Khóa luận Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀ TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 4

1.1. Tìm hiểu chung về xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu 4

1.1.1. Tìm hiểu chung về xuất khẩu 4

1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 5

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 6

1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất hàng dệt may Việt Nam 6

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 7

1.3. Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam 9

1.3.1. Đặc điểm của ngành dệt may 9

1.3.1.1. Phân loại sản phẩm của ngành 9

1.3.1.2. Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của ngành lớn 10

1.3.1.3. Sử dụng nhiều nhân công 10

1.3.1.4. Hiệu quả kinh tế cao trong điều kiện Việt Nam hiện nay 11

1.3.2. Vai trò của ngành dệt may Việt Nam trong nền Kinh tế quốc dân 11

1.4. Giới thiệu chung về thị trường dệt may Hoa Kỳ 14

1.4.1. Khái quát về nền kinh tế Hoa Kỳ 14

1.4.2. Tổng quan về thị trường dệt may Hoa Kỳ 18

1.4.2.1. Về thị trường 18

1.4.2.2. Về tình hình sản xuất và lao động trong ngành dệt may Hoa Kỳ 21

1.5. Một số quy định chủ yếu của Hoa Kỳ về nhập khẩu hàng dệt may 22

1.5.1. Thuế nhập khẩu 22

1.5.1.1. Danh mục điều hòa thuế quan Hoa Kỳ 23

1.5.1.2. Giá tính thuế 24

1.5.2. Hạn ngạch nhập khẩu 24

1.5.2.1. Khái niệm, phân loại và cách thực hiện hạn ngạch nhập khẩu 24

1.5.2.2. Visa hàng dệt may 25

1.5.3. Quy định về xuất xứ hàng dệt may 26

1.5.3.1. Các quy tắc chung 26

1.5.3.2. Tờ khai xuất xứ hàng dệt may 27

1.5.4. Quy định về hóa đơn thương mại 28

1.5.4.1. Quy định chung 28

1.5.4.2. Quy định riêng với hàng dệt may 29

1.5.5. Quy định về nhãn mác sản phẩm 30

1.5.5.1. Các thông tin cần thiết trên hàng 30

1.5.5.2. Cơ chế ghi nhãn 31

1.5.6. Các quy định khác 32

1.5.6.1. Quy định về chất lượng 32

1.5.6.2. Quy định về tính an toàn sản phẩm và trách nhiệm đối với sản phẩm lỗi 32

1.5.6.3. Quy định về tính bắt lửa 33

1.6. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 35

1.7. Kinh nghiệm xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ của một số quốc gia. 36

1.7.1. Tận dụng Kiều dân sống ở Hoa Kỳ để đẩy mạnh xuất khẩu 36

1.7.2. Nâng cao tính cạnh tranh về giá để chiếm lĩnh thị trường 37

1.7.3. Cải tiến mẫu mã, đa dạng hóa chủng loại mặt hàng 37

1.7.4. Có chính sách ưu đãi thu hút vốn đầu tư nước ngoài để làm ra hàng dệt may xuất khẩu đưa vào thị trường Hoa Kỳ 38

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ VÀ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 39

2.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ năm 2000 đến nay 39

2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu 39

2.2.2. Cơ cấu sản phẩm dệt may xuất khẩu 44

2.2.3. Những thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam 46

2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ từ năm 2000 đến nay 56

2.2.1. Hiệp định thương mại (HĐTM) Việt Nam – Hoa Kỳ và ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng dệt may 56

2.2.1.1. Nội dung và lợi ích của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ 56

2.2.1.2. Tác động của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đến xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ 58

2.2.2. Về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 60

2.2.3. Về cơ cấu sản phẩm hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ 68

2.2.4. Thị phần hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ 71

2.4. Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ từ năm 2000 đến nay 73

2.4.1. Những thành công của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 73

2.4.2. Những vấn đề tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ thời gian qua 74

CHƯƠNG 3. TRIỀN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TRONG THỜI GIAN TỚI 77

