MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 5
CHƯƠNG 1: TRÍ THỨC VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM 5
1.1.Trí thức với sự phát triển của xã hội 5
1.2. Thực trạng Đội ngũ trí thức việt nam 14
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC 23
2.1. Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam và những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ trí thức 23
2.2. Đội ngũ trí thức Việt Nam lực lượng cơ bản cho việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện, đại hoá đất nước 33
2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 45
KẾT LUẬN 56
63 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4474 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại tạo lập nền tảng vật chất kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của phương thức sản xuất mới.
Như vậy xét tổng thể Công nghiệp hoá là một quá trình cải biến toàn diện nền kinh tế. Một mặt đây là quá trình thay thế phương thúc sản xuất dựa vào kỹ tuật thủ công, mặt khác còn là quá trình cải biến các phương thức sản xuất tiền tư bản thay thế bằng các phương thức sản xuất dựa trên nguyên tắc thể chế mới - nguyên tắc thị trường.
Hiện đại hoá là đưa những yếu tố, những công nghệ mới hiện đại vào sản xuất. Hoặc có thể hiểu là quá trình công nghiệp sử dụng những yếu tố của công nghệ thuộc thế hệ mới nhất hoặc không xa thế hệ mới nhất là bao nhiêu vào quá trình sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Riêng trong công nghiệp thì chuyển từ công nghiệp khai thác sang chế biến. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một chiến lược phát triển nền kinh tế xã hội trong một thời gian dài. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được hiểu như một chiến lược phát triển có phương hướng mục đích của nền kinh tế.
Công nghiệp hoá còn là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng xuất lao động cao. Như vậy mục tiêu chính của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng năng xuất lao động xã hội-cái quyết định cho sự tồn tại xã hội. Bàn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định:"Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện cùng với phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động cao"[4,tr65]. Như vậy thực chất công nghiệp hoá là sự phát triển công nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội (công nghiệp , nông nghiệp dịch vụ ) từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ cao, hiện đại. Lực lượng lao động sẽ chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, và trình độ tay nghề học vấn
2.1.2. Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
Đối với nước ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa xã hội Đảng ta đã xác định "đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xâydựng nền kinh tế độc lộc tự chủ, đưa nuớc ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo địn hướng xã hội chủ nghĩa " [ 7,tr. 24]
Hệ thống quan điểm chỉ đạo việc triển khai công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước được xác định như sau:
-Công nghiệp hoá, hiện đại hóa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
-Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
-Khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
-Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng cường kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Trong toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hoá, khái niệm trung tâm là công nghệ mới. Do vậy, bàn đến công nghiệp hoá, trước hết, người ta hiểu rằng, công nghiệp hoá là quá trình trang bị hoặc trang bị lại công nghệ mới cho các ngành sản xuất trong nước, đặc biệt là đối với các ngành then chốt. Yêu cầu làm chủ công nghệ mới, nhất là công nghệ cao, là hết sức bức thiết. Việc nhập công nghệ mới, làm chủ nó là biến công nghệ mới thành của mình đòi hỏi cần đến trình độ trí tuuệ cao của người lao động. Do vậy, lực lượng đi đầu trong việc tiếp cận với công nghệ mới nắm chắc nó, sử dụng nó phải là những nhà khoa học công nghệ - những trí thức. Khi khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trí thức là lực lượng sản xuất có vai trò nòng cốt trước yêu cầu nhập công nghệ mới, chuyển giao công nghệ đó cho công, nông.
Công nghiệp hoá là quá trình làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế của xã hội. Tỷ trọng GDP trong nông nghiệp sẽ giảm xuống, tỷ trọng trong công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Sự chuyển đổi này sẽ dẫn theo hiện tượng cấu trúc lại lực lượng lao động trong xã hội. Sẽ có hàng chục triệu nông dân chuyển sang lao động công nghiệp; số nông dân còn lại sẽ trở thành những công nhân nông nghiệp hoặc những lao động nông nghiệp được đào tạo chuyên môn cao dần, nắm trong tay những công nghệ mới. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là một quá trình đẩy mạnh sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chứ nó không chỉ đơn thuần bao hàm quá trình kinh tế - kỹ thuật. Sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đây chủ yếu là quá trình đẩy mạnh các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng dân số và cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quy mô đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài trên cơ sở không ngừng nâng cao dân trí, nâng dần mức hưởng thụ văn hoá cho người lao động v.v… Công nghiệp hoá là một quá trình mở cửa để chủ động hội nhập với thế giới hiện đại, giao lưu với các nền văn minh trên thế giới, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là quá trình nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ hai (khoá VIII) đã ra Nghị quyết số 02-NQ/HNTW “về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”. Nghị quyết đã khẳng định đến năm 2020 phải phấn đấu xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để đạt mục tiêu này, cần phải quán triệt những quan điểm sau đây:
-Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học, công nghệ. Đảng và Nhà nước có chính sách đầu tư khuyến khích, hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ.
-Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa phải phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết hớp với tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ thế giới.
-Xây dựng đội ngũ trí thức giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý chí và hoài bão lớn, quyết tâm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp như mục tiêu về công nghiệp hoá, hiện đại hóa mà Đảng đã nêu trong Nghị quyết.
Về mô hình công nghiệp hoá ở nước ta, quan điểm của Đảng như sau: Đảng ta chủ trương không lặp lại những mô hình công nghiệp hoá cổ điển, mà tự tìm lấy một mô hình phù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện thế giới ngày nay. Để làm được việc ấy, giáo dục và khoa học phải tạo ra những con người đủ kiến thức và năng lực lựa chọn, thích nghi và sáng tạo công nghệ mới và hiện đại hoá những công nghệ truyền thống, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, làm ra nhiều sản phẩm với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu
2.1.3. Đặc điểm của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta trong thời kỳ hiện nay
Trong thời kỳ hiện nay đặc điểm của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là "Tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với kinh tế tri thức "[ 1,tr. 4-5]
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa điều cần thiết trước hết là phải nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế của nước ta. Đó là mục tiêu thực hiện "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh"giải phóng sức xản xuất, năng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chức của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, hoàn thiện chế đọ phân phối theo lao động, hiệu quả kinh tế đồng thời theo mức đóng góp vốn. Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý điều tiết của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng và nhà nước ta đã xác định phải tiến hành đồng thời cả ba mặt:
+Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước làm tốt các vai trò chức năng định hướng bằng các chiến lược và sách lược, quy hoạch và chính ách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Tạo môi trường pháp lý lành mạnh để phát huy các nguồn lực của xã hội cho sự phát triển. Bảo đảm tính tích cực tính bền vững của nền kinh tế tránh tói đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
+Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trưòng cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh cung với sự phát triển mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường lao động, cần phát triển vững chắc thị trường tài chính, phát triển thị trưòng khoa học và công nghệ.
+Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất và kinh doanh. Các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế định hướng xã hôi chủ nghĩa .
Trong cả ba mặt này vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam phải đóng vai trò là động lực, đi đầu trong nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ cũng như tham mưu cho Đảng trong việc xây dựng hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xẫ hội.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá gắn liền với kinh tế tri thức. Chúng ta phải tranh thủ các cơ hộ thuận lợi do bối cảnh quôc tế tạo ra và tiềm năng và lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với nền kinh tế tri thức. Phát triển kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế công nghiệp hoá hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành kinh tế, các sản phảm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa vào tri thức.
Đảng và nhà nước đã chủ trương"đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân "[1,tr. 4]chúng ta phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn liền với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng xuát chất lượng và sức cạnh tranh. Chúng ta phải khẩn trương xâydựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện quá trình xây dựng nông thôn mới. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi dôi với với nâng cao dân trí, chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ lệ lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
Trong việc "phát triển công nghiệp xây dựng và dịch vụ" Đảng và Nhà nước ta khuyến khích phát triển các nghành công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mền và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút niều lao động. Phát triển và mở rộng các khu công nghiệp và chế xuất. Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia các nganh công nghiệp sản xuấ hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Sản xút tư liệu sản xuất theo hương hiện đại, ưu tiên th hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế và các công ty đa quốc gia. Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước đâù tư và phát triển một số dư án quan trọng tạo tiền đề xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Chúng ta chủ trương " phát triển kinh tế vùng"[ 1,tr. 5] thông qua các chính sách phù hợp tạo điều kiện cho các vùng trong cả nước cùng phát triển đồng thời tạo ra sự liên kết trong các vùng miền,"phát triển kinh tế biển"[1,tr. 5] theo chiến lược toàn diện."Phát triển khoa học và công nghệ "ở nước ta phải phù hợp với xu hướng phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học công nghệ thế giới. Cố gắng đi ngay vào công nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vực then chốt và tưng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Việc tìm kiếm mô hình đã khó, nhưng việc giải quyết những vấn đề chung cho các mô hình công nghiệp hoá lại càng khó, đòi hỏi phải có trình độ trí tuệ của thời đại mới có thể giải quyết được.
