MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ CHẾ ĐỘ CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1
I. Khái quát về cho thuê tài chính 1
1. Khái niệm cho thuê tài chính và chế độ cho thuê tài chính 1
2. Sự khác biệt giữa cho thuê tài chính với hình thức cho thuê vận hành và các hình thức tín dụng khác 4
3. Các phương thức và hình thức cho thuê tài chính 6
4. Vai trò của cho thuê tài chính 9
4.1.Đối với bên cho thuê 10
4.2. Đối với bên thuê 10
4.3 Đối với nền kinh tế 12
5. Rủi ro có thể xảy ra trong giao dịch Cho thuê tài chính 13
5.1. Rủi ro liên quan đến tài sản 13
5.2. Rủi ro về tài chính 14
5.3. Các rủi ro chung trong kinh doanh 15
6. Hợp đồng cho thuê tài chính 16
6.1. Khái niệm 16
6.2. Các điều khoản cơ bản của hợp đồng 17
III. Một số đặc điểm về chế độ cho thuê tài chính trên thế giới và bài học kinh nghiệm với Việt Nam 17
1. Tình hình hoạt động cho thuê tài chính trên thế giới 18
2. Một số đặc điểm về chế độ cho thuê tài chính trên thế giới 20
2.1. Về tiêu chuẩn Công ty hoạt động Cho thuê tài chính 20
2.2. Về giao dịch cho thuê tài chính 22
3. Kinh nghiệm rút ra từ Chế độ cho thuê tài chính ở Đức và Hàn Quốc 23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ CHẾ ĐỘ CHO THUÊ TÀI CHÍNH HIỆN NAY Ở VIỆT NAM 30
I. Sự cần thiết và tình hình hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam 30
1. Sự cần thiết phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam 30
1.1. Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu đổi mới thiết bị và công nghệ của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế nước ta 31
1.2. Những khó khăn trong việc tạo nguồn vốn để thay thế thiết bị và đổi mới công nghệ tạo nên sự cần thiết phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam 33
2. Tình hình hoạt động Cho thuê tài chính tại Việt Nam 36
3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong hoạt động cho thuê tài chính 40
II. Thực trạng về chế độ Cho thuê tài chính ở Việt Nam 42
1. Quá trình hoàn thiện Chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam 42
2. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam 44
3. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến các phương thức cho thuê tài chính 49
4. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến biện pháp phòng ngừa rủi ro 52
5. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến việc nhập khẩu, đăng ký, cấp giấy phép sử dụng tài sản cho thuê tài chính. 55
6. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến các quy định khác 57
6.1. Về tài chính, hạch toán và chế độ báo cáo của công ty cho thuê tài chính. 57
6.2. Quy định về quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản thuê tài chính 58
6.3. Chế độ thuế đối với hoạt động cho thuê tài chính 59
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 62
1. Những thuận lợi đối với hoạt động cho thuê tài chính thời gian tới 62
2. Một số khó khăn trong thời gian tới 63
3. Một số định hướng hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam 64
4. Một số giải pháp cụ thể.67
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
95 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1072 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp hoàn thiện chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiền thân của Công ty là Phòng tín dụng thuê mua của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Ngoài ra còn có công ty Cho thuê tài chính I tại Hà Nội và công ty Cho thuê tài chính II đặt tại thành phố HCM đều thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Ngoài các công ty cho thuê tài chính do các ngân hàng Việt Nam thành lập, thị trường cho thuê tài chính còn có sự góp mặt của các công ty Cho thuê tài chính liên doanh, làm cho hoạt động cạnh tranh cho thuê trở nên sôi động..
