MỤC LỤC.
TRANG
LỜI NÓI ĐẦU. 1
Chương I. Sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách thuế của Việt
nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.3
1. Vai trò của thuế đối với nền kinh tế Việt nam. .3
1.1. Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.3
1.2. Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế
trong nền kinh tế quốc dân.5
1.3. Thuế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
trong phân phối thu nhập.7
2. Sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách thuế trong quá trình hội nhập .9
2.1 Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế. .10
2.2. Đáp ứng yêu cầu của các tổ chức quốc tế.11
Chương II. Chính sách thuế của Việt nam hiện nay và những điểm
chưa phù hợp với yêu cầu của các tổ chức quốc tế.25
1. Thực trạng một số cải cách trong chính sách thuế của Việt nam
kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế.25
1.1. Một số cải cách, điều chỉnh trong chính sách thuế xuất nhập khẩu.26
1.2. Một số cải cách, điều chỉnh trong các chính sách thuế khác.39
2. Những điểm chưa phù hợp trong chính sách thuế hiện nay của
Việt nam so với các qui định của các tổ chức quốc tế.48
2.1 Những điểm chưa phù hợp trong chính sách thuế xuất nhập khẩu.49
2.2. Những điểm chưa phù hợp trong các chính sách thuế khác.56
Chương III. Định hướng các biện pháp điều chỉnh chính sách thuế
của Việt nam trong quá trình hội nhập. .66
1. Kinh nghiệm của các nước khác trong quá trình tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế.66
1.1. Trung quốc.66
1.2 Thái lan.71
1.3 Indonesia.71
1.4 Mỹ .74
2. Định hướng điều chỉnh chính sách thuế trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực.81
2.1. Quan điểm cần quán triệt trong việc điều chỉnh hệ thống chính
sách thuế trong quá trình hội nhập kinh tế.81
2.2. Định hướng điều chỉnh hệ thống thuế.89
KẾT LUẬN.105
PHỤ LỤC.107
TÀI LIỆU THAM KHẢO.109
111 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2062 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Điều chỉnh chính sách thuế của Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
/tháng lên 8 triệu đồng/tháng và điều chỉnh các mức chịu thuế trong các bậc thuế.
2. Những điểm chưa phù hợp trong chính sách thuế hiện nay của Việt nam so với các qui định của các tổ chức quốc tế.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống thuế nước ta, đặc biệt là một số sắc thuế quan trọng có ảnh hưởng nhiều mặt trong đời sống kinh tế- xã hội đã từng bước được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế, hệ thống thuế nước ta còn nhiều điểm bất hợp lý cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thông lệ quốc tế và những cam kết với các tổ chức kinh tế thương mại thế giới và khu vực mà Việt nam đã và sẽ tham gia.
