Khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lạc là giá, Nhu cầu
trong nước đối với lạc đang ngày càng tăng nên giá nội địa thường xấp xỉ,
thậm chí cao hơn giá xuất khẩu. Thí dụ, nửa cuối tháng 4/1999, giá FOB lạc
nhân chỉkhoảng 570 - 580USD/T, tương đương 8,000 đồng/kg trong khi trên
thịtrường thành phốHồChí Minh lạc loại 1 được bán lẻvới giá 12,000
đồng/kg. Hà Nội 11,500 đồng/kg, nơi thấp nhất là Đà Nẵng cũng phải 8,500
đồng/kg. Xuất khẩu lạc nhân năm 1999, vì lý do đó, chỉcòn khoảng 60 ngàn
tấn, giảm tới hơn 30% so với năm 1998 mặc dù giá xuất khẩu FOB bình quân
tăng tới 20% so với năm 1998.
76 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2133 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Định hướng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sia để trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Nếu
tính tất cả các chủng loại cà phê thì Việt Nam đã vượt Mexico để chiếm vị trí
thứ 3, chỉ sau Braxin và Colombia. Tỷ trọng của Việt Nam trong thương mại
cà phê quốc tế hiện nay khoảng 7%.
Bảng sau đây cho thấy bước tiến vượt bậc của cà phê Việt Nam trong các năm
từ 1993 đến 1999 (vụ mùa cà phê được tính từ tháng 10 năm trước đến hết
tháng 9 năm sau):
BẢNG 6: XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN
1993-1999
NIÊN VỤ SẢN LƯỢNG XUẤT
KHẨU (TẤN)
KIM NGẠCH XUẤT
KHẨU (NGÀN USD)
GIÁ BÌNH QUÂN
(USD/T FOB
VIETNAM)
1993 - 1994 165,000 226,790 1,374
1994 - 1995 212,038 558,280 2,633
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 32 -
1995 - 1996 232,765 422,436 1,815
1996 - 1997 358,512 427,991 1,194
1997 - 1998 391,326 592,279 1,514
1998 - 1999 405,616 557,000 1,373
Nguồn: Thống kê Hải quan và Bộ thương mại
Thời kỳ 1990 - 1994, diện tích trồng cà phê tăng không đáng kể (có năm còn
giảm) nhưng sản lượng tăng rất nhanh do đa số các vườn cà phê đến độ
trưởng thành và cho năng suất rất cao. Thời kỳ 1994 - 1996, giá cà phê thế
giới tăng đột biến nên diện tích trồng cà phê cũng tăng mạnh ở khắp các tỉnh
Tây Nguyên. Đến hết năm 1998, theo ước tính của Hiệp hội Cà phê Cacao
Việt Nam, diện tích trồng cà phê ở Việt Nam đã đạt xấp xỉ 370,000 ha, trong
đó riêng 3 tỉnh Tây Nguyên đã chiếm khoảng 60%. Tuyệt đại đa số diện tích
được sử dụng để trồng robusta, chỉ có khoảng 20,000 ha là trồng arabica.
Trước năm 1995, cà phê Việt Nam được đưa vào thị trường thế giới thông qua
mạng lưới tiêu thụ của các doanh nhân Singapore (chiếm tỷ trọng gần 45%).
Từ năm 1995, khi Mỹ bỏ cấm vận, vai trò của trung gian Singapore giảm dần.
Khách hàng Mỹ đã nhanh chóng tìm đến Việt Nam và chỉ sau 1 năm họ đã trở
thành bạn hàng số 1, hàng năm mua khoảng 24% lượng cà phê của Việt Nam
(năm 1996 lên tới gần 30%). Khách hàng Đức luôn chiếm vị trí số 2. Những
bạn hàng quan trọng khác gồm: Pháp, Bỉ, Italia, Tây Ban Nha, Anh, Angiêri,
Ba Lan và Nhật Bản. Singapore, kể từ năm 1996, không còn nằm trong danh
sách 10 bạn hàng lớn nhất nữa. Một yếu tố đáng chú ý là ngoài các nhà buôn,
các nhà rang xay cà phê nổi tiếng trên thế giới cũng đã xuất hiện tại Việt Nam
để thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp. Tuy tỷ trọng bán cho rang xay còn nhỏ
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 33 -
nhưng đây là dấu hiệu khởi đầu tốt đẹp bởi rang xay chỉ mua trực tiếp khi cà
phê có độ đồng đều nhất định về cỡ hạt và chất lượng hạt.