ở Ngân hàng công thương Việt Nam (Vietincombank), ngoài công ty cho thuê tài chính trực thuộc, ngân hàng còn liên doanh thành lập công ty cho thuê tài chính quốc tế Việt Nam (VILC) với ngày 29/10/1996 với 4 định chế tài chính quốc tế : Japan Credit Bank (NCK) với 17% vốn pháp định, Korea Industrial Leasing Company (KILC) với 32% vốn pháp định, Banque Francaise du Commerce Extérieur (BFCE) đóng 17% và International Financial Company (IFC)đóng 15% vốn pháp định, ngân hàng công thương Việt Nam đóng góp 19% vốn pháp định. Với vốn điều lệ 5 triệu USD, đây là công ty liên doanh đầu tiên ở Việt Nam trong lĩnh vực thuê mua tài chính.
Một công ty cho thuê tài chính liên doanh với nước ngoài khác nữa là Công ty Cho thuê tài chính Việt Nam (VINALEASE). Đây là liên doanh giữa Vietcombank với ngân hàng Longterm Credit Bank of Japan và công ty Japanese Leasing Company của Nhật Bản. Chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/12/1997 với tổng vốn điều lệ là 10 triệu USD, đến nay VINALEASE đã thu hút được hơn 400 doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tổng trị giá trang thiết bị cho thuê lên tới hơn 3 triệu USD.
Ngày 6/7/1996, Công ty cho thuê tài chính có 100% vốn nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép thành lập- Công ty cho thuê tài chính KEXIM Việt Nam (Hàn Quốc).
Mới đây nhất , công ty cho thuê tài chính liên doanh 100% vốn nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động là Công ty ANZ-V-TRACT chính thức hoạt động từ tháng 1/2000.
Hiện nay, với các văn bản pháp luật ban hành nhằm tạo thuận lợi hơn cho hoạt động cho thuê tài chính đã khiến cạnh tranh trên thị trường này ngày càng sôi động.
* Đánh giá thị trường cho thuê tài chính Việt Nam
Hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua vẫn chưa xứng với tiềm năng và vai trò của nó mang lại cho nền kinh tế. Điều này có thể minh chứng qua thực trạng cho thuê tài chính trong thời gian qua.
Về tổng doanh số cho thuê của các công ty Cho thuê tài chính tính đến cuối năm 2002 đạt trên 1.200 tỷ đồng, chiếm khoảng 60% so với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 0,5% so với các ngân hàng thương mại. Riêng hai công ty CTTC của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn thành lập từ tháng 7/1998, sau hai năm hoạt động đạt doanh số trên 330 tỷ đồng, dư nợ đạt 250 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 22 tỷ đồng. Xét tổng doanh số của các công ty CTTC trong năm 2001 chỉ dưới 500 tỷ đồng, đến 2002 đã tăng thêm một chút khoảng 560 tỷ đồng. Điều này cho thấy rõ sự phát triển của thị trường CTTC; nhưng cũng cho thấy thị trường còn...thưa thớt, chưa thu hút được đông khách đến thuê. Như vậy, tỷ trọng của khối Cho thuê tài chính trong hệ thống tài chính tín dụng hiện nay về mặt số lượng và giá trị tài sản có đang còn ở mức rất khiêm tốn.
- Xét về nguồn vốn của các công ty CTTC ở đầu năm 2002 thì vốn tự có của 9 công ty là 623,4 tỷ đồng, chiếm 77% so với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 3,5% so với các ngân hàng thương mại. Còn việc huy động vốn của các công ty cho thuê tài chính, cho đến nay có thể nói là đang ở mức độ thấp, hầu hết các công ty cho thuê tài chính mới hoạt động bằng vốn điều lệ. Công ty CTTC đi vay trong nước nhiều nhất là công ty VILC (63,5 tỷ đồng). Toàn bộ số vốn huy động của các công ty cho thuê tài chính khoảng 137 tỷ đồng, chiếm 33% so với tổng vốn huy động của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 0,11% so với tổng vốn huy động của các ngân hàng thương mại.
- Về tình hình sử dụng vốn, tổng dư nợ cho thuê tài chính đạt gần 481 tỷ đồng, chiếm 89% so với tổng dư nợ vay trung và dài hạn của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 2,2% so với các ngân hàng thương mại.