2.1 Những điểm chưa phù hợp trong chính sách thuế xuất nhập khẩu.
- Biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt nam có xu hướng khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu nhưng chưa thực sự thúc đẩy xuất khẩu. Chúng ta đều biết rằng tất cả các ngành sản xuất trong nước kể cả những ngành mà Việt nam không có lợi thế so sánh đều được bảo hộ cả đầu ra lẫn đầu vào. Cụ thể: hầu hết các mặt hàng mà trong nước đã sản xuất được đều được điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu mà chưa hề tính đến điều kiện về thời hạn bảo hộ, sản xuất với số lượng càng nhiều thì được bảo hộ ở mức thuế càng cao, những mặt hàng là vật tư nguyên liệu và máy móc thiết bị mà trong nước chưa sản xuất được thì để ở mức thuế suất thấp hoặc bằng 0%. Do đó, nguồn vốn đầu tư được tập trung nhiều vào những ngành mà sản xuất ra các sản phẩm có mức thuế bảo hộ có hướng vào sản xuất thay thế hàng nhập khẩu chứ không nhằm vào xuất khẩu. Hơn nữa, với chính sách bảo hộ tràn lan và thiếu chọn lọc như trên đã tạo ra sự “ỷ lại” của các doanh nghiệp, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường quốc tế.Ví dụ sau đây thể hiện rất rõ điều này:
Ngành sản xuất ôtô là ngành được bảo hộ ở mức rất cao. Cụ thể: với ôtô dưới 05 chỗ ngồi thì năm 1992 quy định mức thuế nhập khẩu là 100%, năm 1993 tăng lên 150%, năm 1994 tăng lên 200%. Đến năm 1996 thì đã được quy định ở mức thuế nhập khẩu 60% và thu thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức 100% (nếu đổi ra thuế nhập khẩu thì mức thuế thu vào mặt hàng này là 210% giá CIF). Bên cạnh đó, Nhà nước còn áp dụng biện pháp phi quan thuế: tạm ngừng nhập khẩu. Còn lại thuế nhập khẩu bộ linh kiện rời để lắp ráp ôtô lại được quy định ở mức rất thấp so với thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc( 3%-45%). Chính vì vậy, nên đã có tới 14 liên doanh đầu tư vào lĩnh vực lắp ráp ôtô ở Việt nam với tổng số vốn đầu tư là 824 triệu USD. Song do thị trường tiêu thụ ôtô ở Việt nam còn quá nhỏ bé (vì thu nhập thấp, hệ thống giao thông yếu kém...) nên các liên doanh nhanh chóng lâm vào tình trạng sản xuất cầm chừng, thua lỗ kéo dài. Mặc dù đã được bảo hộ ở mức độ cao, song do lượng ôtô tiêu thụ thấp cho nên các liên doanh mới chỉ dừng lại ở côgn đoạn lắp ráp, không đầu tư vào sản xuất phụ tùng tại Việt nam. Vì vậy, mặc dù đã có tới 14 liên doanh lắp ráp ôtô nhưng trên thực tế Việt nam chưa có ngành sản xuất ôtô theo đúng nghĩa của nó. (Nguồn: Luận văn tốt nghiệp - Sinh viên Tạ Hoàng Nam - K36 - 02 - Học viện Tài chính 2002. Đề tài: Những mặt còn tồn tại của chính sách thuế XNK của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế).
- Cơ cấu trong Biểu thuế nhập khẩu khá phức tạp so với các nước trong khu vực.
+ Biểu thuế nhập khẩu của chúng ta từ khi ban hành và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn khá phức tạp, có nhiều mức thuế khác nhau.
Cơ cấu thuế suất của Biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm có 12 mức dàn trải từ 0-60%. Trong đó, có ngành bao gồm từ 4-7 mức thuế suất khác nhau. Việc quy định quá chi tiết này làm cho Biểu thuế phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý thuế và đặc biệt làm cho Biểu thuế mất tính trung lập từ đó tạo ra sức ỳ của các doanh nghiệp trong cải tiến công nghệ và đâù tư thiết bị mới, không phù hợp với chủ trương công gnhiệp hoá nền kinh tế trong quá trình hội nhập. (Nguồn: Luận văn tốt nghiệp - Sinh viên Tạ Hoàng Nam - K36 - 02 - Học viện Tài chính 2002. Đề tài: Những mặt còn tồn tại của chính sách thuế XNK của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế).
+ Hơn nữa, biểu thuế nhập khẩu hiện nay có sự thường xuyên thay đổi thuế suất. (Ví dụ: Biểu thuế nhập khẩu trong Luật thuế xuất nhập khẩu có hiệu lực thi hành từ 01/01/1992 gồm 36 mức thuế, thấp nhất là 0% cao nhất là 200%. Nhưng từ đầu năm 1996, số lượng mức thuế suất của Biểu thuế nhập khẩu đã giảm đi còn 28 mức thuế, với mức thuế từ 0%-60%). Tuy tỏ ra phù hợp với những yêu cầu trước mắt của giai đoạn hội nhập nhưng lại phản ánh chính sách thuế của Việt nam mang tính đối phó ngắn hạn. Điều này gây khó khăn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh cũng như các nhà đầu tư trong việc xác định chủ trương và chiến lược kinh doanh lâu dài cũng như cho công tác quản lý thuế.
