PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Mục tiêu của khoá luận. 2
3. Nhiệm vụ cần thực hiện. 2
CHƯƠNG 1 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Quan hệ giữa du lịch và môi trường. 3
1.2. Giới thiệu chung về khu du lịch Suối Mỡ. 7
1.3. Phương pháp nghiên cứu 12
CHƯƠNG 2 18
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 18
2.1. Các vấn đề môi trường và hiện trạng quản lý môi trường ở khu du lịch Suối Mỡ 18
2.2. Xác định khả năng tải du lịch của tuyến đường mòn thiên nhiên từ đền Trung lên đền Thượng dọc theo suối ở khu du lịch Suối Mỡ - Bắc Giang 22
2.3. Phương pháp cải thiện môi trường ở khu du lịch Suối Mỡ - Bắc Giang 27
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 35
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2696 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Định hướng quản lý môi trường khu du lịch Suối Mỡ - Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hụ cận bao quanh thảm thực vật còn nghèo do khai thác bừa bãi cho nhu cầu sinh hoạt và canh tác nông nghiệp của người dân địa phương và cũng vì thế mà nhiều thú rừng quý hiếm đã bỏ đi nơi khác (quy hoạch phát triên du lịch Suối Mỡ- huyện Lục Nam).
Song bên cạnh đó Suối Mỡ cũng có những tài nguyên sinh vật mang nét đặc trưng của khu vực như giẻ, phong lan, chè xanh, lông cu ly, cùng bạt ngàn những loài cây thuốc quý khác. Ngoài ra còn có các loại cây ăn quả đặc sắc như na, vải thiều...(quy hoạch phát triển du lịch Suối Mỡ - huyện Lục Nam)
1.2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn.
Khu vực Suối Mỡ không chỉ nổi tiếng là một khu danh thắng mà còn được khách thập phương biết đến bởi sự linh thiêng của các ngôi đền ở đây. Hệ thống 3 đền ở Suối Mỡ bao gồm: Đền Trung, Đền Thượng, Đền Hạ vốn được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ XV-XVI) . Cả ba đền đều thờ "Thượng ngàn Thánh Mẫu" vị thần tiêu biểu cho sức mạnh của tự nhiên. Huyền thoại kể rằng đó chính là công chúa Quế Mỹ Nương, con vua Hùng Định Vương, người đã có công làm thuỷ lợi, dẫn dòng Suối Mỡ về đây để mảnh đất Nghĩa Phương được trù phú tươi tốt như ngày nay. Nguyên mẫu, đó là những ngôi đền rất đẹp, tinh tế về mặt kiến trúc. Tiếc rằng thời gian bị thực dân Pháp xâm chiếm chúng đã bị tàn phá nặng nề. Các ngôi đền hiện nay, đều do dân xây lại bằng tiền công đức. Do thiếu kinh phí và kinh nghiệm nên các ngôi đền này đều không còn nhiều được giá trị lịch sử và nghệ thuật như vốn có.
Tuy vậy, sự linh thiêng của ngôi đền này đã thu hút hàng ngàn lượt khách mỗi năm. Hội đền Suối Mỡ tổ chức vào ngày 1 tháng 4 âm lịch. Ngày này thực sự là ngày hội lớn nhất của vùng. Từ canh hai, canh ba dân làng đã tề tựu đông đủ ở đình làng để rạng sáng rước Sắc về đền Hạ. Từ đình làng Quỳnh qua nghe Hàn Lâm lên Đền Trung, Đền Thượng để cúng tế an vị rồi rước Sắc quay trở lại đình. Xong suôi, các trò chơi như chọi gà, đu vật, cờ bói, tổ tôm diễn ra sôi nổi, bên cạnh dăm chiếu chèo từ các nơi đổ về. Đêm xuống lại có trò đốt cây bông. Những nét đẹp văn hoá đó chính là yếu tố tạo nên bản sắc cho khu vực mà chúng ta cần bảo tồn và phát huy.
1.2.2.3. Hịên trạng phát triển du lịch tại khu du lịch Suối Mỡ - Bắc Giang.
a. Hiện trạng khách du lịch.
