Bất cứmột người nào tồn tại trên cõi đời này đều phải trải qua vòng luân hồi
của sinh lão bệnh tử. Đây làmột qui luật đã được đềcập đếntrongtriết lí của đạo Phật.
Nhưvạn vật tựnhiên, con người được sinh ra, tồn tại,phát triển vào sau đó lại trởvềvới
cát bụi. Những tưởng đây là một vấn đềhiểnnhiên theo đúng qui luật khách quan,
không có gì phải tranh luận, bàn cãi hay mởrộng thêm. Thếnhưng đến NamCao, với
những tưtưởng, những triết lí trongcác tác phẩm của mình, ông đã cho mọi người thấy
được xoay quanh sựsống chết còn rất nhiều vấn đềcần được nhân loại quan tâm.Những
triết lí ông đưa ra mang ý nghĩa sâu xa và rộng lớn. Dù đó là những vấn đềkhông phải
là hoàn toàn mới mẻ, đó là sựkếthừa những triết lí đã có từtrước vềvấn đềsinh tử, thế
nhưng Nam Cao đã đặt chúng trong một ngữcảnh thích hợp và khái quát, đúc rútra
những chân lí xoay quanh việc sống nhưthếnào và chết nhưthếnào cho có ý nghĩa.
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5685 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hệ thống triết lí trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hi sinh của lão xuất phát từ lòng thương yêu của một người
cha thương con vô bờ bến, khiến mọi người không khỏi bùi ngùi, xúc động. Việc bán
con Vàng cũng đã khiến lão đau đớn tột cùng. Triết lí của lão về số kiếp của nó, cũng
như số kiếp của những con người nghèo khổ như lão nghe thật chua chát: “Kiếp con chó
là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút…
kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!”.
Số kiếp con người thì không ai giống ai, nhưng số kiếp của Lão Hạc và ông
giáo thì có điểm tương đồng, cả hai con người đều nghèo khổ như nhau. Nhưng số phận
của Lão Hạc thì thê thảm hơn nhiều, chính vì thế, Lão Hạc đã phải tự kết liễu đời mình
bằng bả chó. Một cái chết thật dữ dội, đầy thương tâm “Lão Hạc vật vã trên giường, đầu
tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp
người chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng, phải ngồi đè
lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết”. Chao ôi! Cuộc đời của lão có
ngày nào được sung sướng, vui vẻ trọn vẹn đâu! Nam Cao đã thật cảm thông, tâm hồn
tràn đầy yêu thương khi xây dựng nhân vật này. Theo khảo sát, trong nhiều tác phẩm
khác, các nhân vật của Nam Cao thường đầu hàng hoàn cảnh, đánh mất nhân cách tốt
đẹp. Còn ở đây, Lão Hạc hiện lên là một nhân vật đẹp nhất, với những nét tính cách tốt
đẹp nhất. Thật đáng quí, đáng trân trọng biết bao!
Tất cả những chiêm nghiệm, triết lí của Lão Hạc hay của Nam Cao về cuộc đời
không được đúc rút ra từ những luân lí khô khan của sách vở mà đó chính là sự trải
nghiệm của chính tác giả. Từ một hiện tượng cụ thể trong đời sống hàng ngày, Nam Cao
liên hệ và đưa ra một triết lí phù hợp với từng hoàn cảnh. Đây là một biệt tài của Nam
Cao. Qua những triết lí về Đời về Kiếp, Nam Cao đã cho chúng ta thấy sự tột độ thê
thảm của con người. Con người trong xã hội lúc bấy giờ phải chịu đựng một cuộc đời tối
tăm, bế tắc, luẩn quẩn trong cái vòng tròn định mệnh mà chính cái xã hội bất công đã tạo
ra.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 24
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
3. Triết lí về sự sung sướng và nỗi khổ đau
Mỗi con người trong cuộc đời đều trải nghiệm qua sự sướng khổ, buồn vui với
những cung bậc và âm điệu rất khác nhau. Nam Cao –một nhà văn có nhiều kinh nghiệm
sống với một cái nhìn sâu sắc đã đưa vào trong tác phẩm những triết lí về sự sung sướng,
nỗi khổ đau của cuộc đời. Đây có thể là những điều mà mỗi chúng ta có thể nhận ra và
rất đỗi quen thuộc, nhưng Nam Cao đã thổi vào đó một giọng điệu mang sắc thái riêng
của nhà văn khiến cho nó quen mà lạ, đơn giản mà kín đáo, sâu xa. Những câu triết lí
của Nam Cao về vấn đề này không hề gây cảm giác nhàm chán bởi những cái bình
thường mà trái lại, nói có sức gợi, tạo sự liên tưởng sâu xa trong lòng độc giả về nhân
cách, lối sống của bản thân mỗi người nói riêng và của mọi người trong xã hội nói
chung.
Nếu chúng ta nghĩ rằng sự sung sướng rất khó đạt được thì chúng ta đã lầm.
