Trong quan hệ dân sự, yếu tố chủ thể luôn là yếu tố hàng đầu cần được đề cập đến và được điều chỉnh trong pháp luật, vì chỉ có các chủ thể mới tạo ra quan hệ dân sự. Và trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài là một trong những chủ thể cơ bản. Khi xét đến chủ thể là người nước ngoài thì trước tiên cần xét đến yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự vì chính yếu tố này là không thể thiếu và không thể tách rời nhau, tạo thành năng lực chủ thể - khả năng mà Nhà nước cho phép cá nhân, tổ chức nào đó tham gia vào quan hệ pháp luật khi đã thỏa mãn những điều kiện nhất định được pháp luật quy định. Điều 761 quy định Quy định này đã bổ sung thêm khoản 1 so với quy định về năng lực pháp luật của người nước ngoài của Bộ luật dân sự 1995, khẳng định rằng năng lực pháp luật của cá nhân người nước ngoài sẽ được xác định theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch, hay nói cách khác là nước mà người đó là công dân. Quy định này của pháp luật Việt Nam phù hợp với thông lệ của tư pháp quốc tế khi sử dụng một hệ thuộc cơ bản của tư pháp quốc tế là hệ thuộc luật nhân thân, mà cụ thể là hệ thuộc luật quốc tịch.
Trong khoa học pháp lý lâu nay, năng lực pháp luật của một cá nhân vẫn được hiểu là “khả năng của cá nhân được hưởng các quyền dân sự và gánh vác các nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật xuất hiện trên cơ sở pháp luật của mỗi quốc gia, vì thế, công dân của mỗi nước khác nhau thì có năng lực pháp luật khác nhau và được hình thành trên những điều kiện khác nhau. Việc quy định năng lực pháp luật của mỗi cá nhân được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người đó mang quốc tịch là hoàn toàn hợp lý và khoa học. Quy định như vậy còn cho thấy rõ quan điểm của Việt Nam về vấn đề này, đó là tôn trọng pháp luật của nước mà người nước ngoài đã lựa chọn mang quốc tịch.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7412 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hệ thống quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được nêu ra ở phần Phạm vi.
Hiện nay, trong khoa học tư pháp quốc tê tồn tại một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau:
Luật nhân thân (lex personalis): bao gồm hai loại biến dạng là luật quốc tịch ( lex patriae) là luật của quốc gia mà đương sự là công dân và luật nơi cư trú (lex domicilii) được hiểu là luật của nước nơi mà đương sự có nơi cư trú ổn định. Hai kiểu hệ thuộc này đều thuộc quy chế dân sự của cá nhân (status personalis) của nguyên tắc luật nhân thân được sử dụng rộng rãi trong tư pháp quốc tế của nhiều nước trên thế giới mà chủ yếu là trong các quan hệ dân sự liên quan đến vấn đề nhân thân.
Luật quốc tịch của pháp nhân (lex societatis) là luật của quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch. Quy chế pháp lý này của pháp nhân thường được xác định thông qua một trong ba dấu hiệu cơ bản: nơi trung tâm quản lý của pháp nhân; nơi đăng ký thành lập của pháp nhân; nơi pháp nhân tiến hành hoạt động, kinh doanh chính trên thực tế…
Luật nơi có vật (lex rei sitae) được hiểu là vật (tài sản) đang ở đâu thì vật của nước đó sẽ được áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến vật (tài sản) đó. Hệ thuộc này thường được áp dụng để giải quyết các quan hệ về sở hữu có yếu tố nước ngoài.
Luật do các bên ký kết hợp đồng lựa chọn (lex voluntatis) được áp dụng trong các quan hệ về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, chủ yếu là trong lĩnh vực thương mại và hàng hải quốc tế. Quy định của hệ thuộc này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của hợp đồng là tự nguyện, tự do ý chí và hoàn toàn bình đẳng thỏa thuận giữa các bên.