Hiên trạng số lượng khách du lịch đến Suối Mỡ chưa nhiều nhưng tăng đáng kể những năm qua. Theo số liệu thống kê của ban quản lý tốc độ tăng trưởng lượng khách du lịch đến khu vực này tương đối nhanh: Năm 1995 tăng 1,3 lần so với năm 1994 và tính đến năm 1996 lượng khách đã tăng lên 3,5 lần so với năm 1995, đạt con số 23.219 khách. Lượng khách du lịch tăng nhanh một phần do nhu cầu thăm quan tăng nhanh, một phần do đời sống vật chất tăng trong một vài năm trở lại đây. Song cũng phải kể đến một lượng lớn người đi cúng lễ vào các ngày lễ hội. Cùng với tốc độ tăng trưởng chung, lượng khách du lịch đến đây cũng tăng nhanh,trung bình từ 107 người/ngày trong năm 1994 lên 252 người/ngày trong năm 1995. Khách đến Suối Mỡ chủ yếu với mục đích tham quan, cắm trại, cúng lễ(quy hoạch phát triển du lịch Suối Mỡ -huyện Lục Nam).
Một hiện trạng cần quan tâm của khu du lịch này là chưa có khách du lịch nghỉ qua đêm, các du khách chỉ đi trong ngày, khách nước ngoài cũng chỉ đến đây nghỉ ngơi song lại về thị xã Bắc Giang nghỉ đêm. Nguyên nhân đó là khu vực này chưa có hệ thống khách sạn hay nhà nghỉ, chưa có một hoạt động vui chơi giải trí nào có thể hấp dẫn được du khách nghỉ lại.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khoá luận tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
1.3.1. Phương pháp thống kê, thu thập xử lý nguồn số liệu thứ cấp
Nhằm trình bày và phân tích các tiềm năng du lịch tại địa bàn lãnh thổ Suối Mỡ theo các tài liệu khoa học đã được tiến hành trước đề tài và có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài. Việc phân tích này cho phép:
-Thu thập các số liệu về địa hình, điều kiện khí hậu tài nguyên sinh vật, chiều dài các con đường mòn thiên nhiên.
-Đánh giá mức độ thu hút khách du lịch của các tiềm năng, các định hướng tích cực và tiêu cực đối với việc thu hút khách du lịch của các tiềm năng, đề xuất yêu cầu, giải pháp nhằm giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực, cải thiện mức độ thu hút khách du lịch.
-Đề xuất các chương trình giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao kiến thức về kinh doanh du lịch, về văn hoá ứng xử trong kinh doanh du lịch đến cộng đồng dân cư các tuyến điểm du lịch, thu hút cộng đồng dân cư tham gia vào các cấp độ, các mặt hoạt động ở du lịch địa phương.
-Xem xét đánh giá cơ cấu doanh nghiệp, chất lượng dịch vụ tham gia trong kinh doanh du lịch ở địa phương, đề xuất biện pháp quản lý nhà nước về du lịch.
-Phân tích lao động tham gia kinh doanh du lịch, đề xuất biện pháp nhà nước về du lịch.
-Xem xét đánh giá mức độ phù hợp của các quy định pháp chế hiện hành liên quan đến du lịch.
-Đánh giá và đề xuất các biện pháp nhằm phối hợp đồng bộ hơn sự tham gia của các ngành, các cấp trong phạm vi mục đích của đề tài.
1.3.2. Phương pháp đánh giá nhanh môi trường
Kỹ thuật đánh giá nhanh môi trường được sử dụng trong khoá luận là phỏng vấn không chính thức: người được phỏng vấn được lựa chọn một cách ngẫu nhiên không được báo trước về cuộc phỏng vấn. Câu hỏi được phỏng vấn được kết hợp giữa câu hỏi tình thế tuỳ hứng, tuỳ vào đối tượngđược phỏng vấn và bộ câu hỏi được soạn thảo sẵn dưới dạng phiếu điều tra. Qua tổng kết phiếu diều tra chúng tôi thu được các thông tin cần thiết về hiện trạng du lịch như: số du khách, nhu cầu sự tiêu thụ tài nguyên của du khách, ý thức về môi trường của du khách.
1.3.3. Phương pháp phân tích hệ thống
Hệ thống phát triển du lịch là hệ thống toàn vẹn và thống nhất có quan hệ mật thiết với nhau như nhóm người du lịch, nhóm cơ sở tự nhiên, cơ sở văn hoá lịch sử, nhóm công trình kỹ thuật, đội ngũ cán bộ, nhân viên, cán bộ quản lý…do vậy việc phân tích hệ thống du lịch cho phép tìm hiểu các thông tin ban đầu, hoạt động của hệ thống du lịch cũng như kết quả của việc nghiên cứu vấn đề một cách hiệu quả.