2.1.4. Những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ trí thức
Ở nước ta, trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc vô cùng quan trọng, là lượng cơ bản hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Để đáp ứng nhưng nhu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá, đội ngũ trí thức Việt Nam cần có những năng lực và phẩm chất chủ yếu sau: nghiên cứu và nắm vững chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận, kim chỉ nam cho hoạt động của mình. Người trí thức rất cần có thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn khoa học, cách mạng. Chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống khoa học định hướng chuẩn xác cho quá trình tư duy, hoạt động khoa học sáng tạo của người trí thức. Hơn nữa chúng ta đang xây dựng đất nước theo con người đường xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ trí thức nước ta cũng như những giai cấp tầng lớp khác hoạt động theo sự chi phối của cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Nghiên cứu khoa học cũng phải làm luân cứ cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghiên cứu phải hướng vào những vấn đề lý luận và thực tiễn dự báo các xu thế phát triển,cung cấp luân cứ cho việc hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương phát triển kinh nghiệm tế xã hội.
Đội ngũ các nhà khoa học ở nước ta còn thiếu và chưa đủ sức vươn tới toàn bộ hệ tri thứcc của nhân loại. Điều kiện vật chất -kinh tế xã hội nhất là trình độ tổ chức khoa học ở nước ta còn hạn hẹp chưa tạo ra môi trường đồng đều cho các hướng nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy chúng ta phải đi thẳng vào công nghệ hiên đại đối với các ngành mũi nhọn
Trí thức phải là người có trình độ chuyên môn giỏi kết hợp với khả năng tổ chức, quản lý sử dụng nhưng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Căn cứ cho đòi hỏi này là : khoa học phải trở thành lượng sản xuất trực tiếp trên thế giới cũng như trong nước, giá trị nghiên cứu khoa học được nhân lên gấp bội, nếu những kết quả nghiên cứu đó phải được áp dụng ngay cho con người cho xã hội các nhà khoa học phải biết tổ chức quản lý quá trình nghiên cứu và đưa vào áp dụng những kết quả nghiên cứu trong thực tiễn, trí thức phải có kiến thức tổng hợp ( khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ ) để giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra .
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có nhiều vấn đề nan giải đặt ra như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái khủng hoảng năng lượng dân số và việc làm. Nếu chỉ có kiến thức ở lĩnh vực riêng rẽ nào đó thì đều không đủ. Đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay hoạt động trong điều kiện quốc tế hoá toàn câù hoá các lĩnh vực tri thức khác nhau, cho nên phải thông thạo niều ngoại ngữ, mặt khác phải biết sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để có thể tiếp thu và trao đổi với trí thức thế giới.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một công việc mới mẻ, phức tạp nên việc nhận thức đúng bản chất, con đường và bước đi của quá trình này là tối quan trọng. Đội ngũ trí thức phải hiểu biết thực tế, nhạy cảm với những vấn đề do thực tế đề ra để thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một cách nhanh chóng và phù hợp với điều kiện thực tế và hoàn cảnh của nước ta
Để Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 thì tốc độ tăng trưởng trung bình từ nay tới đó khoảng 10%/năm. Điểm lại sự phát triển của các nước trên thế giới, chưa thấy có nước nào giữ được mức tăng trưởng cao và bền trong hơn 20 năm. Chỉ số tăng trưởng kinh tế 10% năm đặt phía trước chúng ta quả là một thách thức lớn. Nhưng, vấn đề không chỉ là tăng trưởng để tạo ra GDP ngày càng lớn, mà còn là nhằm đạt tới trình độ văn hoá và văn minh cao hơn. Do đó để góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, đội ngũ trí thức phải là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất một cách chủ động.