Luật nơi thực hiện hành vi (lex loci actus): bao gồm rất nhiều loại như Luật nơi ký kết hợp đồng (lex loci contratus), luật nơi thực hiện nghĩa vụ (lex loci soluntiontis), luật nơi thực hiện hành động (lex loci actus)…
Luật nơi vi phạm pháp luật (lex loci delicti commissi): được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật được giải quyết theo pháp luật nơi có hành vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại. Đây là một hệ thuộc được hình thành từ rất sớm trong tư pháp quốc tế và được ghi nhận trong hầu hết luật của các nước trên thế giới.
Ngoài ra còn có một số hệ thuộc khác như luật nước người bán (lex venditoris), luật tiền tệ (lex monetae), luật tòa án (lex fori)…
Áp dụng pháp luật nước ngoài
Trong thực tế, việc áp dụng các quy phạm xung đột có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Áp dụng pháp luật nước ngoài là “hoạt động thi hành pháp luật quốc gia thông qua việc áp dụng quy định của pháp luật nước ngoài nhằm điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”. Khi xảy ra hiện tường xung đột pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ áp dụng pháp luật nước ngoài khi có QPXĐ dẫn chiếu tới. QPXĐ có thể là QPXĐ trong pháp luật Việt Nam, cũng có thể nằm trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trong trường hợp QPXĐ trong điều ước quốc tế và trong pháp luật Việt Nam đều cùng điều chỉnh một quan hệ hoặc nhóm quan hệ nhất định mà có nội dung khác nhau thì ưu tiên áp dụng quy định của điều ước quốc tế (theo khoản 2 điều 759)
Khi QPXĐ dẫn chiếu tới luật pháp nước ngoài thì có nghĩa là dẫn chiếu tới toàn bộ hệ thống pháp luật của nước đó, không loại trừ luật nội dung, luật hình thức hay luật xung đột, cũng không phải chỉ dẫn chiếu đến một số những quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ cụ thể… Như vậy, khi áp dụng pháp luật nước ngoài là áp dụng toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài nên nó phải được giải thích, xác định nội dung và áp dụng để giải quyết vụ việc đúng như quy định của quốc gia đã ban hành. Có thể nói, đây chính là điều kiện tiên quyết để bảo hộ một các thiết thực quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân và pháp nhân nước mình khi các quan hệ pháp luật pháp sinh ở nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại BLDS điều 759:…
Qua phân tích lý luận và tìm hiểu thực tiễn đều có thể thấy được sự cần thiết của việc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với mỗi quốc gia và bản thân mỗi chủ thể trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên việc áp dụng pháp luật nước ngoài luôn gắn liền với việc tôn trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì thế, đi kèm với quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra quy định là việc áp dụng đo hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Đây chính là nội dung của vấn đề “bảo lưu trật tự công cộng” trong tư pháp quốc tế. Có thể hiểu quy tắc “bảo lưu trật tự công cộng” là việc pháp luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ, không được áp dụng nếu việc áp dụng đó dẫn đến hậu quả xấu, tai hại hoặc mâu thuẫn với những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội cũng như pháp luật của nước mình. Nội dung này cũng được quy định tương đối việc áp dụng tập quán quốc tế để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại khoản 4 điều 759.