Phân tích hệ thống lãnh thổ du lịch nhằm mục đích nghiên cứu hoạt động bên trong của hệ thống trong qúa trình tác động qua lại giữa các thành phần cũng như với hoạt động bên ngoài và tác động qua lại của nó với môi trường xung quanh.
1.3.4. Phương pháp tính khả năng tải của các khu đường mòn thiên nhiên do Hec'tor Ceballos Lascurain đề xuất(IUCN, Tourism, ecotourism, and protected areas).
1.3.4.1. Định nghĩa khả năng tải
D'amore, 1983 ''khả năng tải là điểm trong quá trình tăng trưởng du lịch mà người địa phương bắt đầu cảm thấy mất cân bằng do mức độ tác động xã hội không thể chấp nhận được của hoạt động du lịch ''(Ngô Thị Kim Yến- Khoá luận tốt nghiệp khoa Môi Trường Hà Nội năm 2000).
Shelby và Heibberlein, 1987 ''khả năng tải là mức độ sử dụng mà vượt quá nó thì vi phạm tiêu chuẩn môi trường ''( Ngô Thị Kim Yến- Khoá luận tốt nghiệp khoa Môi Trường Hà Nội năm 2000).
LucHens, 1998 ''khả năng tải là số lượng du khách cực đại sử dụng điểm du lịch mà không gây suy thoái đến mức không thể chấp nhận được đối với môi trường tự nhiên và không gây suy giảm đến mức không thể chấp nhận được việc thoả mãn các nhu cầu của du khách ''(Ngô Thị Kim Yến- Khoá luận tốt nghiệp khoa Môi Trường Hà Nội năm 2000).
Boo, 1990 ''khả năng tải là số lượng người cực đại có thể sử dụng điểm du lịch , có thể thoả mãn nhu cầu cao nhưng it gây tác động xấu đến tài nguyên"(Ngô Thị Kim Yến- khoá luận tốt nghiệp khoa môi trường Hà Nội năm 2002).
Wolters, 1991 " Khả năng tải du lịch là một khả năng tải môi trường đặc biệt có liên quan đến hoạt động du lịch và phát triển. Trong đó khả năng tải môi trường là mức hoạt động của con người mà nếu vượt quá mức này tài nguyên thiên nhiên sẽ bị suy giảm"(Ngô Thị Kim Yến- Khoá luận tốt nghiệp khoa Môi Trường Hà Nội năm 2002).
Như vậy, Khả năng tải là số lượng người cực đại mà điểm du lịch có thể chấp nhận, không gây suy thoái hệ sinh thái tự nhiên, không gây xung đột xã hội giữa cộng đồng địa phương và du khách, không gây suy thoái nền kinh tế truyền thống của cộng đồng bản địa ( Nguyễn Đình Hoè và Vũ Văn Hiếu, 1999).
1.3.4.2. Phương pháp xác định khả năng tải đường mòn.
Theo He'ctor Ceballos - Lascurain có 3 mức tính khả năng tải du lịch cho một con đường mòn thiên nhiên:
a. Khả năng tải vật lý (Physical Carrying capacity - PCC).
b. Khả năng tải thực (Real carrying capacity - RCC).
c. Khả năng tải cho phép hoặc khả năng tải hiệu quả ( Effective Carrying Capacity - ECC).
Công việc tính khả năng tải thực phải dựa vào khả năng tải vật lý và việc tính khả năng tải hiệu quả phải dựa vào khả năng tải thực.
Khả năng tải vật lý (PCC) luôn lớn hơn khả năng tải thực (RCC) và khả năng tải thực luôn lớn hơn khả năng tải hiệu quả (ECC).
PCC > RCC và RCC > = ECC.
* Khả năng tải vật lý (PCC): Là số lượng khách tối đa cho một khu vực trong một thời gian xác định.
Khả năng tải vật lý được tính theo công thức sau:
PCC = A ´ ´ Rf
Trong đó : A là diện tích của khu vực
V/a : số m2 dành cho một du khách
Rf : Nhân tố quay vòng (lượng du khách / ngày)
Để xác định được PCC ta cần xác định được những tiêu chuẩn và những giả thiết cơ bản sau:
- V/a là diện tích m2 mà một người sử dụng để hoạt động một cách thoải mái.
