Khóa luận Giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự của tòa án nhân dân huyện củ chi, thành phố Hồ Chí Minh

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 5

1.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 5

1.1.1 Khái niệm 5

1.1.2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng (Điều 584 BLDS 2015). 6

1.1.3. Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại 9

CHƯƠNG 2: NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 35

2.1. Các căn cứ pháp lý để áp dụng 35

2.2. Quy định của pháp luật hình sự về việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự 36

2.2.1. Việc giải quyết vấn đề bồi thường đồng thời giải quyết vụ án hình sự 36

2.2.2. Việc tách vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự 38

 2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục giải quyết vấn đề bồi thường trong vụ án hình sự 41

2.3.1. Giai đoạn khởi tố vụ án 41

2.3.2. Giai đoạn điều tra và truy tố 42

2.3.3. Giai đoạn xét xử vụ án 42

2.3.4. Giai đoạn thi hành án 44

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 45

 

doc55 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 390 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự của tòa án nhân dân huyện củ chi, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này”. Như vậy, trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại trước tiên được xác định cho cha, mẹ của người đó. Căn cứ vào sự phát triển về khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của cá nhân dựa trên cơ sở về độ tuổi, người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi được phân thành hai nhóm: - Cá nhân chưa đủ 6 tuổi. Những người thuộc nhóm tuổi này không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, được coi là những người không có năng lực hành vi dân sự. Họ không thể tự mình thực hiện các giao dịch dân sự do không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả pháp lý của những hành vi đó. Vì vậy, giao địch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Cá nhân ở độ tuồi này cũng ít có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác và hầu như không có năng lực để thực hiện trách nhiệm BTTH do mình gây ra, vì vậy, cha, mẹ của những người ở độ tuổi này là những người đại diện đương nhiên với tư cách bị đơn dân sự trước tòa. - Cá nhân từ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần. Những người thuộc nhóm tuổi này chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm - sinh lý, trình độ nhận thức còn hạn chế vì vậy khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Pháp luật không quy định thế nào là giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, tuy vậy, cần phải hiểu đó là những giao dịch có giá trị không lớn, nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập, sinh hoạt vui chơi trong một giới hạn tài sản nhất định phù hợp với điều kiện sinh hoạt tại địa phương nơi cá nhân đó sinh sống. Nếu cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi tham gia các giao dịch dân sự có giá trị lớn, không được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật thì người đại diên theo pháp luật có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Như vậy, ta có thể thấy, sự phụ thuộc của những người chưa thành niên trong độ tuổi này vào bố mẹ – người đại diện theo pháp luật hợp pháp vẫn còn rất lớn. Điều này một mặc xuất phát từ tính chất nhân đạo của pháp luật đối với những người chưa thành niên phạm tội hoặc gây thiệt hại khác, mặt khác đề cao vai trò quản lý, giáo dục người chưa thành niên của cha mẹ. Cha mẹ, hay nói một cách khác khái quát hơn là gia đình có vi trò rất lớn trong việc giáo dục, quản lý người chưa thành niên. Bên cạnh đó, đây cũng là đối tượng rất được sự quan tâm của nhà trường và toàn xã hội. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, do chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất cũng như nhận thức nên thường là những đối tượng dễ uốn nắn, dễ bị ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài. Sự giáo dục của cha mẹ trong giai đoạn này có tính chất quyết định đến việc định hình nhân cách của người chưa thành niên sau này. Người đó sẽ trở thành một công dân tốt hay xấu phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển trong giai đoạn này. Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định vấn đề BTTH do con dưới mười lăm tuổi gây ra tại Điều 74 như sau:“Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự. Kết hợp với các quy định tại Điều 590 BLDS 2015 có thể thấy, pháp luật nước ta rất coi trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc BTTH do hành vi trái pháp luật của con từ dưới mười lăm tuổi gây ra. Chính vì thế, cha mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách bị đơn dân sự, có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ cho thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con, trong khi chính cá nhân gây thiệt hại lại hoàn toàn không có trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, pháp luật cũng dữ liệu những trường hợp mà cá nhân gây thiệt hại là người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, cha, mẹ lại không có hoặc không đủ khả năng bồi thường. Trong trường hợp này, nếu con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường. Quy định này không nhằm loại trừ trách nhiệm của cha, mẹ. Thực tế, dù cha mẹ lấy tài sản riêng của con để bồi thường trong trường hợp tài sản của cha, mẹ không đủ hoặc không có tài sản cũng không có nghĩa là trách nhiệm BTTH đã chuyển sang cho người con. Giả sử người con không có tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ cho phần còn thiếu thì trách nhiệm vẫn thuộc về cha, mẹ. Như vậy, trong mọi trường hợp gây thiệt hại trái pháp luật mà không có căn cứ loại trừ trách nhiệm BTTH theo quy định của pháp luật, người bị thiệt hại đều được bồi thường, vấn đề là trách nhiệm bồi thường đó thuộc về ai mà thôi. Cần phải nói thêm, một lý do tham khảo nữa khiến luật quy định như vậy là do người chưa thành niên ở độ tuổi này không có hoặc chưa có khả năng lao động. Pháp luật hiện hành quy định độ tuổi lao động từ đủ mười lăm tuổi trở lên, trừ những công việc liên quan đến năng khiếu, nghệ thuật như múa, xiếcthì mới có người lao động dưới mười lăm tuổi, nhưng hợp đồng lao động giữa họ và người sử dụng lao động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật cho họ. Chính vì thế, đa số người dưới mười lăm tuổi không có thu nhập hoặc tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Khoản 2 Điều 586 quy định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình”. Như vậy, cùng một điều luật quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của người chưa thành niên nhưng lại có sự khác nhau cơ bản giữa trách nhiệm của người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi và người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Nếu người dưới mười lăm tuổi, trách nhiệm BTTH được đặt ra trực tiếp với cha, mẹ của cá nhân gây thiệt hại, cá nhân gây thiệt không có trách nhiệm bồi thường thì người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lại phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho những thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Quy định này trước hết xuất phát từ trình độ phát triển về mặt thể chất và nhận thức của những cá nhân ở độ tuổi này. Cùng ở trong lứa tuổi chưa thành niên nhưng những cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có sự phát triển hơn hẳn những cá nhân dưới 15 tuổi. Cụ thể, những người chưa thành niên ở lứa tuổi này đã có sự nhận biết khá hoàn chỉnh về thế giới khách quan, có khả năng nhận biết được hành vi nào không gây thiệt hại và hành vi nào gây thiệt hại cho xã hội. Từ đó, lựa chọn cách xử sự hợp lý, phù hợp với lợi ích cá nhân và lợi ích của các chủ thể khác. Những người trong độ tuổi từ đủ 15 đến dưới 18 đã cơ bản hình thành về mặt nhân cách, nhận thức, không còn dễ uôn nắn và tác động như người chưa thành niên dưới 15 tuổi. Bên cạnh đó, người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, ta có thể thấy, cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có sự độc lập tương đối so với cha mẹ – những người đại diện theo pháp luật. Một lý do nữa lý giải cho quy định này đó là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, theo quy định của pháp luật hiện hành thì đã có khả năng lao động. Những người này, không chỉ về suy nghĩ, nhận thức đã có sự tách biệt tương đối với cha, mẹ mà ngay cả tài sản cũng bắt đầu có sự độc lập, tuy sự độc lập này là không lớn. Cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có thể tự mình lao động, từ đó có thu nhập riêng, có tài sản