CHƯƠNG 2. Hệ thống quy phạm xung đột trong bộ luật dân sự năm 2005
2.1. Hệ thống các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế Việt Nam trước khi Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời
2.2. Sự ra đời và vai trò của phần thứ bảy trong Bộ luật dân sự 2005
2.3. Các quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật dân sự 2005
2.3.1. Các quy phạm xung đột về năng lực chủ thể
* Năng lực pháp luật của cá nhân là người nước ngoài
Trong quan hệ dân sự, yếu tố chủ thể luôn là yếu tố hàng đầu cần được đề cập đến và được điều chỉnh trong pháp luật, vì chỉ có các chủ thể mới tạo ra quan hệ dân sự. Và trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài là một trong những chủ thể cơ bản. Khi xét đến chủ thể là người nước ngoài thì trước tiên cần xét đến yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự vì chính yếu tố này là không thể thiếu và không thể tách rời nhau, tạo thành năng lực chủ thể - khả năng mà Nhà nước cho phép cá nhân, tổ chức nào đó tham gia vào quan hệ pháp luật khi đã thỏa mãn những điều kiện nhất định được pháp luật quy định. Điều 761 quy định… Quy định này đã bổ sung thêm khoản 1 so với quy định về năng lực pháp luật của người nước ngoài của Bộ luật dân sự 1995, khẳng định rằng năng lực pháp luật của cá nhân người nước ngoài sẽ được xác định theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch, hay nói cách khác là nước mà người đó là công dân. Quy định này của pháp luật Việt Nam phù hợp với thông lệ của tư pháp quốc tế khi sử dụng một hệ thuộc cơ bản của tư pháp quốc tế là hệ thuộc luật nhân thân, mà cụ thể là hệ thuộc luật quốc tịch.
Trong khoa học pháp lý lâu nay, năng lực pháp luật của một cá nhân vẫn được hiểu là “khả năng của cá nhân được hưởng các quyền dân sự và gánh vác các nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật xuất hiện trên cơ sở pháp luật của mỗi quốc gia, vì thế, công dân của mỗi nước khác nhau thì có năng lực pháp luật khác nhau và được hình thành trên những điều kiện khác nhau. Việc quy định năng lực pháp luật của mỗi cá nhân được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người đó mang quốc tịch là hoàn toàn hợp lý và khoa học. Quy định như vậy còn cho thấy rõ quan điểm của Việt Nam về vấn đề này, đó là tôn trọng pháp luật của nước mà người nước ngoài đã lựa chọn mang quốc tịch.
Ngoài ra, đối với người nước ngoài, pháp luật Việt nam còn quy định “người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác”. Quy định này của khoản 2 điều 761 giữ nguyên quy định tại điều 830 BLDS 1995 trước đây. Bằng quy định này, BLDS quy định nguyên tắc đãi ngộ như công dân nước mình cho người nước ngoài tại Việt Nam đối với khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, cũng như ở tất cả các quốc gia khác, không phải bất kỳ lĩnh vực nào, người nước ngoài cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ dân sự như đối với công dân Việt Nam. Điều này có thể xuất phát từ lý do bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia, cũng có thể xuất phát từ nguyên tắc “có đi có lại” trong tư pháp quốc tế. Một trong những biểu hiện rõ nét của sự hạn chế này đối với người nước ngoài là trong vấn đề cư trú, đi lại trên lãnh thổ Việt Nam. Theo quy định tại Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam thì người nước ngoài không được cư trú tại khu vực cấm người nước ngoài cư trú, không được đi lại tại những khu vực cấm người nước ngoài đi lại, trừ trường hợp có sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam quản lý khu vực cấm đó (Điều 11, 12 của Pháp lệnh).
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài
Điều 762 quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài như sau:…
Cũng như đối với năng lực pháp luật, năng lực hành vi của cá nhân người nước ngoài được pháp luật Việt nam xác định bằng việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch… Tuy nhiên, một điểm khác biệt có thể nhận thấy giữa quy định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân là người nước ngoài đó là chế độ đãi ngộ công dân không còn được áp dụng để xác định năng lực hành vi của cá nhân người nước ngoài. Sở dĩ có sự khác biệt này có thể hiểu là do xuất phát từ sự khác biệt giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Nếu như năng lực pháp luật là “khả năng mà nhà nước thừa nhận cho cá nhân bằng những hành vi của chính mình có thể xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý”. Năng lực hành vi của một người được hình thành và phát triển gắn liền với môi trường kinh tế - xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền. Do vậy, năng lực hành vi của một cá nhân có quan hệ chặt chẽ với truyền thống văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh lịch sử, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Vì thế sẽ là dễ hiểu khi quy định các hệ thuộc như luật quốc tịch, luật nơi cư trú được dùng để xác định năng lực hành vi của nước ngoài.