+ Danh mục Biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành chưa hoàn toàn tuân theo quy cách phân loại của danh mục HS.
Thông tư 510TC/ TCT ngày 31/8/1997 đã quy định “danh mục mặt hàng chịu thuế của Biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sở bảng danh mục xuất nhập khẩu của Hội đồng hợp tác Hải quan thế giới( HS) ...” Mặc dù danh mục Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu hiện hành đã được xây dựng dựa trên danh mục HS nhưng do chưa áp dụng đầy đủ nguyên tắc phân loại của danh mục này nên thời gian qua cũng còn có phát sinh một số vướng mắc, tranh chấp trong việc phân loại, tính và thu thuế xuất nhập khẩu. Cùng với sự phát triển của sản xuất và sự mở rộng quan hệ giao lưu hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, trong thời gian qua, có nhiều loại hàng hoá mới xuất hiện với những cấu tạo, đặc điểm, tính chất phức tạp nhưng do chưa được chi tiết tên cụ thể hoặc do chưa có những hướng dẫn kịp thời về cách kê khai hàng hoá, mã số áp dụng, mức thuế phải thu khi làm thủ tục hải quan nên việc thực hiện Biểu thuế nhập khẩu trong thời gian qua cũng đã phát sinh một số vướng mắc như: vẫn còn hiện tượng áp sai mức thuế hoặc áp không thống nhất đối với cùng một mặt hàng nhập khẩu, số lượng các vụ tranh chấp giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thu thuế tuy có giảm đi so với trước đây nhưng tính chất lại phức tạp hơn, đòi hỏi phải có những hướng dẫn cụ thể hơn nữa.
Ví dụ: Mặt hàng khoai tây tại Biểu thuế có phân làm hai loại:
Dùng để ăn: thuế suất là 20%.
Dùng làm giống: thuế suất là 0%.
Việc xác định loại nào để ăn, loại nào là để làm giống không có cơ sở, không có căn cứ. Điều này rất dễ bị lợi dụng bằng việc nhập khẩu thông qua các cơ quan chuyên ngành để được hưởng mức thuế thấp gây thất thu cho ngân sách Nhà nước vừa không thực hiện được mục tiêu của chính sách thuế nhập khẩu. Đây là nhân tố gây khó khăn cho Việt nam khi tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và thế giới như ASEAN, APEC, WTO vì đây là những tổ chức có yêu cầu rất nghiêm khắc về các quy định minh bạch rõ ràng trong chính sách thuế.
Tồn tại của việc thu thuế bổ sung.
Trong những năm gần đây, hoạt động ngoại thương của Việt nam phát triển mạnh mẽ. Thực tế, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta ghi nhận tình trạng hàng hoá bán phá giá vào Việt nam hoặc hàng hoá Việt nam nhập khẩu vào một số nước bị áp dụng phân biệt đối xử xuất hiện. Theo quy định của GATT, các nước có tình trạng như trên được phép áp dụng các khoản thuế chống phá giá đe doạ gây tổn hại vật chất cho sản xuất nội địa hoặc áp dụng khoản thuế trừng phạt lại. Quy định này tỏ ra phù hợp với thông lệ, luật pháp của nhiều nước và cũng được thể hiện trong các quy định của WTO.
Theo điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu vào nước ta sẽ chịu thuế nhập khẩu bổ sung nếu được bán phá giá, được trợ cấp của nước xuất khẩu hoặc có xuất xứ từ nước mà nước đó có sự phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hay có những biện pháp phân biệt đối xử khác đối với hàng hoá Việt nam. Nhưng cho đến nay, quy định này vẫn chưa được thực hiện trên thực tế, mặc dù đã xảy ra nhiều trường hợp hàng hoá nước ngoài được bán phá giá vào Việt nam.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong luật cũng như các văn bản quy phạm liên quan đến chính sách thuế xuất nhập khẩu không có một sự quy định nào cụ thể về cơ quan thực hiện thu thuế bổ sung.