Sản lượng tăng rất nhanh nhưng cho tới nay ngành cà phê Việt Nam mới chỉ
có khoảng 20 cơ sở chế biến vào loại hoàn chỉnh. Tổng công suất của các cơ
sở này đạt trên dưới 100,000 tấn/năm, chỉ đảm bảo chế biến tốt từ 25% đến
30% sản lượng cà phê. Số còn lại được chế biến phân tán tại các hộ gia đình
và các nông trường nhỏ theo phương pháp thủ công hoặc bằng các thiết bị vừa
cũ, vừa không đồng bộ.
Vào cuối năm 1994, trước tình trạng lộn xộn, tranh mua tranh bán trên thị
trường cà phê, Chính phủ đã quyết định thiết lập chế độ đầu mối xuất khẩu.
Hình thức quản lý đầu mối đối với cà phê không giống như gạo. Cụ thể, tất cả
các doanh nghiệp là thành viên hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam, kể cả doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, nếu xuất khẩu được 2000 tấn/năm sẽ mặc nhiên
được Bộ thương mại công nhận là đầu mối xuất khẩu và, khi đã là đầu mối,
họ được quyền xuất khẩu với số lượng không hạn chế. Chế độ đầu mối này
không những không ảnh hưởng đến quyền lợi của người trồng cà phê mà còn
góp phần quan trọng trong việc nâng dần tỷ trọng cà phê đã qua chế biến bởi
trong điều kiện cà phê đã được tư nhân hoá hoặc giao khoán cho các hộ gia
đình chỉ có các công ty chuyên doanh mới đủ mạnh để đầu tư máy móc nhằm
nâng cao chất lượng cà phê và chế biến cà phê hoà tan.
BẢNG 7: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CÀ PHÊ 5 NĂM TỪ 1997 - 2001
Niên vụ Sản lượng xuất
khẩu
Giá trị Giá bình quân
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 34 -
1000 tấn Triệu USD USD/tấn
1997 391,6 493,7 1,260
1998 381,8 593,8 1,560
1999 482,4 585,3 1,210
2000 733,9 501,5 680
2001 932 392 420
Nguồn: Bộ NN & PTNT
Theo bảng trên ta thấy, sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam liên tục
tăng do cà phê được giá trong những năm này, nông dân đẩy mạnh phát triển
diện tích cà phê. Tuy nhiên, khi cà phê bắt đầu cho thu hoạch thì giá cà phê
trên thị trường thế giới bắt đầu giảm mạnh trong khi lượng cà phê tiêu thụ
trong nước không đổi. Để bù lại chi phí sản xuất đã bỏ ra, Việt Nam buộc
phải tiếp tục xuất khẩu cà phê với giá thấp.
Hạt điều (nhân điều):
Xuất khẩu nhân điều năm 1998 đạt 25,6 ngàn tấn, hụt gần 10 ngàn tấn so với
kế hoạch 35 ngàn tấn đặt ra từ đầu năm và giảm hơn 23% so với lượng đã
thực hiện năm 1997 (33,3 ngàn tấn). Tuy nhiên, do giá xuất khẩu bình quân
năm 1998 tăng hơn 14% so với năm 1997 nên kim ngạch xuất khẩu đã đạt
117 triệu USD, chỉ giảm 12,3% so với 133 triệu USD đã thực hiện năm 1997.
Năm 2002, lượng điều xuất khẩu đạt trên 60 ngàn tấn, kim ngạch trên 200
triệu USD, tăng 19 ngàn tấn và gần 60 triệu USD so với năm trước. Giá xuất
khẩu bình quân 4,000USD/tấn (loại tốt).
