MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 4
LỜI NÓI ĐẦU 5
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 8
1.1. KHÁI NIỆM TMĐT 8
1.1.1. TMĐT là gì 8
1.1.2. Phân loại 9
* Phân loại theo đối tượng giao dịch 9
* Phân loại theo hình thức giao dịch 11
1.1.3. Đặc điểm của TMĐT 13
* Ở góc độ doanh nghiệp hay tổ chức 13
* Ở góc độ công nghệ thông tin 14
1.2. TÁC DỤNG CỦA TMĐT 15
1.2.1. Lợi ích của TMĐT 15
1.2.2. Hạn chế của TMĐT 17
1.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN TMĐT 19
1.3.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ 19
1.3.2. Hạ tầng cơ sở nhân lực 20
1.3.3. Hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội 21
* Chính sách và chiến lược quốc gia về TMĐT 21
* Hệ thống thanh toán tài chính tự động 22
* Tác động văn hoá xã hội của Internet 22
1.3.4. Hạ tầng cơ sở pháp lý 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CỦA VIỆT NAM 25
2.1. NHỮNG ĐỘNG THÁI CỦA TMĐT TRONG XU THẾ HỘI NHẬP VỚI THẾ GIỚI 25
2.1.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ 25
2.1.2. Hạ tầng cơ sở nhân lực 29
2.1.3. Hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội và pháp lý 30
* Điều kiện về kinh tế 30
* Điều kiện về xã hội 32
* Môi trường pháp lý về TMĐT 34
2.2. HIỆN TRẠNG GIAO DỊCH TMĐT CỦA VIỆT NAM 39
2.2.1. Tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong DN 39
2.2.2. Các mô hình triển khai TMĐT trong DN 41
* Về loại hình sản phẩm 41
* Về phương thức giao dịch 49
2.3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ GIAO DỊCH TMĐT Ở VIỆT NAM 57
2.3.1. Những kết quả đạt được 57
2.3.2. Hạn chế 59
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 62
3.1. DỰ BÁO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TMĐT 62
3.1.1. Nhu cầu của thế giới 62
3.1.2. Nhu cầu của Việt Nam 63
3.2. ĐỊNH HƯỚNG CỦA VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN TMĐT 66
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TMĐT Ở VIỆT NAM 68
3.3.1. Vấn đề nâng cao nhận thức về TMĐT ở Việt Nam 68
* Khối chủ thể Chính phủ 68
* Khối chủ thể doanh nghiệp 70
* Khối chủ thể người tiêu dùng 71
3.3.2. Xây dựng hạ tầng cơ sở pháp lý 71
3.3.3. Xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ 74
* Đối với Chính phủ 74
* Đối với doanh nghiệp 75
3.3.4. Tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại 77
3.3.5. Đẩy mạnh hoạt động thanh toán điện tử trong TMĐT 79
3.3.6. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ người tiêu dùng 80
KẾT LUẬN 84
86 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
diện.
2.2.1. Tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong DN
Theo báo cáo TMĐT 2006 công bố thì nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của CNTT trong việc hỗ trợ các hoạt động quản lý, sản xuất và kinh doanh. Đa số các doanh nghiệp đã có ứng dụng CNTT, cụ thể là trên 80% doanh nghiệp được khảo sát đã áp dụng CNTT.
- Kết nối internet
Kết quả điều tra cho thấy đến năm 2006 có tới 92% doanh nghiệp đã kết nối Internet, trong đó tỷ lệ kết nối băng thông rộng ADSL lên tới 81%. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam, hiện tại có 15 triệu người Việt Nam sử dụng Internet và trong 3 năm tới số người sử dụng Internet ở Việt Nam khoảng 30 triệu người. Thị trường rộng lớn đó cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ là tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT trong những năm sắp tới. [17]
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số yếu tố gây trở ngại đối với việc triển khai ứng dụng Internet trong DN như vấn đề công nghệ, chi phí, chất lượng đường truyền, an toàn bảo mật v.v
- Đầu tư công nghệ thông tin
Kết quả điều tra tổng quan tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong các DN cho thấy tỷ trọng đầu tư cho công nghệ thông tin trên tổng chi phí hoạt động thường niên vẫn còn tương đối thấp: 70% các doanh nghiệp được khảo sát chi dưới 5% cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, bao gồm cả chi phí viễn thông, đầu tư phần mềm, bảo dưỡng hệ thống và đào tạo ứng dụng công nghệ thông tin. Chỉ có khoảng 6% số doanh nghiệp cho biết đang dành trên 15% chi phí hoạt động để đầu tư cho công nghệ thông tin, tuy nhiên con số này không tăng so với năm 2004. Kết quả phỏng vấn các doanh nghiệp cho thấy xu hướng trong vòng 1-2 năm tới vẫn chưa thay đổi, đa phần doanh nghiệp chọn phân bổ khoảng trên dưới 5% chi phí hoạt động hàng năm của mình cho đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin.
