất Tổ, nơi đã ghi dấu về một thời đại hào hùng của dân tộc với những công lao mà các Vua Hùng đã gây dựng lên. 2.2 . Khảo sát bộ phận dân Hy Cương làm dịch vụ quanh Đền Hùng Đền Hùng có ý nghĩa to lớn về mặt tâm linh, vì vậy mà hàng năm đã thu hút đông đảo nhân dân từ khắp mọi miền tổ quốc và cả khách nước ngoài về thăm. Từ đó nảy sinh ra một bộ phận người dân trong xã làm nghề buôn bán trên Đền Hùng. Những người này buôn bán đa dạng các mặt hàng như đồ lưu niệm cho khách khi về thăm đất tổ, bán các đặc sản địa phương, hay bán đồ ăn phục vụ khách tới tham quan… 2.2.1 Những người bán hàng quanh Đền Hùng Trước kia đời sống của người dân Hy Cương khi Đền Hùng còn chưa phát triển nhìn chung còn gặp rất nhiều khó khăn. Bởi Hy cương là một vùng đất đồi gò (chiếm 80% diện tích đất tự nhiên của xã). Đất đai chủ yếu là đồi gò nên không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Hệ thống nước tưới tiêu cho cây trồng không được đảm bảo. Trong xã cũng có hợp một số nghề truyền thống như năm 1979 có hợp tác xã sơn mài. Nhưng sau hợp tác xã này cũng giải tán. Sau này còn một số nghề như làm mây tre đan. Nhưng nói chung những nghề này thu nhập cũng không cao vì sản xuất còn mang tính nhỏ lẻ. Vì vậy tình hình kinh tế của xã còn nghèo, kém phát triển. Đời sống nhân dân còn mang tính khép kín và ít biến động. Người dân xã Hy Cương trước đây thường làm nhà 5 gian cấp bốn. Vật liệu để làm nhà thường là những vật liệu có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, lợp bằng lá cọ hoặc bằng ngói. Hầu hết người dân trong Hy Cương đều thuần nông. Thu nhập từ nông nghiệp còn thấp. Sau này, khi khu di tích lịch sử Đền Hùng được đầu tư phát triển thì đời sống của người dân cũng dần được cải thiện. Nhiều hàng quán mọc lên, nhiều dịch vụ quanh Đền Hùng được thiết lập. Người dân đã phát triển nhiều ngành nghề, nhiều dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách khi về thăm Đền Hùng như các dịch vụ bán hàng, chụp ảnh, dịch vụ xe điện… Theo số liệu thống kê của Xã Hy Cương năm 2009 thì có khoảng 33 hàng quán cố định tại khu di tích lịch sử Đền Hùng. Đây là những hàng quán sẽ bán quanh năm tại khu di tích lịch sử Đền Hùng. Có khoảng 50 hàng quán tạm thời, tức là chỉ bán vào dịp lễ hội và những dịp tết bắt đầu từ khoảng những ngày 23/ 12 âm lịch cho đến hết lễ hội Đền Hùng. Những người bán hàng ở đây đều là người dân trong xã Hy Cương. (xem ảnh từ số 13 đến số 18) Qua khảo sát thực tế thì những người dân làm dịch vụ nhưng đa số họ vẫn làm nông nghiệp. Nhưng làm nông nghiệp chỉ đơn giản là cấy lúa để lấy lương thực chứ không trồng thêm các loại rau củ khác. Làm dịch vụ quanh Đền Hùng là thu nhập chính của họ. Điều đó cho thấy nếp sống nông nghiệp vẫn ăn sâu trong suy nghĩ của họ. Những người này, họ vừa là tiểu nông vừa là tiểu thương. Tư tưởng của cư dân nông nghiệp ảnh hưởng đến cách làm ăn của họ rất nhiều. Đó là cách làm ăn manh mún, nhỏ lẻ. Họ vẫn chưa thoát ly hẳn đời sống làm nông nghiệp nên bán hàng còn chưa có quy củ. Họ bán hàng theo kiểu không cần giữ uy tín. Vì vậy nên có tình trạng chặt chém khách du lịch rất nhiều. Ví dụ khi khách mua một chai nước trà xanh không độ giá bán bình thường là 7000 đồng nhưng ở các quầy hàng này bán 10000 đồng. Một hộp sữa