Nhìn chung, trong năm 2001 và năm 2002 hầu hết các công ty cho thuê tài chính đều có lợi nhuận trước thuế. Tuy nhiên nếu tính cả thuế vốn (thuế tính trên số sở hữu của Nhà nước) thì một số công ty cho thuê tài chính của các ngân hàng thương mại còn lỗ. Còn đối với các công ty cho thuê tài chính có vốn nước ngoài thì trong những năm đầu hầu hết là bị lỗ. Vậy những nguyên nhân nào làm cho hoạt động cho thuê tài chính lỗ và hầu hết các công ty cho thuê tài chính mới chỉ sử dụng đến vốn điều lệ của mình, chiếm thị phần rất nhỏ (chỉ 0,2%) và dư nợ cho thuê cũng rất khiêm tốn trong hoạt động tín dụng của cả nước (chỉ chiếm 0,9%). Nếu tính theo số dư nợ, thì dư nợ của hệ thống ngân hàng năm 2002 đạt trên 170 ngàn tỷ đồng, trong khi đó dư của các công ty cho thuê tài chính chưa đạt tới 1000 tỷ đồng.
3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong hoạt động cho thuê tài chính
Theo nghiên cứu thì có những nguyên nhân sau:
- Thứ nhất: Mặc dù ra đời ở Việt Nam đã gần 7 năm nhưng Cho thuê tài chính xem ra vẫn là loại hình dịch vụ tài chính mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy sự hiểu biết về nghiệp vụ này của các doang nghiệp, thậm chí của cả công ty Cho thuê tài chính còn rất mơ hồ. Điều này làm giảm áp lực “ cầu” về Cho thuê tài chính, và làm cho hoạt động Cho thuê tài chính phát triển chậm.
- Thứ hai: Phí cho thuê còn quá cao, cao hơn lãi suất đi vay khoảng 20% vì đa số công ty Cho thuê tài chính đều phải đi vay vốn trung và dài hạn để mua thiết bị, máy móc, động sản để cho thuê mà không được huy động tièn gửi, thêm vào đó là các chi phí hoạt động của các công ty Cho thuê tài chính như: phí bảo hiểm, quảng cáo, thẩm định dự án, quản lý v.v... nên giá cho thuê thường cao hơn lãi suất cho vay trung, dài hạn của các NHTM từ 20- 25%. Do vậy nên không hấp dẫn được người đi thuê.
- Thứ ba: Quy định về bắt buộc phải đăng ký tài sản cho thuê là phương tiện vận tải tại tỉnh, thành phố nơi công ty đang đóng trụ sở là không phù hợp, quá cứng nhắc.
- Thứ tư: Khách hàng đi thuê tài chính phải chịu thêm thuế, bởi lẽ thuế giá trị gia tăng (GTGT) được hạch toán vào giá trị tài sản cho khách hàng thuê vì công ty Cho thuê tài chính thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, nên không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của những máy móc thiết bị mua. Như vậy, khi khách hàng thuê tài sản thông qua công ty cho thuê tài chính sẽ phải chịu thêm khoản phí này. Trong khi đó, nếu khách hàng vay tiền của ngân hàng để tự mua và trả thuế GTGT cho nhà cung cấp, thì sẽ được quyền khấu trừ thuế đầu vào theo hoá đơn.
- Thứ năm: Phạm vi của hoạt động cho thuê tài chính quá hẹp, chỉ gồm các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng tài sản thuê theo mục đích kinh doanh đã đăng ký. Trong khi đó, nhu cầu đi thuê tài sản theo hình thức cho thuê tài chính còn nảy sinh từ nhiều tổ chức cá nhân khác như các trường học, bệnh viện, các hộ kinh doanh cá thểv.v...