2.2.Đội ngũ trí thức Việt Nam lực lượng cơ bản cho việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện, đại hoá đất nước
Không chỉ ở Việt Nam ta mà ở tất cả các nước trên thế giới đều nhất trí rằng sự hiểu biết, khả năng sáng tạo của mỗi con người là thứ tài sản quý giá nhất của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và còn là của toàn thể nhân loại. Vốn trí tuệ là nguồn lực thúc đẩy sáng tạo là sức mạnh nội sinh tạo ra sự phát triển của đất nước .
Ngày nay trên thế giới người ta đánh giá thế mạnh của một quốc gia chủ yếu vào vốn tài chính và vốn tri thức. Vốn tài chính chính là những tài sản hữu hình còn vốn tri thức là sự phản ánh tiềm năng của một quốc gia. Do vậy quốc gia nào có nhiều tiềm năng về vốn tri thức cung như biết sử dụng một cách hợp lý thì quốc gia đó sẽ phát triển nhanh bền vững. Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì yêu cầu đối với đội ngũ trí thức ngày càng cao. Trí thức lúc này không chỉ là những người có bằng cấp mà còn phải là những người lao động có trí tuệ sáng tạo, gắn sự nhgiệp của mình với với xã hội, với lý tưởng mà mình theo đuổi. Xã hội ngày càng phát triển thì đội ngũ trí thức càng phải đóng vai trò quan trọng và phải thực sự là lực lượng sản xuất trực tiếp .
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta là mục tiêu lâu dài, thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá là mục tiêu trước mắt. Để thực hiện thàn công mục tiêu lâu dài cũng như trước mắt đòi hỏi giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nước ta phải tiến hành hàng lọt những sáng tạo lịch sử với sự tham gia tích cực của đội ngũ trí thức. Như V.I.Lênin đã từng nói " không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tổ chức quần chúng để đi tới một năng xuất lao động cao hưn năng xuất của chủ nghĩa tư bản dựa trên những cơ sở mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được[16,tr. 217]
Bước vào thế kỷ XXI trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh như vũ bão. Hầu các nước trên thế giới đều quyết tâm xây dựng nền kinh tế tri thức dù là nước đã phát triển hay chưa phát triển.
Thế giới đã toàn cầu hoá nhiều mặt của đời sống xã hội. Đây là cả một vấn đề lớn, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và sự kiên định, dũng cảm của toàn thể nhân dân ta. Nhân tố con người là cực kỳ quan trọng, nhưng ở đây, là con người được hiểu không như là một lao động đơn giản mà với tư cách là con người có trí tuệ và là nhân cách văn hoá, có bản lĩnh văn hoá dân tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Chỉ có con người Việt Nam mang bản sắc dân tộc trong văn hoá Việt Nam, là chủ thể về trí tuệ và văn hoá Việt Nam mới thực sự giữ vai trò quyết định sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta. Trong nhân tố con người phải nói đến trí thức hay con người trí tuệ, đồng thời cũng phải đề cập đến văn hoá, tức con người có phẩm chất văn hoá, nhân cách văn hoá, bản lĩnh văn hoá.
Con người là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của lịch sử, nhưng đồng thời lại là con người tạo ra lịch sử. Hơn nữa, đối với chủ nghĩa xã hội, thì như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Trong quan hệ mật thiết với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa vì sự phát triển chủ nghĩa xã hội, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng là nội lực trí tuệ và văn hoá của toàn dân tộc. Đó là nội lực trí tuệ và văn hoá của toàn xã hội, nội lực trí tuệ và văn hoá từng ngành, nội lực trí tuệ và văn hoá của đông đảo nhân dân và của từng cá nhân cụ thể. Đây là quan điểm có ý nghĩa lý luận cần được quán triệt khi nói đến vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức. Nếu không thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao không ngừng trí tuệ và nền văn hoá chung của toàn xã hội thì cũng sẽ không thấy được động lực phát triển xã hội cũng như động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nhờ vào sức mạnh văn hoá truyền thống, Việt Nam đã chiến thắng những tên đế quốc đầu sỏ nhất để giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đưa nước ta lên vị thế một nước được cả nhân loại tiến bộ thừa nhận là có tiềm năng phát triển to lớn. Đến nay, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nội lực đó phải được phát huy mạnh mẽ bằng những chính sách mới của Đảng. Nếu không, đất nước sẽ không tranh khỏi tình trạng tụt hậu về nhiều mặt.