Phân tích sâu hơn cơ cấu đầu tư cho công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp được khảo sát, có thể thấy tình hình vẫn chưa được cải thiện nhiều so với năm 2003 và 2004. Đầu tư cho phần cứng vẫn chiếm tỷ trọng lấn át trong tổng đầu tư về công nghệ thông tin của doanh nghiệp, bình quân đạt xấp xỉ 77%, so với 23% dành cho phần mềm và 12,4% dành cho đào tạo. Tỷ trọng đầu tư về phần mềm hiện vẫn rất thấp, nguyên nhân do DN chưa thực sự quan tâm triển khai các ứng dụng chuyên sâu nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong đơn vị mình. Kết quả khảo sát cho thấy số lượng phần mềm tác nghiệp được doanh nghiệp đưa vào sử dụng hiện còn rất hạn chế. Phổ biến nhất hiện nay là phần mềm kế toán, với gần 80% DN được hỏi cho biết đã triển khai ứng dụng ở các cấp độ khác nhau. Phần mềm quản lý nhân sự, quản lý hàng hoá và quả lý khách hàng, mặc dù đã bước đầu được các doanh nghiệp quan tâm với trên 20% số doanh nghiệp điều tra cho biết đang nghiên cứu triển khai, nhưng trong đó các phần mềm chuyên dụng không nhiều.
- Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và TMĐT
Mặc dù mặt bằng chung về mức độ đầu tư cho đào tạo công nghệ thông tin của doanh nghiệp năm 2005 chưa có nhiều thay đổi (12,4 % năm 2005 so với 12,3% của năm 2004), nhưng nhận thức của DN về vấn đề này đã có sự tiến bộ đáng kể.
Trên đây là kết quả điều tra 800 DN và được tổng kết trong Báo cáo TMĐT 2005 của bộ thương mại. Còn theo kết quả điều tra mới đây của VCCI về thực trạng ứng dụng CNTT trong 2.233 doanh nghiệp thuộc 5 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và TP Hồ Chí Minh, các thiết bị phục vụ CNTT được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là máy tính để bàn và máy in, các thiết bị khác như máy scan, máy tính xách tay vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Các doanh nghiệp đã ứng dụng một số phần mềm chuyên dụng phục vụ cho công tác quản trị nhân sự, quản trị quan hệ khách hàng, kế toán. Điều đáng nói là có tới 91% doanh nghiệp đã kết nối internet, trong khi lại có tới 70% chưa xây dựng website riêng cho mình, có nghĩa chưa sử dụng hết sức mạnh của internet vào hoạt động kinh doanh. Trong quá trình ứng dụng CNTT, có tới 24% doanh nghiệp không sử dụng bất kỳ một dịch vụ hỗ trợ nào khác như tư vấn, bảo trì, sửa chữa, thiết kế web Phần lớn các doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ bên ngoài, đặc biệt có tới 96,4% không sử dụng dịch vụ tư vấn, và 97,3% không ứng dụng TMĐT. Thêm vào đó, tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp vào CNTT có sự mất cân đối nghiêm trọng, 59,9% quỹ đầu tư dành cho phần cứng, 10,9% dành cho phần mềm và chỉ có 4,8% cho đào tạo nhân lực trong khi đây là yếu tố rất quan trọng để ứng dụng CNTT có hiệu quả.