- Thứ sáu: Theo các công ty CTTC, hiện nay họ đang gặp phải những khó khăn trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của họ, mà khó khăn lớn nhất là nguồn vốn vay trong nước. Mặc dù đã được Luật các Tổ chức tín dụng công nhận là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, thế nhưng các công ty Cho thuê tài chính chỉ có thể vay ngắn hạn có thế chấp tài sản như một tổ chức kinh doanh thông thường khác để cho thuê trung- dài hạn. Vì chưa có hướng dẫn cụ thể của NHNN về chế độ cho vay giữa các tổ chức tín dụng nên các ngân hàng thương mại chưa thể áp dụng lãi suất cho vay liên ngân hàng đối với các công ty Cho thuê tài chính. Đây chính là yếu tố khiến lãi suất cho thuê của các công ty Cho thuê tài chính cao hơn của ngân hàng. Các công ty Cho thuê tài chính có muốn hạ lãi suất cũng không thể được vì lãi suất vốn đầu vào đã cao.
- Thứ bảy: Theo quy định, các công ty Cho thuê tài chính phải thu tiền thuê bằng VND trong khi máy móc thiết bị cho thuê lại được mua bằng ngoại tệ hoặc vay nợ nước ngoài (cũng bằng ngoại tệ) và chỉ được phép mua ngoại tệ khi đến hạn trả nợ nước ngoài hoặc chuyển lợi nhuận về nước... Quy định này đã gây nhiều khó khăn cho các công ty Cho thuê tài chính về cân đối ngoại tệ và bảo toàn vốn điều lệ bằng ngoại tệ của mình. Vấn đề rủi ro hối đoái là không thể tránh khỏi, nhất là đối với những công ty phải vay vốn nước ngoài nhiều.
- Thứ tám: Các công ty Cho thuê tài chính xem trọng lịch sử của người thuê hơn là xem xét phương án sản xuất của doanh nghiệp có khả thi hay không. Ngoài ra, thủ tục cho thuê của các công ty Cho thuê tài chính quá chặt chẽ, phức tạp, chưa có nhiều hình thức cho thuê thích ứng với điều kiện hiện tại của các doanh nghiệp ở Việt Nam như: bán và cho thuê lại, bảo lãnh đối với khách hàng trong các giao dịch Cho thuê tài chính. Bên cạnh đó, vốn điều lệ của các công ty cho thuê tài chính còn quá thấp: 5 công ty cho thuê tài chính trực thuộc ngân hàng thương mại quốc doanh chỉ có vốn điều lệ là 55 tỷ đồng.
Qua phân tích các nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong hoạt động Cho thuê tài chính ở trên, ta có thể thấy rằng có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hoạt động Cho thuê tài chính ở nước ta còn nhiều yếu kém nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân cơ bản quan trọng nhất là do chế độ chính sách, hệ thống pháp lý cho hoạt động Cho thuê tài chính chưa thật hoàn thiện, còn một số vấn đề cần giải quyết. Chính vì vậy mà ta cần tìm hiểu để có những giải pháp hoàn thiện nó.
II. Thực trạng về chế độ Cho thuê tài chính ở Việt Nam
1. Quá trình hoàn thiện Chế độ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Chế độ Cho thuê tài chính ở thuê tài chính ở Việt Nam được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực Cho thuê tài chính ở Việt Nam.
ở Việt Nam, hoạt động Cho thuê tài sản đã xuất hiện từ rất sớm và được ghi nhận trong nhiều đạo luật như Lý Triều hình luật (thế kỷ XII), bộ Luật Hồng Đức (thế kỷ XV), Bộ Luật Gia Long (thế kỷ XIX). Tuy nhiên, trong thời kỳ phong kiến và thời kỳ Pháp thuộc do sản xuất kém phát triển, lại chủ yếu là sản xuất nông nghiệp giản đơn nên hoạt động Cho thuê tài sản rất ít diễn ra kèm theo là pháp luật về hoạt động này cũng hết sức sơ sài.
Mãi đến 29/4/1991, Pháp lệnh hợp đồng dân sự đưa ra những nguyên tắc chung nhất về các giao dịch dân sự trong đó hoạt động thuê tài sản mới được đề cập đến.