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 35 -
Nhân điều là một trong số ít những mặt hàng không bị tác động xấu của
khủng hoảng tài chính 1997 - 1998 (không gặp khó khăn về thị trường tiêu
thụ). Sản lượng xuất khẩu giảm chủ yếu là do vườn cây bị thoái hoá. Yếu tố
này, kết hợp với thời tiết không thuận lợi, đã làm năng suất cây điều sụt
xuống mức thấp nhất từ trước đến nay. Ngành chế biến thiếu nguyên liệu trầm
trọng. Nhiều xí nghiệp đã phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng từ
giữa năm 1998. Hiện tượng này vẫn tiếp tục trong năm 1999.
Từ năm 1995 trở về trước, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu điều thô. Từ năm
1996, do có chính sách hạn chế xuất khẩu điều thô để đảm bảo nguyên liệu
cho sản xuất trong nước nên việc xuất thô hầu như không còn.
Thị trường xuất khẩu điều nhân được thể hiện trong bảng dưới đây:
BẢNG 8: THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU ĐIỀU NHÂN
NĂM TỶ TRỌNG
1995 (%)
TỶ TRỌNG
1996 (%)
TỶ TRỌNG
1997 (%)
TỶ TRỌNG
1998 (%)
Trung Quốc 70 50 40 35-40
Châu âu 15 20-25 30 30-35
Mỹ 5-10 15 15 20
Châu á 10 8-10 8-10 8-10
Các nước khác Không đáng
kể
Không đáng
kể
5 Không đáng
kể
Nguồn: Bộ Thương mại
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 36 -
Qua bảng này có thể thấy tỷ trọng của Trung Quốc đang giảm dần. Điều của
ta đã thâm nhập khá tốt vào thị trường EU và thị trường Mỹ, trước đây vốn là
thị trường của điều ấn Độ.
Nhìn chung, ngành điều không gặp khó khăn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm.
Chất lượng điều của ta về cơ bản là cao hơn chất lượng điều của Indonesia và
ấn Độ (hình thức bên ngoài của hạt đẹp hơn, ít hạt vỡ hơn do ta chủ yếu làm
thủ công, vị lại ngọt và bùi hơn).
Cây điều là loại cây có tiềm năng xuất khẩu rất lớn. Nhu cầu thế giới tăng
trung bình 5 - 7%/năm trong khi sản lượng điều thô thế giới không thể tăng
nhanh (chỉ dao động quanh mức 950,000 tấn/năm). Nếu có chính sách đúng
đắn, trong vòng vài năm kim ngạch xuất khẩu điều và sản phẩm điều có thể
vượt cả kim ngạch xuất khẩu cao su để trở thành nông sản chế biến quan
trọng thứ 3 của Việt Nam.
Rau quả:
Xuất khẩu rau quả năm 1998 chỉ đạt 53 triệu USD, giảm khoảng 22% so với
68 triệu USD của năm 1997, một phần do mất mùa, một phần do bị rau quả
Thái Lan cạnh tranh gay gắt. Ngay tại thị trường tiểu ngạch Trung Quốc, rau
quả của ta cũng bị rau quả của Thái Lan gây khó khăn do nông dân và chủ
vựa của Thái Lan được đào tạo tốt hơn về kỹ thuật trồng, chăm sóc, bảo quản
và tiếp thị, trong khi nông dân của ta rất yếu những khâu này, ngay cả những
mặt hàng mà ta có lợi thế như long nhãn, vải.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 37 -
Trước năm 1992, thị trường xuất khẩu rau quả chính của Việt Nam là Liên Xô
(trên 90%, có năm là 98% như năm 1990). Việc xuất khẩu này được thực hiện
theo Hiệp định và Nghị định thư trao đổi hàng hoá năm nên không thể hiện
đúng sức cạnh tranh của rau quả Việt Nam. Sau khi Liên Xô tan rã, kim ngạch
lập tức sụt giảm rất mạnh (năm 1994 chỉ đạt 20 triệu USD). Nhờ có thị trường
Trung Quốc nên kim ngạch đã dần hồi phục trở lại và đạt 68 triệu USD vào
năm 1997. Hiện nay, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của ta
(36%), tiếp đó là Đài Loan (17%), Nhật Bản (12,5%), Mỹ (7,5%) và Nga
(4%). Tổng cộng 5 bạn hàng này đã chiếm gần 90% kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu rau quả năm 1999 đã phục hồi trở lại so với năm 1998. Kim ngạch
cả năm dự kiến đạt 70 - 75 triệu USD, tăng từ 35 đến 40% so với kim ngạch
của năm 1998. Năm 2000 đạt xấp xỉ 85 triệu USD và nếu có những biện pháp
thích hợp, nhiều khả năng sẽ đạt 200 triệu USD vào năm 2005. Năm 2002,
xuất khẩu rau quả cả năm đạt kim ngạch 200 triệu USD, giảm 40% so với
năm 2001. Rau quả chủ yếu được xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc,
Đài Loan, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Lào, Campuchia, Mỹ, EU,... Riêng xuất
khẩu vào thị trường Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng gấp 3 lần năm trước do tăng
mạnh các sản phẩm chế biến.