2.2.2. Các mô hình triển khai TMĐT trong DN
* Về loại hình sản phẩm
Ngành kinh doanh dịch vụ, với đòi hỏi cao về hàm lượng thông tin và mức độ tương tác giữa khách hàng với nhà cung cấp, rất thích hợp cho môi trường TMĐT. Hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đang vượt lên trước các doanh nghiệp sản xuất trong việc triển khai ứng dụng TMĐT. Đặc biệt năng động là các công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại, du lịch, dịch vụ công nghệ thông tin - truyền thông và vận tải giao nhận. Website của các công ty này chiếm đến 82% số trang web có tính năng hỗ trợ giao dịch TMĐT theo kết quả khảo sát năm 2005. Các sản phẩm dịch vụ cung cấp trên website khá đa dạng, và do không đòi hỏi khâu vận chuyển, sẽ chiếm ưu thế lớn so với hàng hoá trong bài toán hiệu quả của doanh nghiệp khi tiến hành triển khai TMĐT.
Dịch vụ
Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh của thị trường dịch vụ tại Việt Nam, các sản phẩm dịch vụ ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên mạng. Nhiều cấp độ cung cấp dịch vụ khác nhau được phát triển, từ việc xây dựng trang web quảng cáo, gửi thư điện tử, hoặc hình thành những dịch vụ trực tuyến thực sự.
TMĐT đã trở nên khá phổ biến dưới nhiều hình thức. Thực tế kinh doanh TMĐT tiếp tục mở rộng ra những loại hình mới, trong đó tập trung đến việc cung cấp nội dung, cho các phương tiện điện tử. Mặc dù mới triển khai, nhưng các hoạt động trong lĩnh vực này đã được triển khai rộng khắp và đem lại doanh thu đáng kể. Kinh doanh các dịch vụ giá trị gia tăng qua các thiết bị di động tăng nhanh, đặc biệt là các dịch vụ nhạc chuông hình nền, tra cứu thông tin. Nếu như năm 2005 là năm bùng nổ của trò chơi trực tuyến, thì 2006 có thể coi là năm được mùa của dịch vụ cung cấp giá trị gia tăng cho điện thoại di động. Từ chỗ chỉ có gần như một nhà cung cấp dịch vụ duy nhất là VASC, đến nay đã có gấn 50 doanh nghiệp tham gia dịch vụ này với doanh thu lên đến 250 tỷ đồng. Đây thực sự là một tốc độ phát triển mà không dễ ngành sản xuất, kinh doanh nào khác có được. Kinh doanh trong các lĩnh vực đào tạo trực tuyến, báo điện tử, cơ sở dữ liệu trực tuyến, trò chơi trực tuyến, trò chơi tương tác qua truyền hình, bình chọn kết quả thể thao, xem phim, nghe nhạc trực tuyến cũng tăng trưởng.
Cùng với số lượng người sử dụng Internet và thẻ tín dụng tăng nhanh, số lượng người tiêu dùng mua sắm qua mạng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt trong giới trẻ ở khu vực đô thị. Tâm lý và thói quen mua bán bắt đầu thay đổi từ phương thức truyền thông sang phương thức mới của TMĐT. Việt bán vé tàu qua website www.vetau.com.vn là một động thái rất tích cực trong việc “buộc người tiêu dùng phải quan tâm và tham gia TMĐT, dù ở mức đơn giản
Tuy nhiên, do nhiều hạn chế khác nhau như môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, kỹ năng của doanh nghiệp còn thiếu, các phương tiện thanh toán trực tuyến chưa phát triển, nên thị trường dịch vụ trực tuyến còn cần thời gian để thực sự trở thành một lĩnh vực thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp.
Sau đây là tình hình phát triển một số loại hình dịch vụ đang ứng dụng mạnh TMĐT:
Dịch vụ CNTT và truyền thông
Với bản chất của dịch vụ là hỗ trợ các đối tượng khác trong xã hội triển khai ứng dụng CNTT và TMĐT, những doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực dịch vụ CNTT hiện là bộ phận đi tiên phong ứng dụng TMĐT để phục vụ việc kinh doanh của bản thân mình. Từ danh sách 1320 doanh nghiệp CNTT trong Niên giám CNTT Việt Nam 2005, có thể thấy 54% đơn vị đã thiết lập website và 100% đơn vị có địa chỉ email giao dịch. Đây là tỷ lệ tính chung cho cả doanh nghiệp kinh doanh thiết bị và phần mềm – dịch vụ. Nếu tách riêng nhóm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phần mềm – dịch vụ, thì mức độ ứng dụng TMĐT còn cao hơn rất nhiều.