- Diện tích khu vực A được xác định bởi các điều kiện đặc trưng của mỗi khu vực.
Đối với các vùng thiên nhiên, diện tích có thể bị giới hạn bởi các yếu tố vật lý (đá, khe nứt, vực sâu...) hoặc do những yêu cầu về sự an toàn. Đối với đường mòn thiên nhiên, diện tích phụ thuộc vào các nhóm du lịch và khoảng cách cần thiết giữa các nhóm nhằm tránh sự trở ngại giữa các nhóm với nhau.
- Nhân tố quay vòng là số lần viếng thăm cho phép của du khách. Nó được xác định như sau:
Thời gian mở cửa
Rf =
Thời gian tham quan một lần
*Khả năng tải thực: Là số lần viếng thăm cho phép lớn nhất của một khu vực. Nó chính là khả năng vật lý sau khi đã loại trừ các nhân tố giới hạn.
Các nhân tố giới hạn có thể bao gồm các thông số về vật lý, sinh học, sinh thái, xã hội học và quản lý.
RCC có thể được biểu diễn theo công thức sau:
RCC = PCC- Cf1- Cf2-..- Cfn
Cf là giới hạn được tính theo phần trăm. Vì vậy, RCC có thể được tính theo công thức sau:
RCC = PCC ´ ´ ´..´
Một điều quan trọng cần lưu ý là các nhân tố giới hạn không nhất thiết phải giống nhau cho một vùng. Ví dụ lụt lội có thể gây cản trở ở khu vực này nhưng lại không gây cản trở cho khu vực khác trong cùng một khu vực nghiên cứu. Nói một cách khác các nhân tố giới có thể quan hệ chặt chẽ với các điều kiện cụ thể và các đặc trưng của khu vực. Cần phải nhấn mạnh rằng khả năng tải của một khu vực bảo tồn cần phải được xác định ở từng khu vực một.
Các nhân tố giới hạn được biểu thị bằng phần trăm theo công thức sau:
Cf =
Trong đó: M1: Tầm quan trọng giới hạn của biến số.
Mtc: Tầm quan trọng tổng số của các biến số.
*Khả năng tải hiệu quả hay khả năng tải cho phép ( ECC): Là số lượng du khách lớn nhất mà một khu vực có thể chịu đựng dựa vào khẳ năng quản lý của một khu bảo tồn thiên nhiên ( MC) .
ECC thu được bởi sự so sánh giữa RCC với MC của cơ quan quản lý khu bảo tồn. MC được xác định dựa vào một số điều kiện mà cơ quan quản lý khu bảo tồn yêu cầu nhằm thực hiện chức năng và mục tiêu của khu bảo tồn.
Đo đạc MC không phải là một nhiệm vụ dễ dàng bởi nó liên quan đến rất nhiều các yếu tố như : Các chính sách, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, nhân viên, quỹ...
Sự hạn chế về khả năng quản lý hiện đang là vấn đề nghiêm trọng nhất của các nước đang phát triển.
Chương 2
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Các vấn đề môi trường và hiện trạng quản lý môi trường ở khu du lịch Suối Mỡ
2.1.1. Các vấn đề môi trường ở khu du lịch Suối Mỡ
2.1.1.1. Giao thông nội bộ khu vực
Mạng lưới giao thông nội bộ khu vực này gồm đường Suối Mỡ, đoạn đường từ đền Suối Mỡ đến cụm nông trường, làng nông nghiệp và khu quy hoạch trồng rừng thuộc xã Nghĩa Phương. Trước đây đoạn đường này thi công chủ yếu phục vụ khai thác gỗ tại lâm trường địa phương và việc đi lại của nhân dân trong vùng. Do vậy các yếu tố kỹ thuật trong vùng còn nhiều hạn chế, nhiều đường cong gấp, mặt đường hẹp, rãnh thoát nước không đủ. Hơn nữa không được duy trì, bảo dưỡng thường xuyên nên đường đã xuống cấp nặng nề. Cụ thể là nhiều đoạn đường đồi bị bóc vỡ, lồi lõm, nhiều vách đá bị sạt lở do mưa lũ và do khai thác bừa bãi, cống và đường ống bị biến dạng và nứt vỡ nhiều, xe qua lại khó khăn. Hệ thống các tuyến đường hẹp, chưa hoàn chỉnh, xe không chạy được với tốc độ cao. Khách du lịch từ Hà Nội đến Suối Mỡ khoảng 75 km nhưng mất 3 giờ 30 phút. Hệ thống bãi đỗ còn thiếu. Thực trạng này đã gây nhiều khó khăn và nguy hiểm cho người và phương tiện qua lại trên tuyến. Hiện nay với mức độ tăng trưởng kinh tế chung trong toàn huyện, cùng với định hướng quy hoạch phát triển kinh tế vùng và miền núi, nhu cầu đi lại và mật độ các phương tiện tăng lên nhiều, nhất là các tuyến đường lại nằm trong khu vực phát triển du lịch của tỉnh thì việc đầu tư nâng cấp cải tạo để nâng cao hiệu quả của đoạn đường Suối Mỡ là một nhu cầu cấp thiết .