Hạt tiêu:
Trong những năm trước đây, hạt tiêu là mặt hàng nông sản chiếm vị trí thứ
yếu trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Kể từ năm 1996, do nhận
thức được giá trị kinh tế của cây hồ tiêu, diện tích trồng hồ tiêu đã tăng khá
nhanh.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 38 -
Hạt tiêu ở Việt Nam chủ yếu để phục vụ xuất khẩu. Sau đây là tình hình xuất
khẩu hạt tiêu của Việt Nam trong giai đoạn 1994 - 1999:
BẢNG 9: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HẠT TIÊU CỦA VIỆT NAM,
GIAI ĐOẠN 1994-1999
Năm Sản lượng xuất khẩu
(tấn)
Tốc độ tăng, giảm
(%)
1994 16000
1995 17900 12%
1996 25000 40%
1997 23000 -8%
1998 15000 -35%
1999 34000 127%
Nguồn: Phòng xúc tiến thương mại, Vụ Kế hoạch & Quy hoạch, Bộ NN & PTNT
Chúng ta đã xuất khẩu được tiêu sang khoảng 40 nước. 10 nước nhập khẩu
lớn nhất, theo số liệu đến năm 2000 được thể hiện trong bảng sau. Qua bảng
này, có thể thấy tiêu của ta chủ yếu vẫn được tiêu thụ qua trung gian. Việc
thâm nhập trực tiếp vào thị trường tiêu Châu âu, Dubai và Mỹ chưa nhiều:
BẢNG 10: 10 NƯỚC NHẬP KHẨU TIÊU LỚN NHẤT CỦA VIỆT NAM
STT Tên nước Lượng (tấn) Trị giá (USD)
1 Singapore 13765 52155851
2 Lào 6281 27196605
3 Hà Lan 3008 11905497
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 39 -
4 Hoa Kỳ 2577 8829154
5 UAE 1611 6312404
6 Trung Quốc 1322 4900608
7 Hongkong 752 2849327
8 Đức 647 2400948
9 Ba Lan 550 2032253
10 Pháp 419 1597855
Nguồn: Bộ Thương mại
Xu hướng tăng giá là đặc trưng cơ bản của thị trường hạt tiêu thế giới năm
1999, đặc biệt là đối với tiêu đen. Tháng 4/1999, giá trung bình tiêu đen (FOB
nước xuất sứ) trên thị trường thế giới mới đạt khoảng 4500USD/tấn nhưng
đến tháng 11/1999 đã lên tới 6200USD/tấn. Theo Hội đồng hạt tiêu thế giới
(IPC), giá hạt tiêu đen hiện nay đã đạt tới mức cao nhất kể từ năm 1980. Cầu
lớn hơn cung là nguyên nhân chính của xu hướng tăng giá này. IPC dự báo
xuất khẩu tiêu đen toàn thế giới năm 1999 sẽ đạt khoảng 105 ngàn tấn, giảm
16% so với 126 ngàn tấn của năm 1998 và 24% so với 139 ngàn tấn của năm
1997. Trong khi đó nhu cầu nhập khẩu tiêu đen vẫn tăng vững và đạt tới 125
ngàn tấn trong năm 1999 (nhu cầu tiêu trắng là 30000 - 32000 tấn). Theo IPC,
tình trạng dư cầu hạt tiêu tiếp tục kéo dài trong suốt năm 2000. Năm 2002,
lượng xuất khẩu tiêu cả năm đạt khoảng 80 ngàn tấn, đứng đầu thế giới về