Kết quả khảo sát sơ bộ 50 doanh nghiệp cung cấp những dịch vụ CNTT khác nhau như dịch vụ Internet - Intranet, dịch vụ thiết kế website và quảng cáo trực tuyến, dịch vụ phần mềm và giải pháp TMĐT, dịch vụ web hosting, dịch vụ đào tạo và tư vấn CNTT cho thấy 85% doanh nghiệp đã thiết lập website và coi đây là một kênh quảng bá tiếp thị quan trọng để thu hút khách hàng tiềm năng. Với sự tăng trưởng mạnh của khối doanh nghiệp kinh doanh phần mềm – dịch vụ trong những năm gần đây (tỷ lệ tăng bình quân 35%/năm) và tỷ trọng ngày càng lớn của phần mềm/dịch vụ trong tổng giá trị thị trường CNTT, dịch vụ công nghệ thông tin sẽ là ngành dịch vụ mũi nhọn về ứng dụng TMĐT và thúc đẩy ứng dụng TMĐT của cả cộng đồng doanh nghiệp.
Dịch vụ du lịch
Trong lĩnh vực dịch vụ phi CNTT, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch tỏ ra năng động hơn cả trong việc khai thác kênh thông tin - tiếp thị Internet. Hầu hết những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch, đặc biệt là dịch vụ lữ hành quốc tế, đã xây dựng trang web nhằm quảng bá sản phẩm dịch vụ của mình. Khách hàng trong nước và quốc tế có thể truy cập vào những trang web này để tìm kiếm thông tin về tour du lịch, giá cả, khách sạn, mô tả về các danh lam thắng cảnh cùng nhiều dạng dịch vụ khác.
Dịch vụ thông tin
Trong thời đại thông tin hiện nay, thông tin đang trở thành một lợi thế cạnh tranh đồng thời là lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng cho doanh nghiệp. Với khả năng cập nhật liên tục và không bị giới hạn về dung lượng, với tính tiện lợi để truy xuất và tổng hợp thông tin, mạng Internet là một phương tiện lý tưởng để các doanh nghiệp cung cấp dịnh vụ này khai thác. Dựa trên đặc thù của thông tin, có hai phương thức kinh doanh cơ bản sau:
Với thông tin tổng hợp – là loại thông tin phổ cập, dễ phát tán và có thể tìm thấy trên nhiều nguồn khác nhau – doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin thường không tạo nguồn thu từ phí truy cập thông tin mà cố gắng mở rộng phạm vi người đọc để kinh doanh dịch vụ quảng cáo. Tiêu biểu: vnexpress.net – FPT, vnn.vn – VASC, vnmedia.vn – VDC, v.v...
Với thông tin chuyên ngành – là loại thông tin phục vụ cho các nhu cầu chuyên biệt hoặc hướng tới một nhóm đối tượng có chọn lọc – doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin sẽ tạo ra giá trị gia tăng từ việc thu thập, tổng hợp và tổ chức thông tin theo cấu trúc. Các thông tin dạng này thường có thu phí.
Phần lớn thông tin trên các website Việt Nam hiện nay vẫn được cung cấp miễn phí, tuy một số đơn vị đã bắt đầu hình thành dịch vụ cung cấp thông tin thu phí, nhằm vào nhóm đối tượng có nhu cầu cụ thể.