3.1. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ trong thời gian tới 77

3.1.1. Xu hướng tiêu dùng hàng dệt may của Hoa Kỳ trong thời gian tới 77

3.1.2. Các đối thủ cạnh tranh 77

3.1.3. Cơ hội xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 78

3.1.4. Những thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian sắp tới 79

3.2. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 82

3.2.1. Các giải pháp từ phía Nhà nước 82

3.2.1.1. Về các chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại 82

3.2.1.2. Về chính sách hỗ trợ, đổi mới công nghệ ngành dệt may Việt Nam 82

3.2.1.3. Về chính sách hỗ trợ phát triển nguyên liệu trong nước 83

3.2.2. Các giải pháp từ phía Doanh nghiệp, Hiệp hội 84

3.2.2.1. Doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ hệ thống luật pháp, chính sách quản lý nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ 84

3.2.2.2. Giải pháp về đổi mới quản lý và tổ chức sản xuất 85

3.2.2.3. Các giải pháp về vốn đầu tư 86

3.2.2.4. Các biện pháp đối phó với nguy cơ kiện bán phá giá của Hoa Kỳ 88

3.2.2.5. Tăng cường áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế 89

KẾT LUẬN 90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 91

 

 

 

doc100 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2822 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam đã gia nhập WTO, dệt may Việt Nam từ chỗ bị khống chế theo hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ thì nay đã được phép xuất theo năng lực và nhu cầu thị trường. Với quy chế của một thành viên WTO, các doanh nghiệp được hưởng điều kiện kinh doanh bình đẳng. Thuế nhập khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam vào một số thị trường sẽ giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng Việt Nam thâm nhập các thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài vào dệt may Việt Nam sẽ tăng đáng kể, nhất là đầu tư vào hạ tầng của ngành dệt may sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất chủ động hơn, hạ thấp giá thành, tăng khả năng cạnh tranh cho hàng dệt may... qua đó đẩy mạnh xuất khẩu. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong năm 2007 đạt 7,78 tỷ USD, tăng 33,7% so với năm 2006. Kế hoạch xuất khẩu của ngành trong năm 2006 đã được hoàn thành tốt nhờ sự cố gắng của các doanh nghiệp, cùng với sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan quản lý trong việc điều hành cơ chế hạn ngạch được minh bạch, rõ ràng, giúp cho các doanh nghiệp hoàn thành tốt công tác xuất khẩu của mình. Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, trong năm 2007 các chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần short, quần áo thể thao, váy, quần áo sợi acrylic… và giảm xuất ở một vài mặt hàng như áo len, đồ lót, caravat, khăn, quần áo jacket… Xét về trị giá, mặt hàng quần là chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cao nhất, tăng tới 81 triệu USD so với năm 2005, đạt 205 triệu USD. Đứng thứ hai là mặt hàng áo jacket với mức tăng 63 triệu USD. Tuy nhiên, xét theo tổng kim ngạch xuất khẩu thì áo jacket là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất, đạt 246 triệu USD. Đứng thứ ba là áo thun, với mức chênh lệch kim ngạch xuất khẩu lên tới 50 triệu USD, tăng 81% so với năm 2005, đạt 112 triệu USD. Trong khi xuất khẩu áo sơ mi lại tăng thấp, chỉ tăng 9 triệu USD, tương đương với 8,32% so với năm 2005, đạt 117 triệu USD – là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng cao thứ ba. Trong khi đó, xuất khẩu đồ lót và mặt hàng áo len lại giảm so với năm 2005. Bên cạnh đó, các mặt hàng như áo gió, áo ghilê, khăn, màn… cũng giảm xuất khẩu sang EU. Các mặt hàng như túi ngủ, quần áo mưa, găng tay, áo Kimono có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tăng