- Tồn tại về giá tính thuế:
+ Đối với trường hợp áp giá tính thuế theo Bảng giá tối thiểu.
Có thể nói việc sử dụng Bảng giá tính thuế tối thiểu với tiêu thức lựa chọn là hàng trong nước đã sản xuất được, hàng có nguy cơ trốn thuế cao đã góp phần bảo hộ sản xuất trong nước, ổn định thị trường, chống gian lận thương mại, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, còn gặp rất nhiều vấn đề phức tạp riêng. Việc áp dụng Bảng giá tính thuế tối thiểu là chưa phù hợp với cam kết chung, làm giảm khả năng “mặc cả” của các nhà nhập khẩu Việt nam, không khuyến khích phát triển thương mại, gây ảnh hưởng đến quan hệ các nước. Trong quá trình thực hiện, do điều kiện thông tin không được cập nhật, giá trong Bảng giá tính thuế tối thiểu để xác định trị giá thuế nhập khẩu do Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan ban hành có nhiều sai lệch so với thực tế, nếu không muốn nói là tách rời giá thực tế quá xa. Thêm vào đó, giá tính thuế được ban hành quá chi tiết cho một nhóm mặt hàng, thường hàng năm mới có sự thay đổi, điều chỉnh nên không theo kịp với sự biến động thường xuyên của thị trường. Có những mặt hàng giá quy định trong Bảng giá thấp hơn giá thực tế 20- 30%, điều này khiến cho Bảng giá tối thiểu không còn ý nghĩa trong việc ngăn chặn trốn thuế qua giá. Trong khi đó, có mặt hàng trong Bảng giá lại cao gấp nhiều lần so với giá mua thực tế đã gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tính toán xây dựng phương án, lập kế hoạch kinh doanh. Bởi lẽ, nếu tính thuế trên cơ sở giá mua thực tế thì doanh nghiệp có thể có lãi nhưng nếu bị tính giá theo Bảng giá tối thiểu thì có thể sẽ bị lỗ. Hơn nữa, việc áp dụng hay không áp giá tối thiểu nhiều khi phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của cán bộ tính thuế. Từ đây, phát sinh tiêu cực là doanh nghiệp muón được thuận lợi thì phải “ biết điều” với đội ngũ này.
+ Đối với trường hợp áp giá tính thuế theo hợp đồng:
Đây là quy định phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với Hiệp định trị giá hải quan theo GATT mà Việt nam đang phải thực hiện. Tuy nhiên, thực tế quá trình thực hiện cũng cho thấy vấn còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục đối với trường hợp áp giá này.
Tồn tại về mặt chính sách, chế độ
Theo thông tư 172/1998/BTC ngày 22/12/1998 của Bộ Tài chính, trường hợp áp giá tính thuế theo hợp đồng thì giá tính thuế là giá mua tại cửa khẩu nhập, kể cả phí bảo hiểm, phí vận tải (giá CIF) nhưng lại chưa có hướng dẫn cụ thể đối với các yếu tố phí hoa hồng, phí container, phí đóng gói, phí bản quyền....sau khi chuyển hàng đến cảng nhập khẩu, lãi suất chậm trả..làm cho giá tính thuế theo hợp đồng không phản ánh đúng giá trị thực của hàng hoá, làm mất ý nghĩa của giá tính thuế theo hợp đồng, chưa hoàn toàn đúng với tinh thần của Hiệp định trị giá GATT.
Tồn tại về phía các đơn vị kinh doanh hàng nhập khẩu.