tươi cô gái Hà Lan bình thường có giá 5000 đồng thì ở đây bán với giá 6000 đồng. Các mặt hàng đồ lưu niệm thì người bán hàng thường nói giá rất cao để khách trả giá. Nên rất nhiều người phải mua đắt. Ví dụ một chiếc vòng tay bằng nhựa có người mua 7000 đồng nhưng có người lại phải mua với giá 10000 đồng và còn nhiều mặt hàng khác cũng bị nâng giá. Nhiều đồ ăn hay thức uống còn không hợp vệ sinh như nước mía... Đó là cách làm ăn còn thiếu tính chuyên nghiệp. Điều đó có thể lý giải là do người dân không được học, đào tạo qua trường lớp. Họ vốn chỉ là những người nông dân quen với việc làm nông nghiệp. Công việc buôn bán của họ mang tính tự phát. Khu di tích Đền Hùng phát triển, họ nhận thấy nhu cầu của khách du lịch cần những gì nên họ đăng kí làm dịch vụ. Ban quản lý chỉ quản lý họ về địa điểm, còn những vấn đề khác thì không thể quản lý được. Ví dụ như vấn đề về vệ sinh hay vấn đề về tình trạng chặt chém khách… Quy mô hàng quán của người dân còn nhỏ. Bên cạnh đó thì có những cửa hàng to của các đại lý. Những cửa hàng này có tính chuyên nghiệp hơn rất nhiều. Ví dụ công ty chè Hà Trang có quầy hàng bán sản phẩm. Nhân viên mặc đồng phục, Có thể phục vụ hàng với số lượng lớn, giao hàng tận nơi. Có điện thoại, địa chỉ rõ ràng. Điều đó thể tính chuyên nghiệp trong công tác làm dịch vụ. Cách làm ăn như vậy, họ phải chú trọng đến chất lượng phục vụ nên thường phải giữ uy tín. Ngoài chất lượng sản phẩm thì các hình thức tiếp thị cũng được nâng cao. Không có tình trạng khách hàng bị chặt chém. Đây là một cách làm ăn thể hiện tính lâu dài, không vị lợi nhuận trước mắt mà làm mất đi hình ảnh của công ty. Sự trung thực trong bán hàng sẽ tạo ấn tượng tốt cho khách du lịch khi có dịp lên Đền Hùng. Tạo nét đẹp trong văn hóa bán hàng nơi vùng đất Tổ. Con số thống kê những người làm dịch vụ dưới sự quản lý của Ban quản lý khu di tích Đền Hùng là những con số cụ thể. Bên cạnh đó còn phát sinh thêm một số lượng lớn những người bán hàng ở Đền Hùng trong mùa lễ hội mà Ban quản lý không quản lý được. Trong những ngày lễ hội, lượng khách là quá đông nên người dân tranh thủ bán hàng để tăng thêm thu nhập. chúng ta thường thấy những có hiện tượng những người cầm khoảng chục nén hương, những túi đồ lưu niệm hay những bó tiền lẻ đi mời chào khách. Đối tượng gồm đủ các lứa tuổi: người già, người trung tuổi, trẻ em. Điều đó chứng tỏ sự huy động mọi thành viên trong mỗi gia đình để đi làm kinh tế. Đền Hùng đã mang lại những nguồn thu nhập mới cho người dân Hy Cương. Tuy nhiên, có thể thấy rằng cách làm ăn của người dân còn manh mún và không mang tính chuyên nghiệp. (xem ảnh 20) Những người bán hàng ở đây bày bán dọc hai bên phía dưới cổng Đền Hùng, phía sân đền Mẫu Âu Cơ, sân đền Giếng và khu vực xung quanh, trên đường hành hương lên các đền Trung, đền Thượng, đền Hạ, đền Giếng. Các mặt hàng được bày bán rất đa dạng bao gồm các mặt hàng như các loại bánh kẹo đặc sản: bánh củ mài, bánh cốm, bánh Cổ Tích, thịt chua, chuối đồi đất Tổ, bánh nhãn, chè lam, bánh sữa… Khách du lịch về với Đền Hùng sẽ được thưởng thức những đặc sản đặc trưng của vùng đất Tổ (bánh củ mài Cổ Tích, chuối khô, bánh củ mài mật ong, thịt chua Thanh Sơn, nhiều loại củ như củ mài, củ từ, củ sắn dây, các loại măng ớt). Ngoài