xuất khẩu hạt tiêu đen. Kim ngạch đạt 110 triệu USD, tăng 23% so với năm
trước. Giá xuất khẩu bình quân tiêu đen là 1,610USD/T (loại 500g/lít, FOB
TP Hồ Chí Minh). Dự báo giai đoạn 2001 - 2205, cung cầu hạt tiêu sẽ trở lại
cân bằng hơn do diện tích tiêu đang được mở rộng tại hầu hết các nước sản
xuất.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 40 -
Mặt hàng chè:
Theo số liệu của Bộ NN & PTNT, đến cuối năm 1997, diện tích chè cả nước
đạt gần 80.000 ha. Sản lượng chè búp khô đạt khoảng 52,5 ngàn tấn, xuất
khẩu 32 ngàn tấn, đạt trị giá 48 triệu USD. Xuất khẩu chè năm 1998 đạt hơn
33 ngàn tấn, trị giá hơn 50 triệu USD, tăng gần 3% về lượng và 5,4% về trị
giá so với năm 1997. Xuất khẩu chè cả năm 2002 đạt 76 ngàn tấn, kim ngạch
86 triệu USD tăng khoảng 8 ngàn tấn và gần 8 triệu USD so với năm 2001.
Giá xuất khẩu bình quân 1.136USD/tấn.
Nếu so với khối lượng chè buôn bán trên thế giới (khoảng 1,2 triệu tấn/năm)
thì khối lượng xuất khẩu của ta rất nhỏ bé (chưa đầy 3%). Khối lượng nhỏ là
một trong những nguyên nhân chính cản trở ngành chè tiếp cận các bạn hàng
lớn và ổn định. Chè của ta được tiêu thụ khá rải rác, từ I-rắc, Libi, Angiêri đến
Anh, Pháp, Ba Lan, Nga, Nhật Bản, Hongkong, Đài Loan, Mỹ,... mỗi nơi một
ít. Không bạn hàng nào là bạn hàng chính.
Yếu điểm thứ nhất của ngành chè là năng suất thấp. Bình quân chỉ đạt
630kg/ha trong khi năng suất bình quân của một số nước trồng chè khác trên
thế giới đạt trên 1000kg/ha, thậm chí có những vùng đạt đến trên 2000kg/ha.
Nguyên nhân chính là do giống chè của ta chưa tốt. Phần lớn đều trồng chè
hạt. Diện tích trồng cành chỉ chiếm 10 - 15% diện tích vườn chè.
Yếu điểm thứ hai của ngành là kỹ thuật chăm sóc, canh tác, thu hái rất yếu
kém. Nhiều hộ nông dân tham lợi trước mắt nên thu hái chè không đúng quy
cách, không theo thời vụ, không đầu tư chăm sóc đầy đủ khiến vườn chè bị
khai thác cạn kiệt, cây chóng thoái hoá.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 41 -
Về chế biến, nhìn chung là sử dụng thiết bị công nghệ quá cũ kỹ do các nhà
máy phần lớn được xây dựng trong thời kỳ 1957 - 1977 với sự trợ giúp của
Liên Xô (cũ). Thiết bị máy móc như vậy làm chất lượng chè thấp, khó bán
được giá cao. Gần đây, ngành chè đã có gần 10 dự án liên doanh và hợp tác
chế biến chè với nước ngoài nên khâu chế biến đã có một số cải tiến, nhất là
dự án hợp tác với Nhật tại công ty Sông Cầu - Bắc Thái.