Pháp lệnh về nhà ở ngày 25/3/1991 đã giành một chương quy định về hoạt động thuê nhà ở.
Cho đến ngày 28/10/1995 Bộ Luật Dân sự đã được Quốc hội thông qua và hoạt động Cho thuê tài sản đã được pháp luật điều chỉnh chi tiết hơn, thành một định chế quan trọng trong bộ Luật này.
Tuy nhiên, Bộ Luật Dân sự cũng mới chỉ điều chỉnh hoạt động Cho thuê tài chính thông thường do vậy chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay về một loại hình hoạt động mới – hoạt động Cho thuê tài chính.
Ngày 27/5/1995 Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 149/ QĐ-NH5 ban hành thể lệ tín dụng thuê mua. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên và là nền tảng cho hoạt động Cho thuê tài chính ra đời sau này.
Ngày 9/10/1995 Chính phủ đã ra Nghị định số 64/ NĐ- CP Ban hành quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty Cho thuê tài chính tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là NĐ64CP) và ngày 9/2/1996 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 03/ TT- NHNN5 hướng dẫn cụ thể Nghị định này. Từ đây hoạt động Cho thuê tài chính chính thức ra đời và thực hiện theo quy chế độc lập so với các quy định về Cho thuê tài sản trong Bộ Luật Dân sự.
Ngày 12/12/1997 Quốc hội thông qua Luật các tổ chức tín dụng, Luật này có hiệu lực từ ngày 1/8/1998, đã thừa nhận hoạt động Cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng do các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là các công ty Cho thuê tài chính thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản dưới Luật quy định chi tiết, cụ thể hơn nữa về hoạt động này, tạo thuận lợi cho các bên tham gia tuân thủ pháp luật và việc quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này được dễ dàng như : Thông tư của Bộ Tài Chính số 49/1999/TT- BTC ngày 6/5/1999 Hướng dẫn thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động CTTC và ra Thông tư số 107/1999/TT- BTC Hướng dẫn kế toán thuế GTGT đối với hoạt động đi thuê tài chính vào ngày 1/9/1999...
Cho đến ngày 2/5/2001 Chính phủ đã ban hành văn bản hướng dẫn Luật các tổ chức tín dụng và thay thế NĐ64CP đó là Nghị định số 16/ 2001/ NĐ- CP về tổ chức và hoạt động của công ty Cho thuê tài chính (sau đây gọi tắt là NĐ16CP).
Tiếp theo đó, ngày 6/9/2001 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 08/2001/ TT- NHNN Hướng dẫn thực hiện NĐ16CP (sau đây gọi tắt là TT08).
Trên đây là những văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt động Cho thuê tài chính với tư cách là một hoạt động tài trợ vốn trong nền kinh tế. Ngoài ra, công ty Cho thuê tài chính với tư cách là một loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế còn chịu sự chi phối của các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, các đạo luật thuế... và hoạt động cho thuê tài chính với hình thức pháp lý là các hợp đồng Cho thuê tài chính, có bản chất pháp lý là hợp đồng dân sự hoặc hợp đồng kinh tế còn chịu sự chi phối của các văn bản pháp luật có liên quan như Bộ Luật dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, các quy định về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và nhiều văn bản khác.
2. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam
2.1. Chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn và hướng xử lý
Hợp đồng cho thuê tài chính sau khi ký kết vẫn có thể bị huỷ bỏ hoặc chấm dứt trước thời hạn do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, việc xử lý hợp đồng trong những trường hợp này và phải tuân theo những quy định chặt chẽ của pháp luật.
2.1.1. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn.
Theo quy định tại Điều 27 NĐ16CP, hợp đồng cho thuê tài chính sẽ chấm dứt trước thời hạn trong những trường hợp sau:
* Trường hợp thứ nhất, theo yêu cầu của bên cho thuê:
Bên cho thuê có quyền yêu cầu chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời hạn khi có một trong những trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 27 NĐ16CP. Đó là:
- Bên thuê không trả đủ tiền thuê theo quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính.