Dịch vụ tư vấn
Trong lĩnh vực tư vấn, hầu hết các công ty chỉ dừng lại ở mức xây dựng trang web giới thiệu hoạt động của mình, chưa coi Internet như một công cụ cho phép tương tác với khách hàng. Việc tư vấn trực tuyến chỉ mang tính hình thức, việc tư vấn thu phí qua Internet chưa phát triển.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở Tp. Hồ Chí Minh tỏ ra năng động hơn trong việc khai thác Internet như một kênh quảng cáo thông tin và tìm kiếm khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, rất nhiều trang web của những trung tâm tư vấn nhà đất đã được xây dựng với lượng thông tin phong phú như v.v... Trong lĩnh vực tư vấn pháp lý: Công ty Tư vấn Luật Việt www.luatviet.com, công ty luật Leadco (Hà Nội) www.leadcolayers.com
Dịch vụ giáo dục và đào tạo trực tuyến
Đào tạo trực tuyến là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình giao tiếp giữa người dạy và người học trên các phương tiện điện tử. Đào tạo trực tuyến được coi là một phương thức đào tạo mới và hứa hẹn đem lại nhiều lợi ích cho người học như tiết kiệm thời gian, chi phí, không bị giới hạn về không gian, tận dụng công nghệ, lựa chọn được thứ mình cần học, nâng cao khả năng tổng hợp kiến thức, tiếp cận dễ dàng với những mô hình đào tạo hiện đại, v.v
Loại hình dịch vụ này đang phát triển khá nhanh trong những năm gần đây. Cho đến nay trên cả nước có khoảng 300 trang web cung cấp thông tin tư vấn về giáo dục, luyện thi trực tuyến, đào tạo từ xa, thí điểm thi trực tuyến, phục vụ tuyển sinh
Nhiều trung tâm giáo dục và đào tạo trong nước và liên doanh với nước ngoài bắt đầu chú ý tới loại hình đào tạo trực tuyến. Một trong những tên tuổi được biết đến khá nhiều là Trung tâm đào tạo CNTT APTECH, với một số chương trình đào tạo được cung cấp trực tiếp qua website www.onlinevarsity.com. Ngoài ra còn có một số công ty cung cấp hình thức đào tạo tiếng anh qua mạng như www.cleverland.com.vn, hay www.globalenglish.com.vn....
Công ty phát triển phần mềm VASC và Công ty tư vấn đầu tư TMC phối hợp cung cấp chương trình luyện thi đại học trực tuyến đầu tiên của Việt Nam qua trang web www.truongthi.com.
Khởi sắc trong cung cấp dịch vụ trực tuyến dịch vụ công
Năm 2006, trong bối cảnh hội nhập, Nhà nước cũng cần thay đổi để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thông qua quyết tâm hiện đại hoá nền hành chính, xây dựng chính phủ điện tử để phục vụ doanh nghiệp tốt hơn. Các cơ quan nhà nước trong thời gian qua đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giao tiếp với doanh nghiệp, công dân. Hầu hết các bộ, ngành và địa phương đều đã có website trong đó cung cấp nhiều thông tin đa dạng và cần thiết cho doanh nghiệp, Một số cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương bắt đầu cung cấp trực tuyến dịch vụ công ở mức đơn giản như cấp đăng ký kinh doanh điện tử, khai hải quan điện tử, đấu thầu mua sắm công, cấp chứng nhận xuất xứ điện tử, cấp phép xây dựng, tra cứu trạng thái hồ sơ, tra cứu thông tin quy hoạch.
Hàng hoá
Sản phẩm có độ tiêu chuẩn hóa cao
Với những sản phẩm đạt mức độ tiêu chuẩn hóa cao, thông qua các thông số kỹ thuật, người mua có thể đánh giá một cách toàn diện và có ý niệm tương đối đầy đủ về sản phẩm mà không cần phải giám định một cách trực quan. Do đặc thù này, những sản phẩm kỹ thuật tiêu chuẩn hóa rất phù hợp với hình thức kinh doanh trực tuyến, khi người mua không có điều kiện trực tiếp tiếp xúc và đánh giá sản phẩm. Một số nhóm hàng sau đây đã được triển khai rộng rãi trong kinh doanh trực tuyến trên thế giới và bước đầu thử nghiệm thành công ở Việt Nam:
Máy tính và linh kiện máy tính
Thiết bị điện tử và viễn thông (đồ điện tử gia dụng, máy ảnh, điện thoại, v.v)
70% các siêu thị điện tử của Việt Nam hiện nay nhận cung cấp máy tính, linh kiện máy tính và điện thoại di động. Có những siêu thị chuyên doanh như chợ máy tính www.canthomart.com của Trung tâm Tin học Bưu điện Cần Thơ, và có siêu thị tổng hợp như www.vietnamshops.com với các gian hàng lớn dành cho thiết bị điện tử và tin học. Thành công nhất hiện nay là những “siêu thị mobile”, do đối tượng khách hàng hướng tới là giới trẻ và giới có thu nhập khá trở lên, là tầng lớp phần nào đã quen thuộc với việc mua sắm trên mạng Internet. Mặc dù tỷ lệ bán hàng trực tuyến vẫn còn thấp do trở ngại về thanh toán, nhưng những siêu thị này là kênh thu hút khách hàng rất hiệu quả của các công ty kinh doanh điện thoại di động. Chiến lược xây dựng website của các công ty này là cung cấp những thông số kỹ thuật rất chi tiết về sản phẩm, đa dạng hoá chủng loại mặt hàng trưng bày, và thường xuyên cập nhật giá cả trên website. Những thông tin này, một khi đã thuyết phục được khách hàng, sẽ trực tiếp dẫn đến việc đặt hàng (qua điện thoại hoặc đến cửa hàng). Một số công ty kinh doanh điện thoại di động cho biết 20% đến 30% lượng hàng bán ra xuất phát từ việc khách hàng tìm hiểu thông tin trên website của công ty.