rất cao trong năm 2006. Cùng với các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, xuất khẩu các chủng loại mặt hàng này tiếp tục tăng mạnh trong năm 2007. Tuy nhiên, một bất lợi cho việc sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là chúng ta chưa tự chủ được trong khâu nguyên phụ liệu. Do đó, rất nhiều công ty vẫn chủ yếu là gia cộng thuê cho nước ngoài, vì vậy tuy kim ngạch xuất khẩu khá lớn nhưng lợi nhuận chứa đựng trong đó lại không cao, phía Việt Nam vẫn chủ yếu là lấy công làm lãi. Hiện nay, 70% nguyên phụ liệu dệt may Việt Nam phải nhập khẩu. Cả một ngành công nghiệp dệt may gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Thế nhưng giá trị thu về từ xuất khẩu dệt may là rất thấp, bởi dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Theo các số liệu thống kê của Bộ Công thương, trong tháng 7/2007, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may gồm bông, sợi, xơ đã tăng lên 32% so với cùng kỳ năm 2006, đạt trên 200 triệu USD. Trước đó, tháng 6/2007, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may đạt 250 triệu USD, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng đầu năm, nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may đạt khoảng 1,3 tỷ USD, tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2006. Hiện nay, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để bảo đảm sản xuất cần đến 95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi. Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Để sản xuất ổn định, hầu như các công ty ngành dệt may đều phải chấp nhận gia công cho đối tác nước ngoài, dù lợi nhuận thấp. Bởi khi gia công, đối tác sẽ cung ứng kịp thời, đầy đủ nguyên phụ liệu. Còn sản xuất theo dạng FOB (mua đứt, bán đoạn), lợi nhuận cao hơn, nhưng bù lại phải chịu khó tự tìm nguồn nguyên phụ liệu bằng cách nhập khẩu. Vì lẽ đó, doanh nghiệp mất thời gian phân loại, phối màu - chuyện hết sức bình thường trong thời buổi có đến 70% nguyên phụ liệu trông chờ vào nhập khẩu. Như vậy, để bảo đảm nguyên phụ liệu đạt chất lượng, nhiều khi doanh nghiệp phải ra nước ngoài để đặt mua. Ngành dệt may Việt Nam chỉ có thể đáp ứng 30% nhu cầu nguyên phụ liệu và điều này không có nghĩa là năng lực của ngành kém, không đủ sức sản xuất. Về cơ bản, phụ liệu nội địa có thể đáp ứng đủ và nguyên liệu nội địa có thể đáp ứng đến 70% nhu cầu sản xuất; nhưng do yêu cầu về thành phẩm của đối tác nước ngoài cao, nguyên phụ liệu Việt Nam chưa đáp ứng được, vì thế phải nhập từ nước ngoài. Việt Nam hiện cũng chưa có đội ngũ thiết kế kiểu dáng nguyên liệu (vải) chuyên nghiệp. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Điều đó được thể hiện qua hình 2.1 và 2.2 Hình 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may và tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2000 - 2007 Chú thích: DM: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may TKN: Tổng kim ngạch xuất khẩu (Nguồn: Bảng 1.1 và 2.2) Hình 2.2: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may so với tổng kim ngạch xuất khẩu Chú thích: TT (2000) = DM (2000)/ TKN(2000) TT: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may so với tổng kim ngạch (Nguồn: Bảng 1.1, 2.2 và tính toán của tác giả) Từ các hình 1.1 và 1.2 chúng ta rút ra các nhận xét sau: Cả hai cột màu vàng và xanh cao dần. Điều đó chứng tỏ cả kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cũng như tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đều tăng theo thời gian. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm một tỷ trọng khá lớn so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể là từ năm 2000 – 2007 tỷ lệ đó luôn đạt khoảng 13 – 17%. Từ đó càng cho thấy rõ vai trò quan trọng của ngành dệt may đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung. 2.2.2. Cơ cấu sản phẩm dệt may xuất khẩu Chủng loại Năm 2006 Năm 2007 Kim ngạch (triệu USD) Tăng trưởng so với 2005 (%) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (triệu USD) Tăng trưởng so với 2006 (%) Tỷ trọng (%) Áo thun 945,5 24,55 16,21 1.535,5 62,41 19,74 Quần dài 1064,0 27,10 18,24 1.351,3 27,00 17,37 Áo Jacket 870,4 17,18 14,92 1.120,7 28,76 14,40 Áo sơ mi  417,1 5,09 7,15 465,2 11,52 5,98 Áo khoác 289,5 30,26 4,96 368,2 27,20 4,73 Quần Short 241,0 49,79 4,13 355,0 47,30 4,56 Váy 197,1 35,09 3,38 321,2 63,00 4,13 Vải 205,2 65,05 3,52 297,4 44,91 3,82 Áo loại khác 338,9 80,44 5,81 294,4 -13,10 3,78 Q.áo trẻ em 131,8 19,89 2,26 259,9 97,16 3,34 Đồ lót 172,1 6,95 2,95 204,0 18,57 2,62 Quần áo Vest 111,5 22,68 1,91 124,7 11,91 1,60 Q, áo loại khác 75,5 -56,24 1,29 123,4 63,42 1,59 Q, thể thao 70,3 44,31 1,20 103,3 46,95 1,33 Áo Kimono 92,4 -1,33 1,58 91,5 -0,91 1,18 Màn 82,9 233,89 1,42 83,2 0,39 1,07 Áo len  63,3 7,98 1,09 76,1 20,20 0,98 Q.áo ngủ 40,7 25,97 0,70 69,5 70,56 0,89 Găng tay 29,0 70,49 0,50 60,1 107,17 0,77 Khăn bông 71,2 47,78 1,22 59,4 -16,69 0,76 Q.áo BHLĐ 37,3 91,11 0,64 41,2 10,49 0,53 Q.áo bơi 31,1 0,19 0,53 41,2 32,54 0,53 Khăn  12,4 -56,85 0,21 33,8 171,59 0,43 Quần Jean 11,3 -16,23 0,19 31,3 175,56 0,40 Áo Ghilê 28,8 70,52 0,49 30,3 5,24 0,39 Áo nỉ 16,6 -68,29 0,28 26,2 57,90 0,34 Khăn lông 24,2 -3,61 0,42 24,1 -0,48 0,31 Bít tất 7,5 16,34 0,13 14,9 97,98 0,19 Q.áo y tế 13,4 0,17 PL may 6,9 17,27 0,12 10,3 49,40 0,13 Q.áo Jacket 12,5 -11,96 0,21 9,1 -27,00 0,12 Hàng may mặc khác 4,8 -95,83 0,08 91,8 1808,32 1,18 Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam trong năm 2006 và 2007 Bảng 3.3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam năm 2006 và 2007 (triệu USD) (Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam) Từ bảng số liệu 2.3, chúng ta có thể thấy sự đa dạng về các mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Rất nhiều mặt hàng được sản xuất và xuất khẩu trên khắp các thị trường thế giới. Có thể nói, hàng dệt may Việt Nam đáp ứng được nhu cầu rất đa dạng của khách hàng trên thế giới. Cũng từ bảng số liệu trên, chúng ta thấy rằng các mặt hàng áo thun, quần dài và áo jacket có giá trị kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này cũng khá lớn. Trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng áo thun là 62,41%, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng quần dài là 27% và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu áo jacket là 28,76%. Chỉ tính riêng 3 mặt hàng này trong năm 2007 đã chiếm tới 51,51% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Từ đó thấy rõ vai trò quan trọng của 3 mặt hàng áo thun, quần dài và áo jacket trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới nói chung. Khi nhìn vào dòng cuối cùng của bảng 2.3, chúng ta có thể thấy trong năm 2006, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của “hàng may mặc khác” là –59,83%, thế nhưng đến năm 2007, con số này là 1808,32%. Điều đó chứng tỏ Việt Nam đến năm 2007 đã chú trọng đến việc đa dạng hóa các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Điều này càng làm cho giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam có thể tăng cao trong những năm tới nhờ việc đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu phục vụ nhu cầu của đông đảo khách hàng. Cũng trong năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu quần áo y tế trong khi đến năm 2006 chúng ta chưa xuất khẩu được mặt hàng này. Điều đó càng cho thấy rõ chiến lược đa dạng hóa sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam. 2.2.3. Những thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam Trong thời gian gần đây, chúng ta đã xúc tiến thực hiện các hoạt