- Bên thuê vi phạm các điều khoản của hợp đồng cho thuê tài chính.
- Bên thuê bị giải thể, phá sản.
- Người bảo lãnh bị phá sản, giải thể và bên cho thuê không chấp nhận đề nghị chấm dứt bảo lãnh hoặc đề nghị người bảo lãnh khác thay thế bên thuê.
* Trường hợp thứ hai, theo yêu cầu của bên thuê.
Bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước hạn khi bên cho thuê vi phạm một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 27 NĐ16CP:
- Bên cho thuê không giao đúng hạn tài sản cho thuê.
- Bên cho thuê vi phạm hợp đồng.
* Trường hợp thứ ba, hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước thời hạn cho thuê trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi, sửa chữa (Khoản 3 Điều 27 NĐ16CP).
* Trường hợp thứ tư, hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước thời hạn cho thuê trong trường hợp bên cho thuê chấp thuận để bên thuê thanh toán toàn bộ tiền thuê trước thời hạn ghi trong hợp đồng cho thuê tài chính.
Đây là một trường hợp hoàn toàn mới so với các quy định trước đây. Quy định này sẽ tạo thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính thoát ra khỏi sự ràng buộc về thời hạn với đặc điểm không thể huỷ ngang của hợp đồng cho thuê tài chính. Vì trên thực tế xảy ra trường hợp bên thuê đã có đủ khả năng thanh toán tất cả tiền thuê trước thời hạn, muốn sớm kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính để có thể mua lại tài sản đó với giá đã thoả thuận trong hợp đồng, vì giá này thường rất rẻ. Sau khi có quyền sở hữu tài sản, bên thuê có thể chủ động trong việc sử dụng tài sản như đem tài sảm đi cầm cố, thế chấp, bán lại, hoặc cho thuê phù hợp với nhu cầu của mình. Hơn nữa, quy định này cũng đáp ứng được mong muốn của bên cho thuê là đảm bảo an toàn với vốn đầu tư. Việc thu hồi được tiền thuê trước thời hạn sẽ giúp bên cho thuê quay vòng vốn nhanh, tăng khả năng sinh lợi của vốn đầu tư.
2.1.2. Hướng xử lý.
Khi hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước thời hạn trong các trường hợp trên, theo quy định tại Điều 28 NĐ16CP, hướng xử lý như sau:
* Trong trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt trước thời hạn theo yêu cầu của bên cho thuê, bên thuê phải thanh toán ngay toàn bộ số tiền thuê. Nếu bên thuê không thanh toán được tiền thuê, bên cho thuê có quyền thu hồi ngay lập tức tài sản cho thuê và bên thuê phải bồi thường thiệt hại vật chất cho bên cho thuê. Sau khi thu hồi tài sản thuê bên thuê có quyền chuyển nhượng hoặc cho bên khác thuê tài sản.
Trường hợp bên thuê bị giải thể, phá sản, mất khả năng thanh toán thì quyền sở hữu của bên cho thuê đối với tài sản không bị ảnh hưởng. Tài sản cho thuê không được coi là tài sản của bên thuê khi xử lý tài sản để trả nợ cho chủ nợ khác (Khoản1 và 2 Điều 28 NĐ16CP).