Sản phẩm số hoá
Sản phẩm số hóa được sản xuất và lưu trữ trên nền tảng kỹ thuật của công nghệ thông tin và truyền thông, được tiêu thụ trong môi trường ảo, do đó thích hợp hơn cả với hình thức kinh doanh điện tử. Một ưu thế của loại sản phẩm này khi ứng dụng trong TMĐT là tiết kiệm hoàn toàn chi phí vận chuyển. Tuy nhiên, điểm bất lợi cơ bản của hàng hoá số hoá là rất dễ bị sao chép bất hợp pháp.
Việt Nam được xếp hàng đầu thế giới về vi phạm bản quyền. Có thể dễ dàng thấy những cửa hiệu bán băng đĩa ca nhạc, phim ảnh, phần mềm ở nhiều nơi trên cả nước với giá chỉ khoảng 8 - 9 nghìn đồng, rẻ hơn nhiều lần giá trị thật của sản phẩm. Và các nhà sản xuất phần mềm, nhạc sỹ, ca sỹ của Việt Nam cũng không bị loại trừ khỏi đối tượng chịu thiệt hại từ tệ nạn này. Một ví dụ tiêu biểu là phần mềm từ điển Lạc Việt, đĩa CD của phần mềm này được chào bán ngoài thị trường với giá 8 nghìn/đĩa trong khi giá gốc khoảng 300 nghìn đồng.
Tuy nhiên, việc kinh doanh loại hình sản phẩm này cũng đang dần phát triển. Sau đây là một số ví dụ về sản phẩm số hoá của Việt Nam có thể tìm thấy trên mạng Internet: các sản phẩm giải trí như các bản nhạc: giaidieu.net; mp3.com.vn; nhacso.net Từ điển : lacviet.com.vn; sách điện tử www.book-vn.com; phần mềm vi tính vietkeygroup.com; phần mềm kế toán www.misa.com.vn
Việc kinh doanh trực tuyến các sản phẩm số hoá ở Việt Nam còn đang trong quá trình thử nghiệm và còn khiêm tốn về phạm vi hoạt động. Nhưng đáng chú ý có một số đơn vị đã bắt đầu xây dựng những mô hình kinh doanh khá bài bản, hướng tới việc tận dụng mạng Internet làm kênh phân phối tiếp thị chính cho loại sản phẩm này.
Trong thời gian tới nếu các quy định pháp luật về bản quyền được thực hiện nghiêm minh thì khả năng phát triển của mảng kinh doanh này sẽ rất lớn. Các công ty có thể dự tính tới việc trở thành nhà phân phối cho những trò chơi điện tử thịnh hành trên thị trường thế giới và được ưa thích tại Việt Nam.
Sản phẩm thông tin (Sách, báo, tạp chí, đĩa phim, đĩa nhạc)
Là hàng hoá chuyển tải nội dung, sách, phim, đĩa nhạc là những mặt hàng mà người mua có thể tìm hiểu về sản phẩm không cần qua tiếp xúc trực quan; việc vận chuyển cũng đơn giản và không đòi hỏi chi phí cao. Do đó đây là nhóm hàng rất thích hợp để áp dụng phương thức kinh doanh trực tuyến. Ngoài ra, mô hình cửa hàng trực tuyến còn tận dụng được tối đa khả năng thông tin của mạng Internet để cập nhật những chi tiết liên quan đến sản phẩm, kết nối với nhiều nhà cung cấp khác nhau và mở rộng phạm vi lựa chọn cho khách hàng Người tiêu dùng của loại hàng hoá này sẽ được cung cấp dịch vụ với chất lượng cao. Theo số liệu chính thức của các cơ quan chức năng về báo chí - xuất bản, tính đến thời điểm tháng 7/2006 cả nước có 88 báo điện tử và khoảng 2.000 bản tin, trang tin điện tử.