Quy định về việc áp dụng giá tính thuế theo hợp đồng trong thời gian qua đã bị các đơn vị này triệt để lợi dụng. Họ thoả thuận với phía bên xuất khẩu để trả trực tiếp một phần lớn giá trị hợp đồng, phần còn lại được trả bằng các hình thức thanh toán pháp luật quy định (thanh toán bằng L/C...). Làm như vậy thì giá ghi trên hợp đồng rất thấp mà vẫn phù hợp với những chứng từ liên quan, thực hiện trốn thuế qua giá.
Việc tồn tại cùng một lúc hai phương pháp xác định giá tính thuế như trên, bản thân nó cũng tạo ra những phức tạp về mặt chính sách. Thế nhưng, quá trình thực hiện còn mang nặng tính chủ quan của cơ quan chức năng, cùng với việc “cố ý vận dụng” sao cho có lợi nhất cho mình của những đối tượng nộp thuế càng góp phần làm cho chính sách của Nhà nước thêm bất lợi.
- Việc kiểm tra sau thông quan còn gặp nhiều khó khăn.
Theo trình tự làm thủ tục cho hàng hoá xuất nhập khẩu, việc kiểm tra của cơ quan hải quan được phân thành: kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau thông quan.
+ Kiểm tra trước: kiểm tra hồ sơ đăng ký làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp.
+ Kiểm tra trong: kiểm tra đối chiếu hàng hoá xuất nhập khẩu với hồ sơ kê khai, đăng ký ban đầu.
+ Kiểm tra sau: khi hàng hoá đã thực xuất hoặc thực nhập nếu phát hiện có vấn đề, cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra lại hồ sơ hải quan, kiểm tra hồ sơ sổ sách của doanh nghiệp để phát hiện và chứng minh vấn đề. Nếu đúng là có gian lận, cơ quan hải quan có quyền yêu cầu doanh nghiệp phải chấp hành các chế tài mà pháp luật quy định.
Trước năm 1999, khi chưa gia nhập cơ chế kiểm tra sau thông quan, mọi hàng hoá nhập khẩu đều được kiểm tra chi tiết tại cửa khẩu hoặc địa điểm cơ quan có thẩm quyền cho phép. Hàng khi đã ra khỏi vị trí này, cơ quan hải quan không có quyền kiểm tra. Quy định này gây ra nhiều ách tắc đối với những cửa khẩu có lưu lượng hàng hoá xuất nhập khẩu lớn và khó có thể chắc chắn không để xảy ra sai sót. Hơn nữa để đối phó với những thủ đoạn gian lận ngày càng trở nên tinh vi đồng thời cũng là để tạo thông thoáng, thuận lợi, giảm bớt phiền hà, Luật sửa đổi một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 2/5/1998 (Luật số 04) và một số văn bản pháp quy khác cho phép cơ quan thu thuế có thẩm quyền kiểm tra tại doanh nghiệp. Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu đã được thông quan, cơ quan hải quan được áp dụng biện pháp kiểm tra sau thông quan. Trong thời hạn 5 năm kể từ ngày hàng hoá xuất nhập khẩu được thông quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được quyền ra quyết định kiểm tra sau thông quan. Trong trường hợp cần thiết, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ra quyết định kiểm tra sau thông quan.
Tuy nhiên, kể từ khi Luật thuế xuất nhập khẩu có hiệu lực đến nay, quy định trên vẫn chưa được thực hiện mạnh mẽ. Nguyên nhân là do sự thiếu đồng bộ của các văn bản quy định cụ thể về quyền hạn, thủ tục tiến hành kiểm tra sau thông quan. Một phần nữa, thuộc về yếu tố tâm lý, tuyên truyền luật pháp, đã từ lâu mọi doanh nghiệp đều có tâm lý cho rằng hàng hoá xuất nhập khẩu khi đã ra khỏi địa điểm làm thủ tục hải quan là đã hoàn thành mọi thủ tục, khi cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra sau thông quan, mặc dù là đúng quy định nhưng vẫn vấp phải phản ứng quyết liệt của doanh nghiệp. Khi mà lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt nam từ các tổ chức kinh tế mà nước ta có tham gia tăng lên, nguy cơ gian lận gia tăng thì quy định kiểm tra sau thông quan là vô cùng cần thiết.