Ngoài những khó khăn nội tại, ngành chè còn gặp nhiều khó khăn về thị
trường tiêu thụ. Ngoài nguyên nhân sản lượng nhỏ bé, chất lượng yếu kém
như trên đã trình bày, còn có một số nguyên nhân khác như sau:
Việc thanh toán từ một số thị trường rất khó khăn, vừa chậm, vừa không an
toàn do họ thiếu ngoại tệ (như Nga) hoặc bị cấm vận (như I-rắc, Libi), hoặc
ngân hàng của ta chưa có quan hệ giao dịch vững chắc với ngân hàng của họ.
Các nước sản xuất chè lớn cạnh tranh rất mạnh với ta bằng cách cung cấp tín
dụng cho người nhập khẩu (Sri Lanka thường bán trả chậm từ 30 đến 60 ngày
cho khách hàng Nga và các nước SNG). Bằng cách này, họ đã giành được
nhiều hợp đồng lớn tại các nước trước đây vẫn mua chè của ta (Liên Xô trước
đây chỉ mua chè của ấn Độ và của ta, nay đã chuyển sang mua của Sri Lanka
và chiếm tới 20% tổng lượng chè xuất khẩu của Sri Lanka).
BẢNG 11: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CHÈ 5 NĂM 1997 – 2001
Năm SL xuất khẩu
(1000 tấn)
Giá trị xuất
khẩu (triệu
Giá xuất khẩu
bình quân
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 42 -
USD) (USD/tấn)
1997 32,3 47,9 1,480
1998 34,0 53,2 1,520
1999 36,4 45,2 1,240
2000 55,7 69,6 1,250
2001 69,0 78,0 1,130
Nguồn: Tổng cục thống kê
Lạc nhân:
Khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lạc là giá, Nhu cầu
trong nước đối với lạc đang ngày càng tăng nên giá nội địa thường xấp xỉ,
thậm chí cao hơn giá xuất khẩu. Thí dụ, nửa cuối tháng 4/1999, giá FOB lạc
nhân chỉ khoảng 570 - 580USD/T, tương đương 8,000 đồng/kg trong khi trên
thị trường thành phố Hồ Chí Minh lạc loại 1 được bán lẻ với giá 12,000
đồng/kg. Hà Nội 11,500 đồng/kg, nơi thấp nhất là Đà Nẵng cũng phải 8,500
đồng/kg. Xuất khẩu lạc nhân năm 1999, vì lý do đó, chỉ còn khoảng 60 ngàn
tấn, giảm tới hơn 30% so với năm 1998 mặc dù giá xuất khẩu FOB bình quân
tăng tới 20% so với năm 1998.
Thịt lợn:
Chăn nuôi, trong đó có chăn nuôi lợn, là ngành có tốc độ tăng trưởng trung
bình năm khá cao (từ 4 - 5%). Năm 1997 cả nước có gần 18 triệu con lợn, sản
lượng thịt đạt gần 1,2 triệu tấn. Xuất khẩu được 10,000T và đạt trị giá khoảng
27,7 triệu USD, trong đó có 500 tấn lấy từ đồng bằng sông Cửu Long, 9,500T
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 43 -
còn lại được chế biến và xuất khẩu từ miền Bắc (chiếm 4,5% sản lượng thịt
lợn của Miền Bắc).
Xuất khẩu thịt lợn đạt mức cao nhất là 25,000T vào năm 1991. Từ năm 1991
trở về trước, thị trường xuất khẩu chính là Liên Xô. Tương tự như rau quả,
xuất khẩu thịt lợn được thực hiện theo Hiệp định và Nghị định thư trao đổi
hàng hoá năm nên không thể hiện đúng sức cạnh tranh của thịt Việt Nam. Sau
khi Liên Xô tan ra, xuất khẩu thịt lợn lập tức giảm rất mạnh. Năm 1992 chỉ
xuất được hơn 12 ngàn tấn, bằng ẵ sản lượng đã xuất năm 1991. Đến năm
1996 chỉ còn khoảng 4,500T, chủ yếu là lợn sữa và thịt lợn choai xuất khẩu
sang Hongkong, một thị trường quan trọng khác của thịt lợn Việt Nam. Năm
2002, xuất khẩu thịt lợn cả năm đạt 14 - 15 ngàn tấn, kim ngạch khoảng 20
triệu USD, giảm 43% về lượng và 44% về giá trị so với năm 2001.