riêng. Tài sản của họ phần nào đó đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trong những giao dịch dân sự do chính bản thân họ xác lập và thực hiện. Đồng thời, tạo điều kiện cho năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, do những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi vẫn là những người chưa thành niên. Xét về mặt năng lực hành vi dân sự thì họ vẫn chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Vì vậy, trong trường hợp người chưa thành niên, chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ gây thiệt hại thì không thể loại trừ trách nhiệm của cha mẹ, người đại diện theo pháp luật. Khoản 2 Điều 586 còn quy định thêm người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Quy định này, một mặt nhằm ràng buộc trách nhiệm pháp lý của cha, mẹ trong việc giáo dục, quản lý đối với con chưa thành niên. Mặt khác, nhằm đảm bảo lợi ích cho người bị thiệt hại trong trường hợp người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại nhưng không đủ khả năng bồi thường toàn bộ. 1.1.3.1.5. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được giám hộ Điều 46 BLDS 2015 quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”. Tuy nhiên, giám hộ ngoài việc thực hiện những nghĩa vụ theo luật định đối với người được giám hộ thì còn có trách nhiệm trong việc BTTH do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ gây ra. Người được giám hộ theo Khoản 1 Điểu 47 bao gồm: “a. Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; b. Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; c. Ngườimất năng lực hành vi dân sự; d. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”. a). Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được giám hộ là người chưa thành niên. Người chưa thành niên theo quy định tại khoản 1 Điều 47 thì cần có người giám hộ. Do vậy, với người chưa thành niên vẫn còn cha, mẹ và cha, mẹ của họ không rơi vào các trường hợp nêu trên thì họ đương nhiên là đại diện cho con và thiệt hại do người chưa thành niên gây ra sẽ được cha, mẹ bồi thường theo cách thức bồi thường phân tích nêu trên. Nếu cha, mẹ của người chưa thành niên rơi vào các trường hợp nêu ở điểm a khoản 1 Điều 47, người chưa thành niên gây thiệt hại phải bồi thường thì trách nhiệm pháp lý trong khi thực hiện việc giám hộ của người giám hộ được đặt ra, trong đó có trách nhiệm BTTH. Ngưởi giám hộ được chia thành hai loại: giám hộ đương nhiên và giám hộ cử. Người giám hộ đương nhiên được xác định dựa trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng nhằm ràng buộc trách nhiệm giữa những người thân thích, ruột thịt trong gia đình với nhau. Người giám hộ đương nhiên không có quyền từ chối trách nhiệm giám hộ của mình, họ phải chịu trách nhiệm về những hành vi do người được giám hộ gây ra. Thứ tự các thành viên trong gia đình được pháp luật quy định làm người giám hộ đương nhiên cho người chưa thành niên, có nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người giám hộ, có trách nhiệm trong việc để người được giám hộ gây thiệt hại phải bồi thường sẽ được thực hiện như sau: - Trước hết là trách nhiệm của anh cả, chị cả đã thành niên đủ điều kiện làm người giám hộ. Nếu anh cả, chị cả không đủ điều kiện làm người giám hộ thỉ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ. Trong trường hợp tất cả những người nêu trên không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cô, cậu, dì là người giám hộ. Nếu không có người giám hộ đương nhiên thì sẽ phải cử người giám hộ. - Tuy nhiên, quy định về trách nhiệm BTTH của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi có người giám hộ lại khác về cơ bản so với quy định về trách nhiệm BTTH của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi còn cha, mẹ. Ở trong trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi còn cha mẹ thì trách nhiệm bồi thường trước tiên thuộc về người đó; nếu người đó không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường thì trách nhiệm bồi thường mới được đặt ra với cha, mẹ. Ngược lại, ở trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có người giám hộ thì trách nhiệm BTTH trước tiên lại thuộc về người giám hộ, sau đó mới là người chưa thành niên gây thiệt hại. Vậy phải chăng có gì đó không thỏa đáng trong tình huống này ? - Một điểm khác biệt nữa khi quy định về trách nhiệm