ra còn có các mặt hàng phục vụ cho việc lễ bái như tiền vàng, hương,… Các đồ lưu niệm cũng không thể thiếu ở nơi đây. Đó là các loại vòng đeo cổ, đeo tay, mũ, hay quần áo có in những dòng chữ kỷ niệm Đền Hùng... Mỗi sản phẩm đều mang nét đặc trưng của vùng đất Tổ. Du khách khi về thăm đất tổ đều ít nhiều mua những đồ lưu niệm về làm quà đơn giản như những chiếc vòng tay, sáo, … Ngoài ra còn bán các đồ uống: Cocacola, trà bí đao, nước me, nước cam, … Sự đa dạng của các mặt hàng làm phong phú cho các hàng quán. Đáp ứng được nhu cầu khách khi đến Đền Hùng. Như vậy , có thể thấy rằng nhờ có Đền Hùng mà đời sống người dân ở Hy Cương có sự thay đổi đáng kể. Thu nhập kinh tế cũng được tăng lên nhờ có các dịch vụ. Bình quân thu nhập của những người bán hàng là 1.700.000 đồng/người/năm. Với những người bán hàng này thì đây là thu nhập chính của họ. Với số thu nhập này ở quê có thể coi là tương đối cao. Người dân có thể chăm lo cho cuộc sống của mình tốt hơn. Trong khi đó người dân vẫn cấy lúa để đảm bảo lương thực quanh năm. Tuy nhiên, bộ phận những người có thu nhập ổn định như vậy chiếm tỉ lệ không nhiều. Sự chuyển biến trong kinh tế đó đã làm thay đổi diện mạo của người dân Hy Cương. Nhiều ngôi nhà cao tầng được mọc lên. Xóm làng trước kia thưa thớt thì nay trở nên đông đúc hơn. Mọi sinh hoạt của người dân đều được nâng lên. Ví dụ trong gia đình Ông Triệu văn Liên, trước đây trong gia đình ông là làm nông nghiệp. Cuộc sống chỉ phụ thuộc vào 5 sào ruộng mà không có thu nhập nào thêm. Vì vậy cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, nhà ông vẫn là nhà cấp 4 đã xuống cấp. Hai vợ chồng ông làm ruộng nuôi hai đứa con đi học. Nhưng đến nay cuộc sống gia đình ông được cải thiện đáng kể. Từ khi khu di tích Đền Hùng được phát triển vợ ông đăng kí bán hàng ở trên Đền Hùng. Thu nhập từ việc bán hàng của vợ ông hàng ngày cùng với những sản phẩm nông nghiệp mà nhà ông vẫn duy trì thì cuộc sống trong gia đình có phần ổn định hơn. Hiện nay một đứa con gái của ông đã lấy chồng, còn một cậu con trai thì đang đi xuất khẩu lao động bên Đài Loan. Gia đình ông đã xây được ngôi nhà 2 tầng khang trang rộng rãi. Đó cũng là một ví dụ điển hình cho sự thay đổi cuộc sống từ khi di tích Đền Hùng được đầu tư phát triển. 2.2.2 Những người làm nghề chụp ảnh quanh Đền Hùng Bên cạnh đội ngũ những người bán hàng quanh khu di tích lịch sử Đền Hùng thì còn đội ngũ những thợ ảnh. Hiện có khoảng 124 thợ ảnh làm việc tại đây dưới sự quản lí của Ban quản lý khu di tích lịch sử Đền Hùng (năm2009). Con số này là tương đối nhiều. Đội ngũ này góp phần đáp ứng nhu cầu của người dân khi về Đền Hùng muốn ghi lại những kỷ niệm tại chốn linh thiêng này. Đội ngũ thợ ảnh vào mùa lễ hội cũng tăng lên rất nhiều. Không chỉ người dân ở xã mà còn những người ở những nơi khác về. Thu nhập bình quân của những người thợ ảnh này là 1600.000 đồng /người/năm. Đây cũng là thu nhập chính trong gia đình họ. Cũng giống như những người bán hàng cuộc sống của họ được cải thiện đáng kể. Trong gia đình của họ, có gia đình thì chồng làm nghề chụp ảnh trên Đền Hùng, vợ làm nông nghiệp. Có gia đình chồng làm nghề chụp ảnh, vợ bán hoa quả ở chợ. Cuộc sống của họ cũng khá giả. Trong dịp lễ hội là lúc cao điểm của họ, bởi