2.2. Những điểm chưa phù hợp trong các chính sách thuế khác.
Việc áp dụng các hình thức thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt) và một số hình thức thuế thu nhập (chủ yếu là thuế thu nhập doanh nghiệp) trong thực tiễn hiện nay lộ rõ nhiều điểm bất hợp lý sau so với quy định của các tổ chức quốc tế:
2.2.1 Hệ thống chính sách thuế còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa đảm bảo tính tương thích với hệ thống thuế các nước trong khu vực
Quy định về mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi cho các doanh nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu cao. Quy định về thu chênh lệch giá đối với hàng nhập khẩu. Những quy định này vi phạm quy định về cấm trợ cấp xuất khẩu của WTO. Những bất cập này cần phải được sửa đổi, bổ sung kịp thời khi nền kinh tế phát triển và Việt nam tham gia hội nhập sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới.
2.2.2 Trong từng sắc thuế còn chứa đựng tính không công bằng và chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Chính sách thuế của Việt nam, tuy được thường xuyên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế vận động của nền kinh tế và phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế song bản thân nội dung của chính sách thuế còn chứa đựng tính không ổn định, minh bạch của hệ thống thuế trong một quốc gia. Điều này gây nên bất lợi lớn trong thu hút đầu tư nước ngoài, cũng như gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Nếu chiếu theo nguyên tắc chung của các tổ chức quốc tế về việc không phân biệt đối xử hoặc nguyên tắc công khai, minh bạch trong các chính sách thuế của Việt nam có thể nhận thấy những bất ổn sau:
A/ Hiện nay, thuế tiêu thụ đặc biệt quy định miễn giảm thuế đối với các cơ sở lắp ráp ôtô, cơ sở sản xuất bia bị lỗ; áp dụng thuế suất khác nhau đối với sản phẩm trong nước và ngoài nước: đối với thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất bằng nguyên liệu nhập khẩu có thuế suất 70%, còn bằng nguyên liệu trong nước chỉ có mức thuế suất 52%; ôtô nhập khẩu thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 100% nhưng ôtô sản xuất trong nước thuế suất giảm 95%. Những quy định này vi phạm các nguyên tắc về đối xử quốc gia của WTO.
B/ Biểu thuế suất thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu cao hay thấp lại dựa trên mục đích sử dụng của hàng hoá mà không dựa trên tính chất của hàng hoá, điều đó trái với thông lệ quốc tế, nó chẳng những gây phức tạp trong công tác quản lý thu thuế mà còn tạo nên những khe hở để trốn thuế lậu thuế. Ví dụ, hàng hoá do quốc phòng, an ninh nhập khẩu không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng trong khi các doanh nghiệp nhập khẩu về cũng những hàng hoá đó lại chịu thuế giá trị gia tăng.
- Việc khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng đầu vào của các mặt hàng nông thuỷ sản mua trực tiếp của nông dân nhằm bảo hộ cho ngành sản xuất nông nghiệp đang gặp khó khăn, đồng thời đảm bảo tính liên hoàn của luật thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, việc khấu trừ khống thuế đầu vào hiện nay( chỉ căn cứ vào bảng kê) là thiếu căn cứ khoa học, thiếu chính xác, không đảm bảo tính minh bạch của luật thuế.
C/ Hệ thống thuế thu nhập chưa đảm bảo triệt để tính minh bạch, rõ ràng theo nguyên tắc của các tổ chức quốc tế. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chưa thực sự đảm bảo tính công bằng trong phân phối thu nhập.