Tuy nhiên, không phải ai cũng thấy được vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong lịch sử phát triển của xã hội hói chung, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nói riêng, nếu không xuất phát từ một quan điểm lý luận rõ ràng về người trí thức cũng như mối quan hệ giữa đội ngũ trí thức với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, trước hết là mối quan hệ giữa trí thức với công nhân và nông dân khối đại đoàn kết dân tộc.
Từ thực tiễn những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga V.I.Lênin đã từng nhận định rằng nếu không có tri thức, trí tuệ học vấn không có sự tham gia của đội ngũ trí thức thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hôi chủ nghĩa cộng sản "Chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, nếu không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là một nguyện vọng mà thôi "[32,tr. 364-365]
Xuyên suốt lịch sử dân tộc đến đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, ta thấy có sự nhất quán trong nhận định về vị trí, vai trò người trí thức đối với đất nước cũng như sự nghiệp cách mạng. Nhưng trong diễn biến lịch sử đôi khi vẫn không có sự nhất quán vào lúc này hay lúc khác, ở người này hay người khác. Điều đó không chỉ xảy ra ở nước ta mà còn thấy ở hầu khắp các nước trên thế giới, không chỉ thấy ở thời điểm lịch sử hiện nay mà cũng có thể nói ở mọi thời kỳ khác nhau của lịch sử nhân loại. Cho nên, không phải ngẫu nhiên một nhà khoa học lịch sử. Ở đội ngũ trí thức nói chung, trong đó có đội ngũ trí thức Việt Nam nói riêng vẫn cần được hiểu sâu sắc thực chất họ là ai, họ quan trọng như thế nào, vì sao họ lại có vị trí quan trọng và mối quan hệ giữa họ với nhân dân và dân tộc cũng như với tiến trình phát triển của mỗi dân tộc và nhân loại nói chung. Do đó, cần phải thấy rõ vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta.
2.2.1. Đội ngũ trí thức Việt Nam cung cấp luận cứ khoa học cho đường lối chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Xác định mô hình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một cách phù hợp là một công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi có sự tham gia, tập trung của nhiều nhà khoa học ở các lĩnh vực khoa học khác nhau như khoa học tự nhiên, xã hội,kỹ thuật, công nghệ. Xuất phát từ tình hình thực tiễn không có mô hình công nghiệp hoá chung cho các nước. Trong khối ASEAN các nước như Thailand, Malaysia, Singapor đều có những mô hình phát triển riêng dựa vào những ưu thế thuận lợi của quốc gia mình.
Để có đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đúng đắn chúng ta phải khi thác những ưu thế của mình, hội nhập được với nền kinh tế thế giới. Sau 20 năm đổi mới chúng ta thấy rằng nếu không có mô hình, mục tiêu công nghiệp hoá thích hợp thì đất nước không thể phát triển. Nguyên nhân có thể hiểu là do việc nhận thức về công nghiệp hoá hiện đại hoá của chúng ta còn khá đơn giản máy móc chỉ quen việc áp đặt rập khuôn mô hình của Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng ta đã chậm trong điều chỉnh khắc phục những tồn tại yếu kém, thiếu những tổng kết kinh nghiệm. Nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hóa ở nước ta lại quá rộng chỉ chú trọng vào phát triển công nghiệp nặng, phát triển khép kín trong khi đó xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu .
Do đó đường lối công nghiệp hoá đúng đắn thì phải biết khai thác lợi thế của mình vừa hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Đó chính là nhu cấu xuất phát từ thực tế trong con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. Thực hiện nhiệm vụ này không ai khác là đội ngũ trí thức với những đặc điểm và thế mạnh riêng của mình.
Thực tế, trong quá trình quá trình tực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa qua, đội ngũ trí thức Việt Nam đã tực hiện nhiều chương trình, đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước, cấp bộ, cấp cơ sở. Tiêu biểu nhất là hệ chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 1991-1995, 1996-2000, 2001-2005. Kết quả nghiên cứu những chương trình, đề tài trên đã là cơ sở để Đảng ta từng bước xác định: mô hình bước đi của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. Đúng như khẳng định của Đảng tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương hai KhoáVIII:"Nhiều kết luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới"[6,tr. 50]
2.2.2. Đội ngũ trí thứcViệt Nam tham gia trực tiếp và tích cực vào việc truyền bá tri thức khoa học, đường lối chính sách công nghiệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.doc