lượng khách về Đền Hùng là rất đông. Tuy nhiên, Đền Hùng không chỉ thu hút khách vào dịp lễ hội mà hiện nay vào những dịp cuối tuần hay những dịp quan trọng cũng thu hút khách đến. Điều đó tạo ra việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định cho những người làm dịch vụ quanh Đền Hùng. Bên cạnh những dịch vụ trên thì Đền Hùng còn đem lại cho người dân quanh đây một số những dịch vụ khác kèm theo. Vào những ngày hội, lượng khách về Đền Hùng là rất lớn. Trong khi đó nhiều người muốn ở lại trong mấy ngày hội để thưởng thức các trò chơi, các nghi thức trong ngày giỗ Tổ. Vì thế những nhà nghỉ, nhà trọ được mọc lên rất nhiều để phục vụ khách. Nhiều gia đình cho khách vào trọ qua đêm hoặc cả ngày. Người dân cho thuê với giá từ 20- 50 nghìn đồng/ ngày, tùy thuộc vào mức độ tiện nghi của từng gia đình. Có những gia đình ở gần Đền Hùng thì chuyên cho thuê trọ, nhưng có những gia đình ở xa hơn một chút thì chỉ cho thuê trọ vào những ngày lễ hội. Những ngày lễ hội lượng khách dồn về đây là rất đông, dẫn đến tình trạng “cháy” các khách sạn và nhà nghỉ. Vì vậy đây là cơ hội cho những người dân quanh Đền Hùng làm dịch vụ này. Người dân cho thuê trọ với giá tương đối hợp lí, phù hợp với nhiều đối tượng. Có những gia đình trong mùa lễ hội cho thuê từ 3 đến 7 người. Nhiều gia đình, khách đặt luôn chỗ nghỉ cho năm sau. Đó thường là những thợ ảnh hay nhà báo từ nơi khác đến để lấy tin hoặc chụp ảnh… Đây cũng là nguồn thu lớn đối với người dân quanh khu vực Đền Hùng. Ngoài ra, có dịch vụ khác như xe ôm. Các di tích ở Đền Hùng không nằm gọn trên một khu nên việc đi lại có phần không thuận tiện. Ví dụ như từ cổng Đền chính ra đền Mẫu Âu Cơ cách khoảng gần 2km. Từ cổng đền chính ra Đền Lạc Long Quân cũng cách khoảng hơn 2km. Vì vậy nên có nhiều khách chọn giải pháp là đi xe điện của ban quản lý hoặc thuê xe ôm. Do đó nhiều người dân chuyển sang làm dịch vụ xe ôm. Như vậy có thể thấy rằng Đền Hùng đã kéo theo nhiều dịch vụ xung quanh phát triển. Người dân Hy Cương có thể chuyển sang nhiều hình thức dịch vụ khác nhau như : bán hàng, cho thuê trọ, thợ ảnh, xe ôm… Tất cả những loại hình dịch vụ đó nhằm đáp ứng đầy đủ và tốt nhất nhu cầu của du khách khi về thăm Đền Hùng. Thông qua những dịch vụ đó du khách ở khắp mọi miền của tổ quốc sẽ được biết đến và thưởng thức những hương vị mà chỉ có vùng đất Tổ mới có. Tạo thêm nét độc đáo và hấp dẫn cho vùng đất Tổ. Khảo sát bộ phận dân Hy Cương làm trong Ban quản lý Đền Hùng Hiện nay tại khu di tích lịch sử Đền Hùng có đội ngũ cán bộ đông đảo nhằm phục vụ nhân dân cả nước mỗi khi về thăm Đền Hùng. Khu di tích lịch sử Đền Hùng có 7 phòng ban: Trung tâm du lịch dịch vụ Phòng quản lý du lịch dịch vụ Phòng quản lý rừng Phòng tổ chức hành chính Phòng kế hoạch tài vụ Phòng bảo vệ an ninh trật tự Phòng bảo tàng di tích Tất cả những phòng ban đó gồm khoảng gần 300 người làm công tác phục vụ lễ hội. Mỗi phòng đều có chức năng riêng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của du khách khi về thăm Đền Hùng. Ví dụ phòng bảo vệ an ninh trật tự sẽ làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự cho Đền Hùng. Mỗi dịp lễ hội đến thì nhiệm vụ đó lại càng được tăng cường. Bởi với số lượng khách quá đông gây ra tình trạng nhốn