BTTH do hành vi trái pháp luật của người chưa thành niên gây ra đó là: “Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường” trong khi đó vấn đề lỗi không đặt ra đối với trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên còn cha mẹ, tức là cha mẹ vẫn phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Vậy trong trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên, không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường, người giám hộ không có lỗi trong việc giám hộ thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về ai ? - Thực tiễn áp dụng trách nhiệm BTTH trong trường hợp này vẫn có những tình huống xảy ra mà luật không dự liệu trước, khiến cho các thẩm phán tại các Tòa án gặp nhiều khó khăn trong công tác xét xử. Điều này được dẫn giải trong ví dụ: A là người chưa thành niên dưới 15 tuổi có cha mẹ nhưng cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự nên B là người giám hộ đương nhiên cho A trong các giao dịch dân sự. Một ngày, sau khi đi học về, A chơi đá bóng trên đường với một nhóm bạn cùng lớp. Trong lúc thể hiện chân sút đá bóng với các bạn, trái bóng của A đã bay thẳng vào cửa kính xe hơi của ông C làm kính vỡ tan. Thiệt hại ông C đi thay kính mới hết 8.000.000 đồng. Trách nhiệm bồi thường cho ông C thuộc về B vì B có lỗi không quản lý A để A chơi đá bóng trên đường phố gây thiệt hại. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì sẽ lấy tài sản của A để bồi thường, nếu tài sản của A không đủ thì lấy tài sản của B để bồi thường phần còn thiếu. Tuy nhiên, cả A và B đều không có tài sản bồi thường cho ông C. Vậy thì theo luật, C sẽ phải chấp nhận rủi ro, không được BTTH. Giả sử bố mẹ của A mất năng lực hành vi dân sự nhưng lại được thừa kế số tiền là 100 triệu đồng thì có lấy số tiền đó của bố mẹ A để bồi thường cho ông C không, luật cũng không quy định rõ vấn đề này. b). Năng lực chịu trách nhiệm hình sự BTTH của người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự Người mất năng lực hành vi dân sự là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, bị tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. Người mất năng lực hành vi dân sự cần phải có người giám hộ, người giám hộ sẽ là người đại diện cho họ trong các giao dịch dân sự. Người mất năng lực hành vi dân sự có thể là bất kỳ ai và ở bất kỳ độ tuổi nào, do vậy mà tùy từng trường hợp khác nhau mà việc quy định trách nhiệm BTTH do người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự gây ra cũng khác nhau. Cụ thể: - Nếu người mất năng lực hành vi dân sự là người chưa thành niên mà còn cha mẹ thì cha, mẹ chính là người giám hộ. Họ phải chăm sóc và quản lý người mất năng lực hành vi dân sự. Trong quá trình chăm sóc và quản lý người mất năng lực hành vi dân sự, nếu người giám hộ để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác thì họ phải có trách nhiệm bồi thường. Vì người giám hộ trong trường hợp này là cha, mẹ của người mất năng lực hành vi dân sự là người chưa thành niên nên trách nhiệm BTTH cũng giống như trách nhiệm BTTH của cha, mẹ đối với con chưa thành niên gây thiệt hại. - Trong trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự đã có vợ (hoặc chồng) thì người vợ (hoặc chồng) có đủ điều kiện sẽ là người giám hộ (Khoản 1 Điều 53 BLDS 2015). Người giám hộ được lấy tài sản của người giám hộ để thực hiện trách nhiệm BTTH. Nếu như tài sản của người được giám hộ không đủ để bồi thường thì phải phân định tài sản chung của vợ chồng sau đó mới xác định trách nhiệm bồi thường. Sau khi xác định tài sản chung mà tài sản chung vẫn không đủ để bồi thường thì người giám hộ mới phải lấy tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ bồi thường phần còn thiếu. - Trường hợp cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người bị mất năng lực hành vi dân sự người kia không đủ điều kiện để làm người giám hộ thì người con cả phải là người giám hộ. Nếu người con cả không đủ điều kiện để làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện sẽ là người giám hộ. Nếu cha, mẹ mà gây thiệt hại cho người khác thì người con đang giám hộ cha, mẹ sẽ lấy chính tài sản của cha, mẹ để thực hiện nghĩa vụ BTTH cho người bị thiệt hại. Sau khi lấy tài sản của cha, mẹ để bồi thường nhưng vẫn còn thiếu thì người con đang giám hộ có trách nhiệm dùng tài sản của mình bồi thường phần còn thiếu. Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự là người thành niên và đã có vợ, chồng, con nhưng vợ, con đều không đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ có đủ điều kiện phải làm người giám hộ cho họ. Nếu họ gây thiệt hại về tài sản cho người khác thì cha, mẹ sẽ lấy tài sản riêng của người được giám hộ để thực hiện trách nhiệm BTTH. Nếu tài sản đó không đủ để bồi thường thì người giám hộ mới phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Xác định trách nhiệm bồi thường nốt phần còn thiếu do thiệt hại của người được giám hộ gây ra của người giám hộ ở đây cần phải phân làm hai trường hợp: Nếu cả cha, mẹ cùng là người giám hộ thì sẽ lấy tài sản chung vợ chồng của cha, mẹ để thực hiện nghĩa vụ bồi thường phần còn thiếu cho người giám hộ; nếu chỉ có cha hoặc mẹ làm người giám hộ thì sẽ không lấy tài sản chung mà lấy phần tài sản riêng trong khối tài sản chung của vợ chồng để thực hiện nghĩa vụ bồi thường phần còn thiếu của người được giám hộ. c). Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lí. Điều 599 quy định trách nhiệm BTTH trong trường hợp người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự đang được nhà trường, bệnh viện hoặc các pháp nhân khác quản lí mà gây thiệt hại thì nhà trường, bệnh viện và các pháp nhân này phải bồi thường. Trách nhiệm BTTH được xác định dựa trên yếu tố lỗi của nhà trường, bệnh viện, các pháp nhân và được thể hiện trong nghĩa vụ quản lí người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự không cẩn trọng, không chu đáo, thiếu biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn mà để họ gây thiệt hại. Thời gian quản lí là thời hạn trong đó nhà trường theo quy định nghề nghiệp có nghĩa vụ giáo dục mà họ không thể thực hiện tốt chức năng của họ; bệnh viện có nghĩa vụ chăm sóc, điều trị nhưng do lỗi quản lí không tốt để người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác (ví dụ: Nhà trường tổ chức đi tham quan, dã ngoại nhưng không có các biện pháp bảo đảm an toàn; bệnh nhân bị tâm thần vượt hàng rào, tường bao bọc xung quanh ra ngoài gây thiệt hại cho người khác;). Lúc đó, cha mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người giám hộ của người mất năng hành vi dân sự không có trách nhiệm bồi thường. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà trường trong việc quản lí học sinh đang trong thời gian học tập tại trường theo thời khóa biểu văn hóa chính khóa, ngoại khóa hoặc lao động, vui chơi, giải trí do nhà trường tổ chức; trách nhiệm của bệnh viện, các tổ chức khác trong việc chăm sóc, quản lí bệnh nhân trong thời gian bệnh nhân điều trị tại bệnh viện. Pháp luật quy định xét trách nhiệm của nhà trường, bệnh viện, tổ chức khác phải có yếu tố lỗi nên trong trường hợp họ chứng minh được không có lỗi trong thời gian quản lí để người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường. Ví dụ: - Cô giáo chủ nhiệm lớp 5A trường THCS X bị ốm đột xuất nên lớp trống tiết. Cô Y là hiệu trưởng của trường lên thông báo cho học sinh lớp 5A nghỉ buổi học hôm đó, trước khi cho học sinh ra về, cô Y đã gọi điện cho từng phụ huynh thông báo về việc này, trao trả học sinh cho từng gia đình. Trên đường về, M đá bóng cùng các bạn, không may sút bóng vào đúng nhà ông N làm vỡ kính. Trường hợp này, nhà trường không có trách nhiệm BTTH do hành vi của M gây ra do thời gian M gây thiệt hại không thuộc sự quản lí của trường. - A bị tâm thần, đã được Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự đang được điều trị tại bệnh viện Y. Tết năm 2019, gia đình A muốn A về nhà ăn tết nên đã làm đơn xin bệnh viện cho A được về nhà một tuần và hứa sẽ quản lý A trong thời gian 1 tuần đó. Bệnh viện đồng ý cho A về nhà ăn tết. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1 tuần về nhà, A đã gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường. Trường hợp này, bệnh viện không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà A gây ra do bệnh viện không có lỗi trong việc quản lý A. Trong BLDS 2015 thì cụm từ “liên đới cùng với cha mẹ, người giám hộ” không quy định và người bị thiệt hại chỉ có thể đòi yêu cầu BTTH đối với trường học, bệnh viện, các pháp nhân khác trực tiế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa_luan_giai_quyet_trach_nhiem_boi_thuong_thiet_hai_ngoai.doc
Tài liệu liên quan