Tuy nhiên đối với việc xác định năng lực hành vi của cá nhân là người nước ngoài, pháp luật Việt Nam vẫn ghi nhận trường hợp ngoài lệ không áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Vậy trường hợp ngoại lệ đó là trường hợp nào? Có thể thấy ở ngay khoản 2 của điều luật chính là một ngoại lệ đầu tiên của quy định tại khoản 1. Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trên lãnh thổ Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam. Quy định này sẽ là thuận tiện cho các giao dịch dân sự mà người nước ngoài xác lập, thực hiện tại Việt Nam.
Liên quan đến vấn đề năng lực hành vi dân sựu của người nước ngoài, BLDS2005 đồng thời đưa ra quy định về việc xác định người nước ngoài không có, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị mất tích hoặc chết. Điều 763 đưa ra quy tắc xác định…
Điều 764:…
Đây là những QPXĐ hoàn toàn mới của BLDS 2005 so với BLDS 1995. Những điều luật này cơ bản đã giải quyết được các vấn đề cụ thể đã, đang và sẽ phát sinh trong thực tiễn tư pháp. Trên thực tế, việc xác định người không có năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng như việc xác định một người mất tích hoặc đã chết là những việc cần thiết và cũng thường gặp trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Nguyên tắc phổ biến được nhiều nước áp dụng để xử lý vấn đề này là nguyên tắc Lex personalis, là pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch, vì vấn đề này trực tiếp liên quan đến nhân thân của người đó. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra một quy định khá quan trọng là việc xác định các vấn đề nói trên đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Đây có thể xem là một bước tiến quan trọng trong lý luận và thực tiễn tư pháp quốc tế Việt Nam.
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài
Bên cạnh cá nhân, pháp nhân nước ngoài cũng là một chủ thể quan trọng trong tư pháp quốc tế. Liên quan đến pháp nhân trong tư pháp quốc tế, có hai vấn đề cần quan tâm là quốc tịch và quy chế nhân thân của pháp nhân. Quốc tịch của pháp nhân xác định quy chế nhân thân của pháp nhân đó, ngược lại, quy chế nhân thân của pháp nhân được hình thành thể hiện sự ràng buộc pháp lý giữa pháp nhân đó với một quốc gia nhất định, chính là quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch. Tức là hai vấn đề này liên quan mật thiết với nhau, đôi khi người ta đồng nhất hai khái niệm này nhưng thực chất đấy là hai khái niệm có sự độc lập tương đối. Quy chế nhân thân xác định địa vị pháp lý nói chung của pháp nhân, giải dáp các vấn đề như doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hay không; thể thức thành lập, giải thể, chấm dứt hoạt động như thế nào… Còn khái niệm quốc tịch thường được dùng để phân biệt giữa pháp nhân của nước sở tại với pháp nhân nước ngoài.
Thực tiễn tư pháp quốc tế sử dụng nhiều dấu hiệu để xác định quốc tịch và quy chế nhân thân của pháp nhân, trong đó có ba dấu hiệu cơ bản là: nơi trung tâm quản lý của pháp nhân; nơi đăng ký thành lập của pháp nhân; nơi pháp nhân tiến hành các hoạt động, kinh doanh chính trên thực tế.
Pháp luật Việt Nam không có quy định về xác định quốc tịch cho pháp nhân mà chỉ quy định việc xác định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài tại điều 765:…
Quy phạm trên quy định rằng khi xem xét vấn đề năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài phải căn cứ vào pháp luật của nước nơi pháp nhân đó thành lập. Như vậy, có thể nói BLDS đã gián tiếp thừa nhận nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào nơi thành lập của pháp nhân đó, tức là sử dụng hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân (lex societatis), không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở chính hay nơi kinh doanh chính của pháp nhân đó.