Năm 1997, lượng thịt xuất khẩu tăng hơn 100% so với năm 1996 nhưng tốc
độ tăng này chỉ mang tính chất tạm thời, chưa phản ánh đúng khả năng mở
rộng thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam. Xuất khẩu năm 1997 tăng
nhờ hai yếu tố chủ yếu:
Nga bãi bỏ lệnh cấm nhập khẩu thịt lợn từ Việt Nam. Lệnh cấm này được áp
dụng trong hai năm 1995 và 1996 sau khi Nga phát hiện thịt lợn của ta mang
mầm dịch.
Hongkong có dịch cúm gà nên dân chúng chuyển hướng sang tiêu dùng thịt
lợn. Đài Loan, nơi vẫn cung cấp thịt lợn cho Hongkong, phát hiện lợn bị bệnh
lở mồm long móng nên tạm ngừng xuất khẩu. Thịt của ta tạm thời có được vị
trí nhất định trên thị trường Hongkong.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 44 -
Sau khi Hongkong được trả về Trung Quốc và Đài Loan khắc phục được dịch
bệnh, số lượng và trị giá xuất khẩu thịt lợn của ta sang Hongkong lại trở về
mức trung bình trong nhiều năm. Giá lợn sữa giảm từ trên 3,000USD/T xuống
còn 1,200 - 1,300USD/T phần nào cũng vì lý do này.
Mặc dù ở gần một số thị trường tiêu thụ chính nhưng xuất khẩu thịt lợn của ta
vẫn chưa có được sức cạnh tranh bởi các nguyên nhân sau đây:
Chăn nuôi lợn chưa hướng vào xuất khẩu. Hình thức chăn nuôi chủ yếu là
quảng canh và phân tán về các hộ gia đình nên không có điều kiện giảm giá
thành và phổ biến kỹ thuật chăn nuôi hiện đại. Chất lượng thịt còn thấp, tỷ lệ
nạc chưa cao, giá thành nhiều khi còn cao hơn cả giá FOB nên rất khó đẩy
mạnh xuất khẩu.
Công nghiệp chế biến của ta hầu như chưa có gì. Cả nước chỉ có hai nhà máy
chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (1 ở Hải Phòng, 1 ở thành phố Hồ Chí
Minh) nên không thể đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có dung lượng
lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Trong mậu dịch thịt thế giới, Nhà nước thường phải đi trước một bước để lo
hạn ngạch cho các doanh nghiệp, lo ký các Hiệp định thú y và Hiệp định công
nhận kết quả kiểm dịch của nhau. Nhiều nước còn tiến hành trợ cấp, trợ giá
cho thịt lợn xuất khẩu. Do hạn chế về nguồn tài chính, ta chưa làm được
những việc này.
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 45 -
Ngoài các nguyên nhân trên, thịt lợn của ta còn gặp nhiều khó khăn khác ngay
tại các thị trường tiêu thụ truyền thống nên tốc độ phát triển chưa được như
mong muốn, cụ thể là:
Thị trường Nga:
Sau khi ký Hiệp định thú y, đầu năm 1997 Nga đã nhập khẩu trở lại thịt lợn
của ta nhưng số lượng còn khiêm tốn bởi mới có hai nhà máy được phép bán
thịt lợn vào Nga.
Quan hệ thanh toán với thị trường Nga găùp nhiều rủi ro. Ngay cả hình thức
thanh toán L/C cũng không đảm bảo bởi các ngân hàng Nga có thể phá sản
bất cứ lúc nào.
Các nước xuất khẩu lớn như Mỹ thường chấp nhận bán trả chậm cho Nga từ 6
tháng đến 1 năm mà không cần phải confirm. Doanh nghiệp của ta không
trường vốn để bán trả chậm và dù có vốn cũng không dám bán trả chậm bởi
chỉ cần doanh nghiệp Nga không thanh toán 1 lần là cụt vốn.