2.1.1.2. Cấp thoát nước
Nguồn nước chủ yếu của cư dân địa phương là dòng nước suối, một số nơi dùng nước giếng khoan. Về mùa mưa, nước suối tương đối dồi dào, dùng không hết, lưu lượng nước từ 1-1,5 l/s. Nhưng về mùa khô, nước suối ít chảy về, chỉ đủ dùng cho các nhu cầu tối thiểu. Ngày nay do diện tích rừng bị tàn phá nhiều, gây ảnh hưởng tới nguồn sinh thuỷ trong vùng dẫn đến tình trạng lưu lượng nước của các dòng suối giảm đi nhiều.
Hệ thống thoát nước là hệ thống chung cho cả nước mưa và nước thải. Tất cả các loại nước thải đều chảy trực tiếp ra sông Lục Nam.
2.1.1.3. Hiện trạng kiến trúc
Trong phạm vi khu vực nghiên cứu chưa có công trình kiến trúc nào hoàn thiện ngoài những ngôi đền cũ kỹ đã xuống cấp nghiêm trọng. Vào những mùa lễ hội, các kiốt bán hàng được dựng lên tạm bợ, chen chúc làm mất đi vẻ đẹp cổ kính và trang nghiêm của những ngôi đền.
2.1.1.4. Hiện trạng cây xanh
Khu vực Suối Mỡ cây xanh còn nghèo nàn, hai bên bờ suối do mùa lũ hàng năm nên chủ yếu chỉ có cỏ và cây sanh, si là sống được. Có những khoảnh rừng bị đốt, bị chặt phá tuỳ tiện, hệ sinh thái bị phá vỡ, những cánh rừng thưa thớt, nhiều loài muông thú dần bị cạn kiệt như các loài chim, khỉ..
2.1.1.5. Cơ sở phục vụ du lịch
Cơ sở vật chất phục vụ du lịch còn rất đơn giản, chưa có hệ thống cơ sở nhà nghỉ hay khách sạn, nên du khách chỉ đến đây trong ngày và quay lên thị xã Bắc Giang để nghỉ. Đây là vấn đề cần quan tâmvì không những nó làm ảnh hưởng tới doanh thu du lịch mà còn mất đi tính hấp dẫn của toàn vùng.
2.1.1.6. Công tác giữ gìn vệ sinh môi trường
Công tác giữ gìn vệ sinh môi trường ở đây chưa được quan tâm đúng mức. Tại khu du lịch Suối Mỡ những đàn gia súc nhất là đàn trâu bò vẫn được thả tự do gây ô nhiễm lớn về mặt môi trường; không đảm bảo an toàn giao thông cho du khách làm mât đi vẻ đẹp mỹ quan của khu du lịch; các rác thải sinh hoạt vất bừa bãi không có sự thu gom thường xuyên, không có sự tuyên truyền hướng dẫn cho du khách, ngay cả việc đáp ứng những nhu cầu tối thiểu về vệ sinh cho du khách cũng không có. Những điều đó đã làm ảnh hưỏng không ít đến môi trường, gây bất tiện, phiền hà cho du khách. Đặc biệt hiện nay môi trường (nguồn sinh thuỷ) của Suối Mỡ bị xuống cấp trầm trọng, đã làm giảm đi vẻ đẹp sẵn có của các thác nước uốn lượn, các bồn tắm to nhỏ khác nhau mà tự nhiên đã tạo nên cho Suối Mỡ.