Với tinh thần đó, các xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và cả các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng được thành lập theo Luật đầu tư 2005 đều là những pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam. Ngược lại, tất cả những pháp nhân không mang quốc tịch Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài.
Do các quy định của pháp luật các nước về nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân được hai hay nhiều nước đồng thời coi là pháp nhân mang quốc tịch nước mình trên thực tế. Các quốc gia đã tiến hành ký kết với nhau các điều ước quốc tế nhằm thống nhất nguyên tắc xác định quốc tịch pháp nhân cũng như thừa nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức được thành lập và hoạt động theo pháp luật của các nước hữu quan…
Khi hoạt động với tư cách pháp nhân nước ngoài ở một quốc gia nào đó, ngoài việc tuân theo quy chế nhân thân xác định địa vị pháp lý do pháp luật của nước mà nó mang quốc tịch thì pháp nhân đó còn phải tuân theo pháp luật của nước sở tại. Khoản 2 điều 765 quy định rõ đối với pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân đó được xác định theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là quy định của BLDS VN, LTM, LDN… Quy định này của BLDS là hoàn toàn hợp lý, một mặt sẽ tạo điều kiện thuận tiện, dễ dàng cho các pháp nhân nước ngoài trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam; mặt khác nhằm đảm bảo tính hiệu lực về lãnh thổ của pháp luật Việt Nam, đảm bảo được an ninh, trật tự xã hội trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia…
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn vào Việt nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước ngoài và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, Nhà nước cũng bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác cho pháp nhân nước ngoài.
2.3.2. Quy phạm xung đột về quyền sở hữu tài sản
Quá trình phát triển xã hội loài người đã và đang tồn tại nhiều chế độ sở hữu khác nhau. Dựa trên những chế độ sở hữu khác nhau, chế định về quyền sở hữu trong mỗi hệ thống pháp luật cũng sẽ khác nhau. Việc hình thành quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài do đó tất yếu sẽ làm phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Trong quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, tư pháp quốc tế của hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất sử dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột. Luật nơi có tài sản không những quy định nội dung của quyền sở hữu mà còn ấn định cả các điều kiện phát sinh, chấm dứt và dịch chuyển quyền sở hữu. BLDS Việt nam cũng dựa trên nguyên tắc chung phổ biến này để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Điều 766:…
Như vậy, không phụ thuộc vào đối tượng của quyền sở hữu là động sản hay bất động sả, quyền sở hữu và các quyền tài sản sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh. Tuy nhiên, có thể thấy ngay trong khoản 1 điều 766 có quy định trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này. Đó chính là khoản 2 về quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển và khoản 4 về quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam.
Trường hợp ngoại lệ thứ nhất: theo quy định của BLDS thì quyền sở hữu “đối với động sản đang trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật của nước do các bên thỏa thuận được chuyển đến. Có ý kiến cho rằng lựa chọn hệ thuộc Luật nơi tài sản được chuyển đến là một quy định khá đặc thù của BLDS Việt nam. Sở dĩ nhận xét như vậy là vì có nhiều nước trên thế giới sử dụng hệ thuộc luật nơi có động sản được chuyển đi, hay còn gọi luật nước người bán. Hầu hết đó là các nước có nền kinh tế và việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài phát triển, khi quy định như thế, các nước này đã tính đến những lợi ích mà họ có thể có được trong quan hệ hợp đồng. Còn đối với Việt Nam, tính cho đến thời điểm này và sẽ là một thời gian dài nữa trong tương lai vẫn là một nước có tỷ lệ nhập khẩu cao hơn tỷ lệ xuất khẩu, vì thế nếu quy định lựa chọn luật nước người bản để áp dụng sẽ gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức trong nước…
Trường hợp ngoại lệ thứ hai: trong việc xác định quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam thì nguyên tắc luật nơi có tài sản dường như cũng không được áp dụng mà phải tuân theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của CHXHCN Việt Nam.