- Trong quan hệ điều chỉnh giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao phát sinh hành vi: nếu là một cá nhân vừa có thu nhập từ kinh doanh vừa có thu nhập từ tiền lương và các khoản thu nhập khác thì bị điều chỉnh bởi hai luật thuế khác nhau, gây ra sự phức tạp và không phù hợp với thông lệ quốc tế.Ví dụ: quy định cá nhân có thu nhập từ kinh doanh nằm trong diện điều chỉnh của thuế thu nhập doạnh nghiệp và áp dụng thuế suất 32%, còn cá nhân có thu nhập từ tiền công, tiền lương bình quân tháng trên 3 triệu đồng phải nộp thuế thu nhập với người có thu nhập cao theo biểu thuế luỹ tiến từng phần với thuế suất cao nhất 50%.
- Sự phân biệt về khởi điểm chịu thuế của người Việt nam và người nước ngoài trong thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cũng thể hiện sự khác nhau:
Đối với người Việt nam, mức khởi điểm chịu thuế bình quân thu nhập hàng tháng là trên 2,5 triệu đồng (trên 30 triệu đồng/ năm). Đối với người nước ngoài từ tháng 7/1999, quy định mức khởi điểm chịu thuế bình quân tháng là trên 8 triệu đồng (trên 96 triệu đồng/ năm). Sự phân biệt mức khởi điểm chịu thuế giữa người Việt nam và người nước ngoài có sự khác biệt được lý giải bởi mức phí tổn về ăn ở, đi lại và sinh hoạt khác nhau. Song việc phân biệt đối xử lại tạo nên bất bình đẳng về điều tiết thu nhập giữa người Việt nam và người nước ngoài và điều đó hoàn toàn trái với nguyên tắc về đối xử quốc gia của các tổ chức quốc tế.
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao mới chỉ quản lý được các khoản thu nhập từ tiền công, tiền lương và các khoản phụ cấp về tiền thưởng mang tính chất tiền lương và tiền công của người lao động mà chưa thực sự điều chỉnh được tất cả các khoản thu nhập phát sinh trong đời sống kinh tế- xã hội. Vì vậy, đối tượng điều chỉnh của luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao còn rất hạn hẹp, chưa đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế của mọi thành viên trong xã hội.
- Sự bất bình đẳng còn thể hiện khi phân biệt mức nộp thuế giữa thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Việc phân định thu nhập không theo nguồn gốc phát sinh thu nhập mà theo tính chất ổn định của thu nhập dẫn đến sự không rõ ràng khi phân chia thu nhập và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Thu nhập không thường xuyên thu theo thuế suất khác với thu nhập thường xuyên và phải nộp sau khi chi trả thu nhập, cuối năm không quyết toán. Sự bất hợp lý xảy ra khi có khoản thu nhập của cá nhân xét về tính chất là thu nhập của nhiều thời gian trước, nhưng lại bị đánh thuế một lần. Điều đó buộc người nộp thuế tìm mọi cách chia nhỏ thu nhập để tránh thuế.
- Thuế chưa thực sự đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Việc sử dụng tiêu thức “quốc tịch” hay “nơi cư trú” làm căn cứ xác định nghĩa vụ thuế giữa người Việt nam với nhau và giữa người Việt nam với người nước ngoài không những không phù hợp với thông lệ quốc tế mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về tiêu thức nộp thuế giữa các đối tượng nộp thuế khác nhau.
- Sự bất bình đẳng cũng phát sinh khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong trường hợp cá nhân kinh doanh phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo mức thuế suất 32%, nhưng cá nhân không kinh doanh phải nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao theo biểu thuế luỹ tiến từng phần. Do vậy, nhiều trường hợp các cá nhân không kinh doanh phải nộp thuế thu nhập cao hơn cá nhân kinh doanh. Điều đó phản ánh sự điều tiết thu nhập không bình đẳng về nghĩa vụ thuế của các thành viên trong xã hội, không khuyến khích người lao động sáng tạo, tăng năng suất lao động để nâng cao thu nhập. Vì vây, nguyên tắc đối xử bình đẳng của các tổ chức quốc tế sẽ bị vi phạm khi chúng ta tham gia hội nhập.