nháo, nhiều tệ nạn. Nếu không được quản lý sẽ gây ra tình trạng lộn xộn, bừa bãi mất đi nét văn hóa của lễ hội cổ truyền. Trung tâm du lịch dịch vụ, trong đó sẽ có những người làm công tác hướng dẫn du lịch. Trung tâm có đội ngũ cán bộ hướng dẫn viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm. Những người này sẽ hướng dẫn cho khách biết những thông tin về các di tích, các sự tích trên Đền Hùng, giúp khách du lịch hiểu thêm về lịch sử thời đại các Vua Hùng, về cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Phòng quản lý dịch vụ sẽ làm công tác quản lý những loại hình dịch vụ, kinh doanh buôn bán ở khu vực Đền Hùng như quản lý những người bán hàng, thợ ảnh, xe điện… Với số lượng phòng ban như vậy đủ cho thấy quy mô của khu di tích là tương đối lớn. Tất cả các phòng ban này sẽ duy trì hoạt động cho khu di tích Đền Hùng. Trong tương lai Đền Hùng sẽ ngày càng được quan tâm hơn nữa thì số lượng người làm công tác phục vụ cũng sẽ tăng theo. Hy Cương là xã có khu di tích Đền Hùng, hàng năm lại được giao cho nhiệm vụ trông nom khu di tích. Như vậy Đền Hùng phát triển sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người dân Hy Cương. Ở 4 đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, đền Giếng sẽ có 4 ông Từ trông nom đền. Bốn ông Từ này được các làng mà xưa xây dựng lên các đền cử ra rồi thi. Ai được điểm cao sẽ được làm ông Từ. Năm nào cũng tổ chức thi một lần. Còn hai đền Âu Cơ và Lạc Long Quân do nhà nước xây dựng nên ông từ sẽ được cử ra từ những cán bộ đã nghỉ hưu ở cơ quan Khu di tích Đền Hùng còn có dịch vụ xe điện để trở khách đi tham quan các di tích. Hiện nay có 8 xe điện, mỗi xe có thể trở được 12 khách để phục vụ khách đi tham quan. Xe điện xẽ xuất phát từ bến xe trở khách đi vòng tròn các di tích từ đền Giếng đến cổng đền chính, đến đền Mẫu Âu Cơ, đền Lạc Long Quân, và quay lại bến xe trả khách. Loại hình dịch vụ này sẽ giúp khách du lịch đỡ vất vả trong việc đi lại. Vì khoảng cách giữa các đền khá xa. Loại hình này xuất hiện sẽ tạo ra tính chuyên nghiệp, văn minh trong công tác dịch vụ phục vụ khách du lịch. (xem ảnh 19) Nằm trong trung tâm dịch vụ du lịch còn có đội ngũ những người bán hàng trong các quầy hàng của trung tâm. Mỗi di tích đều có những quầy hàng bán các đồ như: Đồ lưu niệm, các loại sách viết về Đền Hùng, Các loại bánh kẹo đặc sản của vùng đất Tổ như bánh của mài Cổ Tích, chuối khô đất Tổ, bánh cốm… Những quầy hàng này có rất nhiều sản phẩm cho khách lựa chọn, bán đúng giá quy định của Ban quản lý. Do vậy ở các trung tâm này khách sẽ không sợ tình trạng bị chặt chém . Ở mỗi di tích đều có quầy hàng bán, ví dụ như ở đền Lạc Long Quân, Đền Mẫu Âu Cơ, đền Thượng… Các quầy hàng này nhằm cung cấp cho khách những sản phẩm đặc trưng của đất Tổ một cách phổ biến. Bên cạnh đó còn có hệ thống các dịch vụ ăn uống. Trung tâm dịch vụ du lịch Đền Hùng đã xây dựng một số nhà hàng ăn uống, giải khát có thể phục vụ tới 1000 khách vào cùng một thời điểm. Các nhà hàng đều khang trang, sạch đẹp, các món ăn hấp dẫn đảm bảo vệ sinh. Đây là điểm đến hấp dẫn với nhiều du khách khi tới Đền Hùng. Như vậy khu di tích lịch sử Đền Hùng có khoảng trên 500 người trực tiếp phục vụ, từ những người bán hàng, thợ ảnh đến những cán bộ làm công tác