Khoản 1 điều 4 Luật Hàng không dân dụng 2006 quy định:…
Điều 5 của Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định: …
Như vậy, đối với các quan hệ sở hữu và các quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không dân dụng và hàng hải quốc tế, hệ thuộc luật của nước nơi có tài sản không được áp dụng mà thay vào đó là hệ thuộc Luật quốc kỳ (lex banderae) hoặc luật nơi đăng ký (lex libri)…
Vấn đề xung đột về định danh tài sản
Như đã khẳng định ở trên, để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật về quyền sở hữu đối với tài sản, trong đó có bất động sản, pháp luật của hầu hết các quốc gia đều ghi nhận nguyên tắc áp dụng của nước nơi có tài sản. Tuy nhiên, một vấn đề khác nảy sinh đó là nếu đối với cùng một tài sản mà quốc gia này thì cho là động sản, nhưng quốc gia khác lại quy định là bất động sản thì sẽ giải quyết như thế nào? Hai khái niệm động sản và bất động sản không phải là đã được hiểu một cách thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới. Từ đây phát sinh xung đột pháp luật trong vấn đề định danh tài sản. Việc xác định tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Pháp luật của đa số các nước trong các đạo luật và các điều ước quốc tế thường ghi nhận là luật nơi có tài sản là hệ thuộc để giải quyết xung đột về định danh tài sản. BLDS Việt Nam cũng quy định “việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”
Tóm lại, trong BLDS 2005, hệ thuộc luật nơi có tài sản (lex rei sitae) là hệ thuộc chủ yếu được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu, điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên đây không phải là hệ thuộc duy nhất để giải quyết vấn đề này.
2.3.3. Các quy phạm xung đột về thừa kế
Điều 767 quy định về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài và điều 768 quy định về thừa kế theo di chúc là các QPXĐ về thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Về thừa kế theo pháp luật
BLDS quy định lựa chọn hệ thuộc luật quốc tịch của người để lại di sản để giải quyết xung đột pháp luật trong trường hợp thừa kế theo pháp luật, khoản 1 điều 767…
Nếu trong trường hợp người để lại thừa kế có nhiều quốc tích thì sẽ áp dụng QPXĐ đối với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tích tại khoản 2 điều 760 BLDS:… Như vậy trong trường hợp này có thể hiểu là đối với người để lại thừa kế có nhiều quốc tích thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú trước khi chết; nếu người đó chết tại một quốc gia mà họ không mang quốc tịch thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà họ có quốc tịch và có sự gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân.
Riêng đối với di sản là bất động sản, xuất phát từ bản chất tài sản của quan hệ thừa kế cũng như từ tính chất đặc biệt của loại tài sản này nên BLDS đã quy định “quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản”. Đối với các loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có liên quan đến bất động sản thì hầu hết áp dụng hệ thuộc Luật nơi có bất động sản, quan điểm này được thể hiện trong nhiều quy phạm pháp luật khác. Ví dụ: khoản 3 điều 104 LHNGĐ:…, khoản 2 điều 769…
Về thừa kế theo di chúc
Đối với trường hợp người để lại thừa kế có để lại di chúc phân chia tài sản thừa kế, vấn đề trọng tâm chính là hiệu lực của di chúc. Để đảm bảo cho di chúc phân chia di sản có hiệu lực, có hai vấn đề cần quan tâm chính là vấn đề người lập di chúc có đầy đủ năng lực lập di chúc hay không và hình thức của di chúc có hợp pháp hay không.