Thiếp, hoa, quà tặng
Đây là những sản phẩm gọn nhẹ, giá không cao, chi phí vận chuyển thấp nên khá thích hợp với phương thức bán hàng trực tuyến. Một đặc điểm nổi bật nữa khiến nhóm hàng này trở nên phổ biến trong các giao dịch trên mạng là thường người mua không phải người tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Hàng hóa được mua chủ yếu để tặng nên nếu người bán kiêm luôn dịch vụ chuyển phát thì tiết kiệm được rất nhiều công sức và thời gian cho người mua hàng. Chi phí vận chuyển trong trường hợp này không phải là chi phí phát sinh, vì khi người tặng quà và người nhận quà ở xa nhau thì phí bưu điện có thể còn cao hơn phí chuyển quà của cửa hàng. Ngoài ra, lợi thế của cửa hàng trực tuyến là có thể chuyển những loại quà dễ và nhanh hỏng như hoa, bánh ngọt cho người nhận quà ở trên cùng địa bàn với cửa hàng.
Nhu cầu tặng quà của giới trẻ hiện nay rất lớn. Đối tượng này lại khá nhanh nhạy với các ứng dụng TMĐT nên tiềm năng thị trường cho nhóm sản phẩm này tương đối rộng.
Hàng thủ công mỹ nghệ
Là một trong những sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam và là mặt hàng được nhà nước ưu tiên hỗ trợ do mang lại hiệu quả xã hội cao, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ hiện đang rất phổ biến trên các website TMĐT của Việt Nam. Sàn giao dịch điện tử www.vnemart.com.vn ra đời thoạt tiên như một sáng kiến thúc đẩy xuất khẩu trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ phát triển thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ các làng nghề truyền thống Việt Namô. Nhóm hàng này cũng chiếm không gian lớn trên một loạt website TMĐT khác như www.goodsonlines.com, www.vnmarketplace.net, và trên 11% số doanh nghiệp có website được khảo sát tại báo cáo này hoạt động trong lĩnh vực sản xuẩt kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.
Mặc dù không có những đặc tính lý tưởng của loại hình sản phẩm dành cho phương thức kinh doanh TMĐT như hàng hoá số hoá hay thiết bị điện tử viễn thông, mức độ phổ biến của nhóm hàng thủ công mỹ nghệ trên các website TMĐT Việt Nam là một nét phát triển riêng biệt, phù hợp với đặc điểm của nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp cũng như định hướng thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng này tại Việt Nam. Sự nở rộ các website của doanh nghiệp kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ với giao diện chủ yếu bằng tiếng Anh còn cho thấy nhu cầu thị trường nước ngoài với mặt hàng này là tương đối lớn, đủ để tạo động lực khiến doanh nghiệp đầu tư xây dựng những trang web mang tính chuyên nghiệp khá cao so với mặt bằng chung của các website công ty khác.
*Về phương thức giao dịch
Phương thức B2C
Đây là phương thức thích hợp đối với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ do khi có nhu cầu mua sắm, người tiêu dùng muốn tìm được thông tin đa dạng về các loại hàng hoá và sản phẩm khác nhau ngay tại một chỗ. Các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra hàng hoá sẽ khó lòng đáp ứng nhu cầu này do mỗi doanh nghiệp chỉ tập trung sản xuất một vài sản phẩm nhất định. Trong khi đó, doanh nghiệp thương mại dịch vụ vốn chỉ đóng vai trò phân phối sản phẩm sẽ có lợi thế hơn trong việc tập hợp các nguồn hàng khác nhau để đa dạng hoá sản phẩm trưng bày, tạo thuận lợi tối đa cho người tiêu dùng.