Việc xuất khẩu thịt vào Nga trong thời gian tới đây sẽ còn gặp nhiều khó
khăn. Trước hết là do kinh tế Nga đang suy yếu, sức mua giảm. Ngày
18/2/1999, Chính phủ Nga đã chính thưc ra Nghị định về việc tiếp nhận và
phân bổ lương thực, thực phẩm do Mỹ và EU viện trợ. Theo Nghị định này,
trong 6 tháng đầu năm 1999, Nga tiếp nhận và phân phối 420 nghìn tấn thịt
viện trợ với giá bình quân là 1,000USD/T CIF cảng Liên bang Nga (giá miễn
thuế nhập khẩu). Một số địa phương vùng Viễn Đông lâu nay vẫn nhập thịt
của ta cũng nằm trong diện được phân phối. Sau khi có tin chính thức về việc
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 46 -
phân phối hàng viện trợ, giá thịt lợn đông lạnh chào bán cho Nga chỉ còn
khoảng 680 - 720USD/T. Với giá này, thịt của ta không có khả năng chen
chân vào thị trường Nga, dù có được trợ cấp với mức hiện nay.
Thị trường Hongkong:
Sau khi Hongkong được trả về cho Trung Quốc, Trung Quốc đã tìm nhiều
cách tạo sức ép để khống chế đến 80% thị phần thịt lợn tại Hongkong. Ngoài
sức ép của thịt Trung Quốc, thịt lợn của ta còn phải chịu sức ép của thịt Thái
Lan. Chất lương thịt của Thái tốt, đồng Bath lại mất giá nên Thái có thể bán
thịt với giá quy ra USD hết sức cạnh tranh. Đầu ra khó khăn nên chính các
doanh nghiệp của ta cũng cạnh tranh lẫn nhau, cùng kéo giá xuống khiến
nông dân phải chịu thiệt thòi.
Trước những khó khăn nội tại và khó khăn về thị trường tiêu thụ như vậy,
nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu về thịt lợn trong những năm tới đây sẽ hết sức
nặng nề.
Qua thực trạng xuất khẩu các mặt hàng nông sản chế biến của Việt Nam
như đã trình bày ở trên, có thể thấy được những vấn đề sau:
Một là, thành tích xuất khẩu nông sản chế biến trong giai đoạn vừa qua, mới
chỉ có thể được xem là “lớp váng” sẵn có trên bề mặt của sản xuất nông
nghiệp nước ta. Nhiều tiềm năng về sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông
sản chế biến khác chưa được khơi dậy và phát triển. Chính điều này đang làm
cách biệt nhiều hơn giữa các vùng sản xuất nông nghiệp trong nước và hạn
Suu tap boi: www.Camerahanoi.com Vao muc Download de tim Luan van + Do an mien phi
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 47 -
chế khả năng mở rộng danh mục sản phẩm nông nghiệp chế biến xuất khẩu
của Việt Nam.
Hai là, sự manh mún về ruộng đất, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao
động thấp, trình độ phát triển thị trường ở các khu vực nông thôn thấp,... đã
gây nên trì trệ trong quá trình phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá,
đặc biệt là nền sản xuất nông sản chế biến hướng đến xuất khẩu. Các nguồn
hàng nông sản phần lớn chỉ có quy mô nhỏ, phân tán, do đó, không kích thích
được các hoạt động chế biến nông sản phát triển, tạo ra các sản phẩm có tính
xã hội hoá cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Ba là, những khó khăn về vốn đầu tư và trình độ hiểu biết về công nghệ chế
biến các sản phẩm nông nghiệp cũng đã góp phần làm hạn chế sự phát triển
của công nghiệp chế biến nói chung và chất lượng các sản phẩm nông nghiệp
chế biến xuất khẩu nói riêng. Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp
Việt Nam giảm sức mạnh cạnh tranh trên thị trường thế giới, nhất là các thị
trường có sức mua cao và yêu cầu chất lượ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Định hướng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt Nam.pdf