Lực lượng lao động để làm các công việc như tập kết, thu gom rác thường xuyên, hay hướng dẫn du khách hầu như không có do Suối Mỡ chưa thực sự trở thành khu du lịch.
2.1.1.7. Đánh giá chung về các vấn đề môi trường khu du lịch Suối Mỡ
Với vị trí thuận lợi trong giao lưu (khách từ Hà Nội đi lên, từ Lạng Sơn đi xuống, từ Quảng Ninh Phú Thọ đến cũng rất thuận lợi), với các điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch, Suối Mỡ sẽ là điểm du lịch thăm quan, vui chơi, giải trí và nghỉ cuối tuần hấp dẫn nếu được quan tâm và đầu tư đúng mức.
Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật nhìn chung còn nghèo nàn, chưa tương xứng với vai trò và vị trí của mội khu du lịch. Điều này phần nào ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động trong vùng.
Môi trường khu vực nhìn chung vẫn giữ được vẻ tự nhiên của nó, vấn đề ô nhiễm chưa nhiêm trọng. Tuy nhiên nạn phá rừng lấy gỗ của dân địa phương đang làm mất dần tính hoang sơ thiên nhiên, mất dần những giống thú quý và có nguy cơ gây xói lở các sườn núi bao quanh khu du lịch.
Khách đến khu du lịch hiện nay chủ yếu là khách nội địa tới tham gia vào các lễ hội và tham quan thắng cảnh. Lượng khách lưu trú hầu như chưa có do vậy doanh thu ở du lịch là không đáng kể hơn nữa chưa có các sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng. Điều này đặt ra nhiệm vụ đối với quy hoạch là nghiên cứu đề xuất các sản phẩm du lịch đặc thù độc đáo và phù hợp với điều kiện tài nguyên du lịch của khu du lịch nhằm tạo sự hấp dẫn và tính hiệu quả trong kinh doanh của khu vực.
2.1.2. Hiện trạng quản lý môi trường.
Năm 2002 Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh đã phê duyệt tại quyết định số 620. /QĐ - CT về việc đầu tư xây dựng hạ tầng Suối Mỡ với tổng mức đầu tư 12 tỷ đồng với các hạng mục công trình như: nâng cấp đường vào Suối Mỡ, làm đường giao thông nội bộ khu vực Suối Mỡ, làm đường bộ ven suối từ Đền Trung lên Đền Thượng, kè mái đảo Đền Trung, tạo hồ xây bể tắm, các hạng mục công trình đang được thi công đúng tiến độ. Đến nay khối lượng công trình hoàn thành tương đương với số vốn khoảng 5 tỷ đồng. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch Suối Mỡ hiện đang là nguồn vốn của nhà nước. Các hạng mục công trình đang dần được hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng và bảo quản nhưng chưa thành lập được tổ chức quản lý, trùng tu, bảo dưỡng. Lượng khách du lịch ngày càng đông, các dịch vụ tối thiểu đã cũng đã được hình thành nhất là vào những ngày lễ hội. Song việc tổ chức các dịch vụ bán hàng vẫn mang tính tự phát, manh mún, chưa có trật tự , chưa đảm bảo văn minh thương mại. Công tác quản lý hiện nay do xã Nghĩa Phương tổ chức cũng mới dừng lại ở việc thu phí, chưa có định hướng, chiến lược cho việc tổ chức quản lý toàn khu du lịch, chưa có sự quản lý và tổ chức thống nhất ( ví dụ rừng lại do lâm trường Lục Nam quản lý, việc khai thác chưa gắn với bảo vệ môi trường ). Việc đầu tư xây dựng các dịch vụ phục vụ như nhà hàng ăn uống, nhà nghỉ, khu vui chơi giải trí còn chậm. Do vậy chưa đáp ứng nhu cầu tối thiểu của du khách, đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển du lịch của khu Suối Mỡ.
Là khu du lịch sinh thái thì việc giữ gìn cảnh quan môi trường là hết sức quan trọng, là nơi con người hoà nhập với thiên nhiên, với môi trường bền vững, với nền văn hoá bản địa sâu sắc. Nhưng ở đây chất lượng sản phẩm du lịch còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách tham quan du lịch, chưa có sức cạnh tranh trong khu vực. Môi trường sinh thái khu vực bị đe doạ.