quản lý. Với sự đa dạng các hoạt động dịch vụ sẽ tạo ra cho Hy Cương phát triển nhiều lĩnh vực trong dịch vụ, tăng thu nhập và đáp ứng nhu cầu của một trung tâm du lịch.Trong số này thì có khoảng 70 % cán bộ là người xã Hy Cương. Điều đó chứng tỏ Đền Hùng đã có ảnh hưởng nhất định đến người dân Hy Cương. Nhờ có Khu di tích này mà một bộ phận dân cư trong xã Hy Cương đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang làm dịch vụ. Loại hình dịch vụ này góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của xã từ một xã thuần nông sang phát triển kinh tế toàn diện. Trong tương lai Đền Hùng sẽ ngày càng được đầu tư hơn nữa để phát triển. Bởi đây là vùng đất Tổ- nơi thờ tổ tiên của dân tộc. Thấm nhuần đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đồng bào khắp mọi miền tổ quốc luôn hướng về nguồn cội. Đền Hùng càng được quan tâm đâu tư thì người dân Hy Cương càng có cơ hội để phát triển. Là một vùng đất chứa đựng những yếu tố văn hóa đó nên tất yếu Hy Cương sẽ có những biện pháp cụ thể để thúc đẩy kinh tế đi lên. Chú trọng phát triển loại hình dịch vụ sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt của xã đi lên về mọi mặt, đồng thời nâng cao thu nhập cho người dân. Tiểu kết chương 2 Lễ hội Đền Hùng ngày càng thu hút được sự quan tâm đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước. Sự phát triển của khu di tích Đền Hùng đã làm thay đổi diện mạo kinh tế của người dân trong xã Hy Cương. Có nhiều hộ gia đình đã chuyển ra làm dịch vụ buôn bán quanh Đền Hùng và thu nhập của bộ phận dân cư này chủ yếu phụ thuộc vào đó. Sự phát triển của Đền Hùng còn là điều kiện để tạo ra nhiều việc làm cho người dân Hy Cương với nhiều loại hình dịch vụ. Đồng thời phát triển đa dạng các ngành nghề khác như làm các loại bánh, kẹo đặc sản vùng đất Tổ… Đây là sự chuyển biến tất yếu, khi trên địa bàn xã có những di tích lịch sử văn hóa lớn thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều người. CHƯƠNG 3: ĐỀN HÙNG TRONG ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI DÂN XÃ HY CƯƠNG – VIỆT TRÌ- PHÚ THỌ Các di tích xã Hy Cương Xã Hy Cương là vùng đất thấm đẫm những truyền thuyết cũng như những di tích mà từ xa xưa cha ông ta đã tạo lên. Mỗi di tích đều chứa đựng trong đó những giá trị tâm linh thiêng liêng của dân tộc. 3.1.1 Đình Cổ Tích (Đình Hy Cương) Đình Cổ Tích hay còn gọi là đình Cả. Đình Cổ Tích là lấy tên nôm của làng vì có một thời tên làng là thôn Cổ Tích. Đình Cả bởi đây là tên gọi đình lớn nhất trong xã. Tên thường gọi trong nhân dân là đình Hy Cương thuộc xã Hy Cương – Việt Trì – Phú Thọ. Đình Hy Cương nằm trên gò cao, gọi là gò làng Cả. Đình Hy Cương, theo truyền ngôn để lại được xây dựng từ lâu. Hiện đình không có bia ký, ngọc phả (tư liệu nào) ghi lại chính xác năm xây dựng đình. Qua khảo cứu chỉ thấy trên 2 câu đầu gian giữa đình có ghi : “Mậu ngọ niên kinh thủy, xuân tam nguyệt, hợi nhật, nhâm thìn thượng lương”. Nghĩa là vào giờ nhâm thìn, ngày hợi, tháng 3 (mùa xuân) năm Mậu ngọ dựng câu đầu, thượng lương đình này. Song không rõ năm Mậu ngọ nào. Theo truyền ngôn thì đình này được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng, lí do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa_luan_tot_nghiep_linh_0953.doc