D/ Quy định về ưu đãi thuế cho Việt kiều khi đầu tư về Việt nam là vi phạm quy định về không phân biệt đối xử trong Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt nam đã ký kết với các nước.
Việc tiếp tục mở rộng thời hạn ưu đãi thuế đối với đầu tư nước ngoài là không phù hợp với việc các nước không chấp nhận kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp trừ khoán thuế trong Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đã ký với Việt nam cũng như các nước đã và đang tiến hành đàm phán với Việt nam. Biện pháp này không những gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước mà còn không đem lại hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt nam.
2.2.3 Hệ thống thuế còn quá phức tạp, sử dụng nhiều công cụ thuế để phục vụ các chính sách xã hội đã làm mất đi tính trung lập của thuế và trái với nguyên tắc đơn giản, rõ ràng, minh bạch của hệ thống thuế trong các tổ chức quốc tế mà Việt nam tham gia.
Thuế giá trị gia tăng do áp dụng hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ [áp dụng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh áp dụng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, hạch toán đầy đủ thuế đầu ra, thuế đầu vào. Theo phương pháp này, thuế giá trị gia tăng phải nộp = thuế giá trị gia tăng đầu ra (thuế giá trị gia tăng trên hoá đơn bán hàng) – thuế giá trị gia tăng đầu vào( thuế giá trị gia tăng trên hoá đơn hàng hoá, dịch vụ mua vào)] và phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng[ áp dụng đối với các cơ sở, cá nhân sản xuất kinh doanh chưa có điều kiện áp dụng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ để nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Theo phương pháp này, thuế giá trị gia tăng phải nộp = giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ * thuế suất] trong điều kiện trình độ quản lý thu thuế còn nhiều hạn chế nên đã tạo nên sự phức tạp, kém hiệu quả, thiếu minh bạch và rõ ràng của thuế giá trị gia tăng. Trong khi chúng ta sẽ cam kết thực hiện sự minh bạch, rõ ràng của hệ thống thuế với các tổ chức khu vực và thế giới.
Có quá nhiều đối tượng không chịu thuế, nhiều trường hợp miễn giảm thuế khác nhau (theo Luật thuế giá trị gia tăng ban hành ngày 10/5/1997, thì có 26 loại hàng hoá - dịch vụ không thuộc diện chịu thuế như: sản phẩm muối; dịch vụ tín dụng - quỹ đầu tư; dịch vụ y tế; dạy học- dạy nghề; chuyển giao công nghệ...). Một số chính sách xã hội được đưa vào thực hiện trong chính sách thuế dưới hình thức miễn giảm thuế đã làm hệ thống thuế trở nên phức tạp hơn và mất đi tính trung lập của thuế: giảm và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các đối tượng là thương binh, người tàn tật, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. Hoặc theo Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997, những năm đầu thực hiện thuế giá trị gia tăng, nếu co sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ có số thuế giá trị gia tăng phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây mà bị lỗ thì được giảm thuế giá trị gia tăng phải nộp tối đa bằng số lỗ.... Nguyên nhân là do hệ thống chính sách thuế vừa nhằm mục tiêu đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ vừa thực hiện chính sách xã hội, làm cho hệ thống thuế trở nên phức tạp, mất tính trung lập.
Chính sách thuế còn có sự phân biệt về thuế suất giữa các ngành nghề khác nhau ( theo Luật thuế giá trị gia tăng ban hành ngày 10/5/1997, có 04 mức thuế suất: 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu, 5% áp dụng đối với một số hàng hoá- dịch vụ thiết yếu đến đời sống, 10% là mức thuế phổ biến, 20% áp dụng đối với một số dịch vụ và hoạt động kinh doanh) dẫn tới khó khăn trong việc phân bổ chi phí, tạo nên kh