Công tác giữ vệ sinh môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Không có nhân viên thu gom rác, rác thải sinh hoạt vất bừa bãi không có sự thu gom thường xuyên. Không có sự hướng dẫn, tuyên truyền cho du khách. Lực lượng lao động trong nghành du lịch có thể coi như không có.
2.2. Xác định khả năng tải du lịch của tuyến đường mòn thiên nhiên từ đền Trung lên đền Thượng dọc theo suối ở khu du lịch Suối Mỡ - Bắc Giang
Hoạt động du lịch ở Suối Mỡ xảy ra chủ yếu ở trên tuyến đường từ đền Trung lên đền Thượng dọc theo suối.
2.2.1. Xác định khả năng tải vật lý
a. Các thông số cơ bản để xác định khả năng tải vật lý (PCC)
- Đây là tuyến đường mòn chỉ đáp ứng một dòng du khách song do đường đi và về đều trên tuyến đường này nên dòng du khách là 2 chiều.
- Chiều dài tuyến đường này là: 640 m.
- Một du khách cần một đoạn đường dài 1 m.
- Khoảng cách giữa các nhóm du khách là 50m (qua phỏng vấn nhu cầu của du khách).
- Số lượng du khách của đoàn đông nhất là 25 người(để đảm bảo nghe được thuyết minh).
- Thời gian đi hết tuyến đường này là 30 phút.
- Thời gian mở cửa: 7 - 17 h. Vậy thời gian du khách có thể tham quan một ngày la 10 giờ.
b. Tính khả năng tải vật lý
Mỗi người cần 1 m chiều dài đường như vậy 1 nhóm du khách cần nhiều nhất 25 m đường. Khoảng cách giữa các nhóm là 50 m.
Gọi x là số nhóm tối đa có thể cùng một lúc trên con đường, ta có:
x ´ 25 + (x -1) ´ 50 = 640
x = 9 nhóm.
Vì đi về cùng trên một con đường hẹp nên số nhóm thực tế giảm đi 50% còn lại 4,5 nhóm
Thời gian mở cửa là 10 giờ/ ngày. Mỗi một lần thăm quan mất 30 phút. Vậy một ngày một người có thể thăm khu vực này 20 lần.
Do đó PCC = 4,5´ 25´ 20 = 2250 lần thăm quan/ngày hay du khách/ngày.
2.2.2. Xác định khả năng tải thực(RCC)
a. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tải thực của tuyến đường
- Số giờ nắng: Dọc theo tuyến đường này cây cối không nhiều, có nhiều chỗ không có cây. Vào những ngày nắng to gây khó khăn cho sự đi lại của du khách. Vì vậy ta có thể coi số giờ chiếu nắng là nhân tố giới hạn cho khả năng tải du lịch của tuyến đường. Nhưng chỉ số giờ nắng to trong ngay nắng trong mùa hè (các tháng 4, 5, 6, 7) mới gây khó khăn cho du khách vì vậy ta chỉ tính số giờ chiếu nắng to trong mùa hè mới là nhân tố giới hạn.
- Số ngày mưa: Toàn bộ tuyến đường đều được đổ bê tông hoặc làm bậc bằng bê tông nhưng do thời gian và hạn chế của công tác vệ sinh nên nhiều chỗ trên tuyến đường (đặc biệt là các bậc bê tông) rất trơn gây khó khăn cho sự đi lại của du khách. Ta có thể coi số ngày mưa là nhân tố giới hạn cho khả năng tải du lịch của tuyến đường.
- Mức độ khó khăn khi tiếp cận: Mặc dù trên toàn bộ tuyến đường đều là bê tông hoặc bậc bằng bê tông nhưng nhiều đoạn có độ dốc lớn gây trở ngại cho sự đi lại của du khách. Đây là nhân tố làm giảm khẳ năng tải du lịch của tuyến đường. Để đánh giá mức độ khó khăn khi tiếp cận ta sử dụng bảng 2.
Bảng: Mức độ khó khăn khi tiếp cận của các loại đường mòn thiên nhiên:
Độ dốc
Bậc đá
Đường bê tông
< 100
Không khó khăn
Không khó khăn
100- 200
Khó khăn
Khó khăn
> 200
Rất khó khăn
Khó khăn
Khi tính mức độ khó khăn ta đặt trọng số 1 cho mức độ rất khó khăn và 0,5 cho mức độ khó khăn (Ngô Thị Kim Yến -Khoá luận tốt nghiệp khoa Môi Trường Hà Nội năm 2000).
b. Tính khả năng tải thực của tuyến đường
Trong 10 giờ mở cửa một ngày(7h - 17h) thì chỉ có 6 giờ ( 10h - 16h) nắng gây khó khăn cho du khách.