Ngoài ra, TT08 còn có hướng dẫn cụ thể tại điểm 32.1 Mục IV về trường hợp bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính và trường hợp bên thuê vi phạm các điều khoản của hợp đồng cho thuê tài chính thì công ty cho thuê tài chính có quyền thu hồi tài sản cho thuê và yêu cầu bên thuê phải thanh toán ngay toàn bộ số tiền thuê chưa trả theo hợp đồng. Công ty cho thuê tài chính được xử lý tài sản cho thuê bằng cách cho bên khác thuê hoặc chuyển nhượng tài sản cho thuê. Tiền thu được từ từ việc cho bên khác thuê hoặc chuyển nhượng tài sản được sử dụng để bù trừ số nợ phải thu từ hợp đồng cho thuê tài chính trước đó. Bên thuê có nghĩa vụ tiếp tục hoàn trả số nợ còn phải trả theo hợp đồng cho thuê tài chính khi công ty cho thuê tài chính chưa chuyển nhượng, cho bên khác được thuê tài sản cho thuê hoặc có nghĩa vụ phải hoàn trả số nợ còn lại sau khi đã trừ đi số tiền chuyển nhượng hoặc cho bên khác thuê tài sản. Trong trường hợp bên thuê đã hoàn trả một phần số tiền thuê phải trả và công ty cho thuê tài chính đã chuyển nhượng hoặc cho bên khác thuê tài sản, số tiền thuê đã trả nếu cộng vào số tiền chuyển nhượng hoặc tiền cho bên khác thuê tài sản mà vượt quá số tiền thuê phải trả theo hợp đồng thuê thì công ty cho thuê tài chính phải hoàn trả cho bên thuê số tiền vượt. Trong trường hợp bên thuê hoàn trả được toàn bộ số tiền thuê phải trả theo hợp đồng và phần giá trị còn lại của tài sản khi kết thúc theo thoả thuận trong hợp đồng thuê thì bên thuê được chuyển quyền sở hữu đối với tài sản thuê như trường hợp đã hoàn thành hợp đồng thuê. Điều kiện, thời hạn thanh toán tiền thuê phải được công ty cho thuê tài chính chấp thuận.
* Trong trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính chấm dứt theo yêu cầu của bên thuê, bên cho thuê phải bồi thường thiệt hại cho bên thuê.
* Trong trường hợp hợp đồng chấm dứt do tài sản thuê bị mất, hỏng, không thể sửa chữa phục hồi được thì bên cho thuê phải hoàn trả lại cho bên thuê số tiền bảo hiêmr tài sản khi bên thuê đã trả đủ số tiền thuê phải trả cho bên cho thuê và khi bên cho thuê đã nhận được tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm thanh toán.
2.2. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính
Xuất phát từ bản chất pháp lý, hợp đồng cho thuê tài chính có thể là hợp đồng kinh tế và cũng có thể là hợp đồng dân sự. Do đó, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính cũng có thể là tranh chấp kinh tế hoặc tranh chấp dân sự. Và vì vậy, thủ tục, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính trên thực tế có thể khác nhau. Việc xác định bản chất pháp lý của từng hợp đồng cho thuê tài chính cụ thể có ý nghĩa là cơ sở để áp dụng các quy định của pháp luật cho phù hợp.
Trước đây, theo quy định tại Điều 18 NĐ64CP: “ Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại hợp đồng kinh tế...”. Dẫn đến các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính đều là tranh chấp kinh tế. Và việc giải quyết các tranh chấp này phải tuân thủ các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế. Còn theo pháp luật hiện hành, phạm vi chủ thể với tư cách là bên thuê trong hợp đồng cho thuê tài chính được mở rộng rất nhiều, bao gồm cả các đối tượng không phải là chủ thể của hợp đồng kinh tế. Dẫn đến sự thay đổi căn bản về bản chất pháp lý của hợp đồng cho thuê tài chính. Kéo theo việc áp dụng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính cũng có nhiều thay đổi.
Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính được hiểu là những tranh chấp, bất đồng giữa các bên do hành vi vi phạm hợp đồng của các bên tham gia hợp đồng cho thuê tài chính gây ra.
Hành vi vi phạm hợp đồng cho thuê tài chính được hiểu là hành vi bất hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các thoả thuận đã cam kết trong hợp đồng cũng như quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động cho thuê tài chính.
Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính trước tiên phải xuất phát từ bản chất pháp lý của hợp đồng cụ thể đã được xác lập. Trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cho thuê tài chính thường được các bên thoả thuận thành một điều khoản riêng trong hợp đồng, thường gọi là điều khoản xử lý vi phạm hợp đồng. Nội dung của điều khoản này thường quy định : trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng, nếu một bên phát hiện bên kia vi phạm hợp đồng, thì thông báo cho bên kia biết và yêu cầu khắc phục các vi phạm đó. Hết thời hạn ghi trong thông báo mà bên vi phạm không khắc phục được thì bên yêu cầu được quyền áp dụng các biện pháp để bảo vệ quyền lợi của mình.
Đây có thể nhận xét là một biện pháp tự giải quyết tranh chấp giữa các bên vừa tiện lợi, đơn giản, nhanh chóng lại hiệu quả và được các chủ thể sử dụng rất rộng rãi khi tham gia vào quan hệ hợp đồng nói chung và quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp biện pháp này đều mang lại hiệu quả cao vì nó còn phụ thuộc vào thiện chí của các bên. Do vậy, trong nhiều trường hợp bên có quyền phải yêu cầu cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Nếu hợp đồng cho thuê tài chính đã ký kết là hợp đồng kinh tế thì các bên có thể thoả thuận yêu cầu trọng tài hoặc toà kinh tế có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Còn nếu là hợp đồng dân sự thì các bên có thể yêu cầu Toà dân sự có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
3. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến các phương thức cho thuê tài chính
Pháp luật hiện hành ở Việt Nam thừa nhận cả bốn phương thức cho thuê tài chính phổ biến ở nhiều quốc gia bằng cách quy định gián tiếp hoặc trực tiếp về các phương thức này.Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể cũng như thủ tục, trình tự tiến hành từng phương thức trên thực tế. Đặc biệt là với phương thức bán tái thuê, một phương thức mới được quy định tại Nghị định 16CP và rất phù hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, một nền kinh tế có cơ cấu chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nguồn vốn hoạt động eo hẹp.
Cụ thể như sau:
* Về phương thức cho thuê liên kết:
Tại điểm b Khoản 2 Điều 31 NĐ 16CP có quy định : Trong trường hợp khách hàng có nhu cầu thuê từ nhiều nguồn thì các công ty cho thuê tài chính đọc cho thuê hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Trên thực tế xảy ra nhiều trường hợp bên thuê có nhu cầu thuê những tài sản có giá trị rất lớn mà một công ty cho thuê tài chính không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn tài trợ, do vậy việc quy định phương thức này là phù hợp với nhu cầu của đời sống xã hội ngày một nâng cao và khoa học kỹ thuật ngày một phát triển không ngừng.
* Về phương thức thuê bắc cầu:
Tại điểm c Khoản 1 Điều 16 NĐ16CP có quy định : Công ty cho thuê tài chính được vay vốn của tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước.
Việc một công ty cho thuê tài chính tiến hành vay vốn một tổ chức tín dụng với hình thức bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn vay (chính là tài sản cho thuê được mua bằng một phần tiền vay từ tổ chức tín dụng) để đầu tư cho thuê tài chính là nội dung của phương thức này. Thực tế, phương thức này diễn ra ở Việt Nam tương đối phổ biến, vì đa số các công ty cho thuê tài chính hiện nay với nguồn vốn tự có eo hẹp, không đủ hoạt động thường phải huy động thêm nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó nguồn vốn vay tín dụng có vị trí rất quan trọng. Hơn nữa, đa số các công ty này hiện nay đều là do các Ngân hàng thương mại thành lập (7/13 công ty) nên đây cũng được coi là một biện pháp để ngân hàng đẩy mạnh việc dải ngân, tránh tình trạng nền kinh tế thì thiếu vốn, ngân hàng thì ứ đọng vốn nhưng doanh nghiệp không đủ điều kiện vay, dẫn đến nguồn vốn không được sử dụng hiệu quả.
* Cho thuê giáp lưng:
Bằng các quy định gián tiếp t