Trong vài năm qua, số lượng website TMĐT B2C ở Việt Nam không ngừng tăng. Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2004 ước tính có khoảng 17.500 website doanh nghiệp vào thời điểm cuối tháng 12/2004, trong số này có rất nhiều website theo định hướng B2C. Với phương thức B2C, năm 2006 là năm đầu tiên xuất hiện hình thức Website so sánh giá. Hình thức này không xa lạ trên thế giới, nhưng còn mới mẻ ở Việt Nam, www.aha.vn là website tiên phong đi theo hướng này, ưu điển của website so sánh gia so với một website bán hàng thông thường là cho phép người mua có sự lựa chọn đa dạng về nguồn cung cấp đối với một mặt hàng, kèm theo đó là những điều kiện khác biệt về giá, chế độ khuyến mãi, bảo hành, giao nhận, thanh toán. Tuy nhiên, số lượng website kinh doanh TMĐT B2C một cách thật sự chuyên nghiệp cho đến này vẫn chưa nhiều.
ở Việt Nam, các siêu thị trực tuyến hiện cũng đang là mô hình ứng dụng B2C năng động và thu hút nhiều sự quan tâm nhất của dư luận cũng như người tiêu dùng.
Đặc thù của loại hình siêu thị trực tuyến là sản phẩm giới thiệu trên website do nhiều nhà sản xuất khác nhau cung cấp, nhưng đơn vị quản lý website sẽ chịu trách nhiệm cập nhật thông tin, tiến hành giao dịch với khách hàng, và tổ chức khâu phân phối sản phẩm. ở Việt Nam, đây hiện là những website gần hơn cả với tiêu chuẩn website TMĐT của thế giới, xét về nền tảng kỹ thuật khá tiên tiến, thông tin đa dạng cập nhật, lượng giao dịch tương đối cao và tạo ra doanh thu thực tế cho doanh nghiệp chủ trì website.
Mặc dù chỉ chiếm hơn 5% trong tổng số website doanh nghiệp, các siêu thị trực tuyến đang là hình thức ứng dụng TMĐT B2C hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển, do những lợi thế sau mà các website bán hàng công ty không có được:
Chủng loại sản phẩm phong phú, đáp ứng được các nhu cầu mua sắm đa dạng tại một điểm dừng duy nhất, tiết kiệm thời gian tìm kiếm và truy nhập Internet cho khách hàng.
Thông tin giá cả và sản phẩm được cập nhật, tiện cho việc so sánh đối chiếu giữa các chủng loại mặt hàng khác nhau
Đơn vị quản lý những website dạng này thường có đội ngũ giao hàng tận nơi để hoàn tất quy trình giao dịch bắt đầu từ khâu đặt hàng qua thông tin trên web.
Một số siêu thị trực tuyến của Việt Nam
Công ty TNHH G.O.L Co.
www.golmart.com.vn
Vietnamshops.com
www.vietnamshops.com
Công ty Tư vấn và Đầu tư P.H.I
www.camnangmuasam.com
Công ty VietNet
www.netasie-shop.com/
Trung tâm tin học Bưu điện Cần Thơ
Công ty TNHH TM&DV mua bán
Công ty TNHH Dịch vụ và Siêu thị tại nhà
www.sieuthitainha.com.vn/
Nhà sách Tiền Phong
www.tienphong-vdc.com.vn
Siêu thị điện máy Chợ Lớn
Trung tâm điện máy và nội thất Thiên Hoà
www.thienhoaelectric.com/
Công ty H&B Co., Ltd
www.megabuy.com.vn/
Công ty phát triển Tin học và Công nghệ DTIC
www.dtic.com.vn
Công ty cổ phần dịch vụ thương mại EQ
www.eqmuaban.com
Công ty TGN
www.westcom.com.vn
Công ty TNHH NetCom
www.netcom.com.vn
Công ty Thuận Quốc
www.thuanquoc.com.vn
Công ty Vĩnh Trinh
www.vinhtrinh.com.vn
Công ty CP kinh doanh máy và thiết bị phụ tùng
www.seatech.com.vn
Một điểm đáng lưu ý là hiện nay chưa có tập đoàn kinh doanh siêu thị nào ở Việt Nam thiết lập một hệ thống bán hàng song hành trên mạng. Các website siêu thị trực tuyến thường do một trong hai đối tượng doanh nghiệp sau đứng ra tổ chức:
Các công ty thương mại, sẵn có trong tay một mạng lưới cung ứng và nguồn hàng ổn định. Khi đó siêu thị trực tuyến sẽ giống như một cửa hàng trưng bày và giới thiệu sản phẩm mở rộng. Lợi thế của những công ty này là tự chủ được về nguồn hàng vì duy trì quan hệ thường xuyên với các nhà cung cấp của kênh bán hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7322.doc