Do vậy: Cf1 = = 19,72%.
Tháng 2 và tháng 3 là hai tháng có mưa phùn gây khó khăn cho sự đi lại của du khách vậy:
Cf2 = = 16,4%.
Tuyến đường có:
- 395 m đường bê tông độ dốc <10% không gây khó khăn khi tiếp cận.
- 105 m bậc bằng bê tông độ dốc 10 - 20% có mức tiếp cận khó khăn.
- 140 m bậc bằng bê tông, độ dốc > 20% có mức tiếp cận rất khó khăn.
Cf3 = = 22,26 %.
Vậy khả năng tải thực của tuyến đường là:
RCC = PCC ´ ´ ´
= 2250 ´ 0,8028 ´ 0,836 ´ 0,7774 = 1174 (du khách /ngày).
2.2.3. Xác định khẳ năng tải cho phép (ECC)
a. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tải cho phép của tuyến đường
- Chưa có thùng chứa rác và biển chỉ đường trên tuyến đường. Ngoài ra không có một nhân viên chuyên thu dọn rác nào. Như vậy công việc quản lý rác thải của ban quản lý khu du lịch thực hiện chưa được tốt.
- Không có người làm nhiệm vụ dẫn đường, chưa có hướng dẫn viên du lịch hiểu biết về sinh thái hay truyền thống lịch sử của các ngôi đền.
- Tuyến đường đã có 1 bãi đỗ xe (ngay cạnh đền Trung) để phục vụ nhu cầu của du khách.
b. Tính khả năng tải cho phép của tuyến đường
Trong 3 yếu tố trên, chỉ có một yếu tố đáp ứng được nhu cầu của du khách.
Vậy:
MC = 1/3=33,33%
Do đó : ECC = MC ´ RCC = 1174 ´ 33,33% = 391 (du khách/ ngày).
2.2.4. Nhận xét và kiến nghị
Khả năng tải du lịch của tuyến đường từ đền Trung lên đền Thượng dọc theo suối rất cao (391 du khách/ngày). Hiện nay số du khách đi trên đoạn đường này chưa nhiều ( lúc đông nhất 300 du khách /ngày), lượng du khách vào mùa hè và mùa đông còn ít hơn nữa vì không có lễ hội, khả năng tải của tuyến đường lớn hơn lượng khách đi trên tuyến đường hiện nay rất nhiều. Do vậy để thu hút thêm khách du lịch đi theo tuyến đường này nhằm tăng hiệu quả hoạt động du lịch trong khả năng tải du lịch thì ban quản lý khu du lịch cần có các biện pháp sau:
- Xây dựng hệ thống biển báo đường.
- Xây dựng hệ thống nhà vệ sinh sinh thái và hố đựng rác bằng bê tông trên đường đi cho du khách và yêu cầu nhân viên có trách nhiệm thu dọn thường xuyên.
- Tận dụng những hòn đá lớn trên đường đi bằng cách đẽo gọt thành ghế ngồi cho du khách nghỉ ngơi trên chặng đường đi.
- Mở các khoá đào tạo cư dân địa phương để cung cấp thêm các kiến thức về du lịch sinh thái và hiểu biết lịch các ngôi đền . Như vậy vừa cung cấp việc làm cho họ vừa đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch.
2.3. Phương pháp cải thiện môi trường ở khu du lịch Suối Mỡ - Bắc Giang
2.3.1. Thành lập ban quản lý khu du lịch Suối Mỡ
Trong chiến lược phát triển du lịch Bắc Giang, du lịch sinh thái Suối Mỡ- Lục Nam giữ vai trò hết sức quan trọng. Xuất phát từ vị trí, thực trạng quản lý môi trường khu du lịch Suối Mỡ đã nêu ở trên, để không ngừng đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của khách tham quan du lịch nhằm thúc đẩy sự phát triển của du lịch sinh thái Suối Mỡ, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, không ngừng nâng cao vai trò của công tác xã hội hoá về du lịch. Cần thiết phải thành lập ban qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2727883nh h4327899ng qu7843n l mi tr4327901ng khu du l7883ch.DOC