Pháp luật Việt Nam lựa chọn hệ thuộc Luật quốc tịch để giải quyết xung đột pháp luật trong vấn đề xác định năng lực lập di chúc của người lập di chúc. Pháp luật được áp dụng trong trường hợp này chính là luật của nước mà người lập di chúc là công dân. Việc quy định như vậy xuất phát từ chỗ năng lức chủ thể của một cá nhân cũng được xác định trên cơ sở áp dụng pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch (bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi) vì việc lập di chúc là quyền của mọi cá nhân để được định đoạt tài sản của mình và việc lập di chúc là việc cá nhân bằng chính hành vi của mình xác lập và thực hiện quyền đó.
Trong trường hợp người lập di chúc có hai hay nhiều quốc tịch thì việc lựa chọn pháp luật để áp dụng cũng được giải quyết như trong mọi trường hợp cá nhân là người nước ngoài có hay hay nhiều quốc tịch nước ngoài.
Đối với hình thức của di chúc, pháp luật quy định hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc. Tức là nếu A lập di chúc phân chia di sản ở Hoa Kỳ thì hình thức của di chúc đó phải tuân theo pháp luật của Hoa Kỳ, bất kể A mang quốc tịch Hoa Kỳ hay của một quốc gia nào khác. Quy định này có lẽ vẫn có điểm chưa hợp lý khi mà vì một lý do nào đó, một người không thể kịp trở về quốc gia mà mình mang quốc tịch trước khi chết, như vậy bắt buộc họ chỉ có một lựa chọn duy nhất là phải lập di chúc tuân theo pháp luật của nước mà họ đang có mặt kể cả khi họ không có một sự hiểu biết nào về pháp luật nước này. Có lẽ sẽ là hoựp lý hơn khi quy định cho phép người lập di chúc được quyền lựa chọn hình thức di chúc theo pháp luật của nước nơi lập di chúc hoặc của nuwóc mà người đó là công dân. Ví dụ như đối với di chúc của công dân Việt Nam thì được lập ở Pháp mà hình thức của nó tuân theo pháp luật Việt Nam thì vẫn được thừa nhận.
Ngoài việc sử dụng các QPXĐ để giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo luật và thừa kế theo di chúc, pháp luật Việt Nam còn dùng quy phạm thực chất để giải quyết vấn đề “di sản không có người thừa kế”. Đây là một vấn để phức tạp và luôn được chú ý trong tư pháp quốc tế. Việc giải quyết số phận của di sản không có người thừa kế ở Việt Nam được quy định tại khoản 3, 4 điều 767:…
Tuy nhiên, có lẽ quy định như thế vẫn là chưa đủ để giải quyết vấn đề “di sản không có người thừa kế”. Vì thế, ngoài quy định nói trên của BLDS, Việt Nam còn tiến hành ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, hôn nhân- gia đinhhf và hình sự với các quốc gia khác như Đức, Nga, Cu ba… Đây là cách giải quyết vấn đề nhanh chóng nhất và thuận lợi nhất giữa các bên hữu quan bởi các hiệp định này chứa đựng các quy phạm thực chất thống nhất, sẽ giải quyết một cách trực tiếp vấn đề “di sản không có người thừa kế” mà không cần thông qua bất cứ một hệ thống pháp luật nào.
2.3.4. Quy phậm xung đột trong lĩnh vực hợp đồng và giao dịch dân sự
Chứa đựng từ điều 769 đến 772
Về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
Hợp đồng dân sự trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài. Dựa trên khái niệm về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại điều 758.
Giải quyết xung đột về hình thức của hợp đồng
Trong thực tiễn tư pháp quốc tế, nhiều quốc gia trên thế giới (các nước Đông Âu, Bắc Âu, châu Mỹ…) thường ưu tiên áp dụng luật của nước nơi ký kêt hợp đồng để giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hợp đồng. Trong trường hợp nếu hợp đồng bị coi là bất hợp pháp về mặt hình thức theo luật nơi ký kết nhưng theo luật nhân thân của các bên chủ thể thoặc theo luật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quy phạm pháp luật xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.doc