động nhằm phát triển thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm dệt may Việt Nam thông qua các hoạt động đàm phán cấp quốc gia và tiếp cận thị trường xuất khẩu, nhất là đối với khu vực thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giảm dần trong giai đoạn 2000 – 2001 và trong năm 2002 thì lại tăng lên đáng kể. Bảng 2.4: Các thị trường xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam STT Thị trường Năm 2006 Năm 2007 Kim ngạch (triệu USD) Tăng trưởng so với 2005 (%) Tỷ trọng (%) Kim ngạch (triệu USD) Tăng trưởng so với 2006 (%) Tỷ trọng (%) 1 Hoa Kỳ 3044,6 16,97 52,18 4464,8 46,65 57,39 2 EU 1243,8 37,46 21,32 1489,3 19,74 19,14 3 Nhật Bản 627,6 3,93 10,76 703,8 12,14 9,05 4 Đài Loan 181,4 -0,95 3,11 161,1 -11,18 2,07 5 Canada 97,3 20,23 1,67 135,5 39,25 1,74 6 Hàn Quốc 82,9 67,55 1,42 85,0 2,49 1,09 7 Nga 62,4 30,33 1,07 79,0 26,59 1,02 8 Mêhicô 0 54,5 0,70 9 Trung Quốc 29,7 265,92 0,51 43,1 45,17 0,55 10 Thổ Nhĩ Kỳ 5,7 134,99 0,10 37,8 563,80 0,49 11 Hồng Kông 31,1 148,75 0,53 36,6 17,60 0,47 12 UAE 27,4 351,44 0,47 28,5 4,15 0,37 13 Campuchia 18,5 564 0,32 28,5 54,15 0,37 14 Malaysia 33,7 37,78 0,58 25,3 -24,79 0,33 15 Singapore 19,1 285,40 0,33 24,2 26,40 0,31 16 Inđônêxia 17,4 1,04 0,30 24,8 42,40 0,32 17 Ả Rập Xê út 18,1 166,95 0,31 27,2 49,91 0,35 18 Ôxtrâylia 23,7 -4,54 0,41 24,2 2,08 0,31 19 Ukraina 12,2 284,32 0,21 21,4 75,20 0,28 20 Thái Lan 10,7 367,75 0,18 16,4 53,24 0,21 21 Nam Phi 3,4 124,38 0,06 13,3 294,27 0,17 22 Thụy Sỹ 10,8 31,97 0,19 11,3 4,80 0,15 23 Philipine 6,4 373,29 0,11 11,2 76,14 0,14 Tổng 5834 7780 (Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam) Từ bảng số liệu, chúng ta nhận thấy: Đối với thị trường Mêhicô, cho đến năm 2007 Việt Nam mới xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này, điều đó cho thấy chiến lược đa dạng hóa thị trường đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Ở hầu hết các thị trường xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là dương. Điều đó cho thấy chúng ta không chỉ tăng quy mô xuất khẩu mà còn chú trọng đến tất cả các thị trường, không vì chú trọng xuất khẩu sang các thị trường chính mà bỏ sót các thị trường khác. Các thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Đài Loan. Mặc dù trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Đài Loan giảm nhưng Đài Loan vẫn là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 4 của Việt Nam. Hàng dệt may Việt Nam còn xuất khẩu sang cả thị trường Trung Quốc – nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Điều đó cho thấy hàng dệt may Việt Nam có những ưu điểm mà hàng dệt may Trung Quốc không có được. Điều đó thể hiện hàng dệt may Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao hơn hàng dệt may Trung Quốc ở một số điểm nhất định. Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Công thương thì trong quý I năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU đạt 94,4 triệu USD, giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2002 nhưng lại tăng so với cùng kỳ năm 2001. Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Canada đạt khoảng 3,7 triệu USD, giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2002. Việt Nam đã thâm nhập và chiếm lĩnh một số thị trường phi hạn ngạch như Đài Loan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Singapore, và Đông Âu…Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường này có mức tăng trưởng khá cao và ổn định. Các thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản… Trong đó phải kể đến vai trò cực kỳ quan trọng của thị trường Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ liên tục tăng nhanh và bền vững qua các năm. Theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam, nếu như trong năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ mới chỉ là 49.5 triệu USD thì đến năm 2006, con số này đã lên đến 3044 triệu USD. Trong năm 2006, giá trị kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đạt 3,044 tỷ USD, tăng lên 16,97% so với năm 2005. Cơ chế phân bổ hạn ngạch của Hoa Kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này, hạn ngạch ở các Cat hầu như đều hoàn thành 100%. Năm 2006 đồng thời cũng là một năm thành công với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU của hàng dệt may Việt Nam tăng lên 37% so với năm 2005, đạt 1,243 tỷ USD. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2006 của hàng dệt may Việt Nam sang EU cao nhất từ trước đến nay. Trong khi hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu tăng mạnh sang Hoa Kỳ và EU, thì xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng chậm, còn xuất khẩu tới Đài Loan lại giảm. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ tăng 3,93%, đạt 627 triệu USD. Đây là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Bởi các doanh nghiệp phải thực hiện hai nhiệm vụ, tăng trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ và EU trong khi vẫn phải duy trì và tăng trưởng xuất khẩu vào Nhật Bản. Trước những rào cản từ thị trường Hoa Kỳ thì Nhật Bản vẫn luôn là một trong những khách hàng thích hợp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong năm 2007 và những năm sau. Theo các số liệu thống kê của của Tổng cục hải quan, trong khi xuất khẩu sang Đài Loan - khách hàng truyền thống và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam năm 2006 không duy trì được tiến độ, giảm so với năm 2005 chỉ đạt 181 triệu USD, thì xuất khẩu sang các thị trường khác lại tăng mạnh, cụ thể xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng 67%, đạt 82 triệu USD; Xuất khẩu sang Nga tăng 30%, đạt 62 triệu USD; Xuất khẩu sang Canada tăng 20%, đạt 97 triệu USD; Xuất khẩu sang UAE tăng 351%, đạt 27 triệu USD... Ngoài ra, xuất khẩu hàng dệt may sang các nước trong khu vực ASEAN cũng tăng khá như Malaixia tăng 37%; Singapo tăng 285%; Campuchia và Indonesia tăng kỷ lục… Cùng với đó, xuất khẩu sang các nước châu Á khác cũng tăng mạnh như Hồng Kông tăng 148%. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị trường như Trung Quốc giảm 99%; Ôxtrâylia giảm 5%... Hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Đức đạt kim ngạch cao nhất trong các nước thành viên EU, đạt 321 triệu USD, tăng 35,68% so với năm 2005. Tiếp đến là Anh với tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu là 43%, đạt 220 triệu USD và Pháp với tốc độ tăng 37%, kim ngạch xuất khẩu đạt 142 triệu USD. Xuất khẩu sang Hà Lan đạt 116 triệu USD, tăng 46% và xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt 109 triệu USD, tăng 30%. … Tiếp theo những kết quả xuất khẩu tốt đẹp trong năm 2006, dự đoán xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU trong năm 2007 tiếp tục tăng trưởng mạnh. Theo Thông tấn xã Việt Nam, trong năm 2008, ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 9,5 tỷ USD, tăng trên 23% so với năm trước, trong đó riêng xuất khẩu sang 3 thị trường lớn là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản dự kiến chiếm hơn 85%. Trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ dự kiến đạt khoảng 5,5 tỷ USD, EU khoảng 1,8 tỷ USD và Nhật Bản khoảng 800 triệu USD. Phát biểu tại hội nghị về kế hoạch xuất khẩu của ngành dệt may năm 2008, tổ chức ngày 10/1 tại Hà Nội, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việc Nam đã chỉ ra những khó khăn, thách thức lớn trong năm tới mà các doanh nghiệp dệt may trong nước tiếp tục phải đối mặt, trong đó có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên 3 thị trường nhập khẩu chính nói trên. Theo ông Ân, việc EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc từ năm 2008 sẽ đẩy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vào thế cạnh tranh gay gắt hơn. Đối với thị trường Nhật Bản, sáu nước trong khu vực Đông Nam Á gồm Xingapo, Malaixia, Philippin, Inđônêxia, Brunây và Thái Lan đã được hạ mức thuế xuống 0% khi xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản; trong khi hàng dệt may của Việt Nam vẫn đang phải chịu mức thuế khoảng 10%. Riêng đối Hoa Kỳ - thị trường chiếm khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu và có tốc độ tăng trưởng đều hàng năm - vẫn tiềm ẩn những rủi ro do chương trình giám sát chống bán phá giá vẫn được Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng dệt may Việt Nam và có khả năng duy trì cơ đến hết năm 2008. “Các doanh nghiệp dệt may cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ, tránh nhận những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình quân của cả nước, là cơ sở để phía Hoa Kỳ khởi kiện chống bán phá giá”, ông Ân cảnh báo. Về phía các doanh nghiệp, nhận thức được vấn đề này nên thời gian qua đã chủ động cân đối lượng khách hàng giữa các thị trường, chuyển đổi chủng loại sản phẩm để tránh những chủng loại hàng dễ bị hiểu nhầm là bán phá giá. Theo ông Trần Văn Phổ, Tổng giám đốc Công ty cổ phần dệt Hòa Thọ - doanh nghiệp có hơn 30% hàng dệt may mặc xuất sang Hoa Kỳ - cho biết, trong năm tới công ty sẽ tiếp tục tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ và tập trung vào các mặt hàng có giá trị cao nhằm tránh bị nhầm là bán phá giá. Tập đoàn Dệt may Việt Nam cũng đã kiến nghị với Chính phủ, bộ ngành có liên quan tăng cường những giải pháp chống rào cản thương mại, đối phó hiệu quả với cơ chế giám sát, chống bán phá giá; đầu tư cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh cải cách hàng chính và tăng cường hoạt động xúc tiến, quảng bá hình ảnh dệt may Việt Nam. Riêng với Nhật Bản, Hiệp hội cũng cho rằng đẩy nhanh tốc độ đàm phán hiệp định thương mại tự do là một giải pháp quan trọng để mở rộng thị trường này. Năm 2007, xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 31%, với tổng kim ngạch xấp xỉ 7,8 tỷ USD. Trong đó, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất với 4,5 tỷ USD; tiếp đến là EU và Nhật Bản Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Tuy dân số Hoa Kỳ chỉ bằng 2/3 dân số EU nhưng mức tiêu thụ sản phẩm vải của dân Hoa Kỳ lại gấp 1,5 lần dân EU. Đây là một thị trường không chỉ hấp dẫn đối với ngành dệt may Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên thế giới đều có mong muốn trở thành bạn hàng với Hoa Kỳ. Hiện nay, Hoa Kỳ đã cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập nên hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ không phải chịu thuế cao. Đây cũng là một điểm tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 3,044 tỷ USD, tăng 16,97% so với năm 2005. Cơ chế phân bổ hạn ngạch rõ ràng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ được thuận lợi, hạn ngạch ở các Cat hầu như đều hoàn thành 100%. Năm 2006 là năm rất thành công đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU tăng tới 37% so với năm 2005, đạt 1,243 tỷ USD. Kết quả xuất khẩu năm 2006 sang EU cao nhất từ trước tới nay. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang hầu hết các nước thành viên, từ các nước thành viên cũ như Đức, Anh, Pháp, … đến thành viên mới là CH Séc, Áo, Ba Lan, Hungary… đều có sự tăng trưởng mạnh. Kết quả này thể hiện sự tăng trưởng ở tất cả các nước EU, chứ không chỉ tăng tập trung vào một vài thị trường. Điều này chứng tỏ khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam tại EU. Hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Đức đạt kim ngạch cao nhất trong các nước thành viên EU, đạt 321 triệu USD, tăng 35,68% so với năm 2005. Tiếp đến là Anh với tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu là 43%, đạt 220 triệu USD và Pháp với tốc độ tăng 37%, kim ngạch xuất khẩu đạt 142 triệu USD. Xuất khẩu sang Hà Lan đạt 116 triệu USD, tăng 46% và xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt 109 triệu USD, tăng 30%. … Trong năm 2006, có 1.300 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Trong đó, Công ty Cổ phần may 10 và Công ty may Việt Tiến là 2 đơn vị có kim ngạch xuất khẩu đạt cao nhất, hơn 30 triệu USD. Đứng thứ hai là Cty TNHH Triumph International và Công ty May mặc Quảng Việt với hơn 18 triệu USD. Vị trí xuất khẩu lớn thứ 3 là Công ty may Đức Giang với 17 triệu USD và thứ tư là Công ty May Nhà Bè với hơn 16 triệu USD.Tiếp theo những kết quả xuất khẩu tốt đẹp trong năm 2006, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU trong năm 2007 vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh. Trong khi hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu tăng mạnh sang Hoa Kỳ và EU, thì xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng chậm, còn xuất khẩu tới Đài Loan lại giảm. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ tăng 3,93%, đạt 627 triệu USD. Đây là một thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Bởi các doanh nghiệp phải thực hiện hai nhiệm vụ, tăng trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ và EU trong khi vẫn phải duy trì và tăng trưởng xuất khẩu vào Nhật Bản. Trước những rào cản từ thị trường Hoa Kỳ thì Nhật Bản vẫn luôn là một trong những khách hàng thích hợp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong năm 2007 và những năm sau. Năm 2008, Liên minh châu Âu (EU) bãi bỏ hạn ngạch dệt may đối với Trung Quốc, nên các quốc gia xuất khẩu dệt may sang thị trường này, trong đó có Việt Nam, sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn. Theo nhận định của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, việc EU bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Trung Quốc, đồng thời áp dụng một hệ thống giám sát “kiểm tra kép” để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU, sẽ tác động đáng kể đến hàng dệt may Việt Nam xuất sang EU, bởi Trung Quốc có năng lực cạnh tranh rất lớn do chủ động được nguyên liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng hóa. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản năm 2007 tăng cao hơn kết quả đạt được trong năm 2006. Trong khi xuất khẩu sang Đài Loan - khách hàng truyền thống và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam không duy trì được tiến độ, giảm so với năm 2005, năm 2006 chỉ đạt 181 triệu USD, thì xuất khẩu sang các thị trường khác lại tăng mạnh, cụ thể xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng 67%, đạt 82 triệu USD; xuất khẩu sang Nga tăng 30%, đạt 62 triệu USD; xuất khẩu sang Canada tăng 20%, đạt 97 triệu USD; xuất khẩu sang các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất tăng 351%, đạt 27 triệu USD... Ngoài ra, xuất khẩu hàng dệt may sang các nước trong khu vực ASEAN cũng tăng khá như Malaixia tăng 37%; Singapo tăng 285%; Campuchia và Indonesia tăng kỷ lục… Cùng với đó, xuất khẩu sang các nước châu Á khác cũng tăng mạnh như Hồng Kông tăng 148%. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị trường như Trung Quốc giảm 99%; Ôxtraylia giảm 5%... Trong năm 2006, các chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần short, quần áo thể thao, váy, quần áo sợi acrylic… và giảm xuất ở một vài mặt hàng như áo len, đồ lót, caravat, khăn, quần áo jacket… Xét về trị giá, mặt hàng quần là chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất kh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.DOC
Tài liệu liên quan