Có nhiều lúc, sự sung sướng đến với chúng ta một cách rất đơn giản, Nam Cao đã chỉ ra
điều đó: “Cái xấu của người khác bao giờ chẳng làm ta sung sướng. Ta thấy ta còn tốt
hơn chán người” (Đòn chồng). Đây hình như là cái tâm lí chung của người đời. Tác
phẩm có tên Đòn chồng đã hé mở một trận đòn của một ông chồng giáng xuống đầu vợ
mình. Đúng như vậy, vợ Lúng vì một nguyên nhân, chính xác hơn là vì miếng ăn, đã bị
đánh một trận đòn chí tử mà bất kì ai chứng kiến cũng phải xót xa. Suy cho cùng, chỉ vì
đói quá nên thị mới làm liều. Nhưng nhiều khi, tâm lí của người đời cũng thật ác nghiệt.
Họ cảm thấy hể hả vui sướng khi chứng kiến sai phạm của người khác, bởi “ta thấy ta
còn tốt hơn chán người”. Triết lí này có thể nói là đúng và không hoàn toàn phủ nhận
được, ít nhất là đối với những nhân vật đã được Nam Cao chọn để phát ngôn câu nói đó.
Đây là sự vui sướng theo đúng qui luật tâm lí của con người nhưng lại theo
chiều hướng tiêu cực. Sự vui sướng này hoàn toàn khác với cái vui trong Tình già. Sau
khi chồng thị Yên về quê với một số tài sản kếch xù, ít nhất là đối với thị, bố thị và
những người dân nghèo nơi đây, nỗi vui sướng của thị không gì diễn tả hết. Và cứ thế,
như tâm lí của mọi người, thị đem niềm vui sướng ấy để chia sẻ, nói đúng hơn là đi khoe
với mọi người, bởi lẽ “Khi người ta sung sướng, người ta không thể ngồi yên một chổ.
Người ta cần gào nỗi vui sướng của mình cho mọi người hay” (Tình già). Nam Cao tỏ ra
rất am hiểu những suy nghĩ, diễn biến tâm lí của mỗi con người.
Cũng nói về sự sung sướng, nhưng ở đây, Nam Cao lại ví nó như một món ăn
ngon cần phải dùng khi còn nóng mới có thể cảm nhận được hết mùi vị tuyệt vời của nó,
cho nên “không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại” (Lão Hạc). Cái sự sung sướng của
người nghèo như Lão Hạc và ông giáo rất là đơn giản, đó có thể là những thú vui bình
thường nhất.
“Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:
- Chẳng có kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi
xuống phản này chơi tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm chè tươi thật đặc; ông
con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào…Thế là sướng!
- Vâng ! ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì đó là sung sướng”.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 25
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
So với kẻ giàu, cái khoảnh khắc có được sự sung sướng của người nghèo thật
bình dị nhưng đáng quí, đáng trân trọng biết bao!
Trong một hoàn cảnh khác, với những nhân vật khác cùng những cá tính đặc
biệt, quan niệm về sự sung sướng lại hoàn toàn khác. Trạch Văn Đoành trong Đôi móng
giò thì sung sướng theo kiểu của một thằng say rượu: “Khi người ta say, người ta quên
cả những lầm than của kiếp người, nghĩa là người ta sướng lắm!” Cũng là một thằng
say rượu, nhưng Chí Phèo lại có một triết lí khác: “Ở tù sướng quá! Đi ở tù còn cơm để
mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn”.
Trường hợp của Chí Phèo và Trạch Văn Đoành là những trường hợp hiếm hoi trong
trang văn của Nam Cao. Đây là cuộc đấu tranh quật khởi của hai con người muốn lăm
le, hăm dọa cái xã hội đương thời, là mầm mống của một sự phản kháng quyết liệt để
giành lấy quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc.
Trạch Văn Đoành là con của một lão đi câu. Cuộc sống nghèo khổ của hai cha
con diễn ra bên bờ sông với niềm vui nhỏ nhoi là tìm sự vui sướng trong men rượu, bởi
theo họ, khi người ta say là quên hết sự đời, quên cả nỗi cực nhọc khổ đau đang đeo
bám. Nhưng sau đó, từ cái chết của cha và sau mấy năm bỏ làng ra đi, Trạch Văn Đoành
“đột nhiên trở về nhảy tót lên bao lơn ngồi làm một ông kì mục”, rồi đùng một cái “ hắn
đưa bốn ông lên huyện về việc bao chiếm công điền. Đùng một cái nữa, hắn đưa mấy
ông khác lên huyện vì việc lạm tiền công quỹ. Rồi đùng một cái nữa… và cái nữa … luôn
năm, sáu cái đùng như vậy hắn làm các ông thua liểng xiểng. Bởi tội các ông nhiều như
lá trên rừng… các ông đâm hoảng”.Thế là Trạch Văn Đoành sống ung dung. Nếu lúc
xưa hắn phải tìm sự sung sướng trong men rượu thì hiện tại, sự sung sướng đến với hắn
một cách đường hoàng do chính hắn tạo lập nên. Đây là sự đấu tranh đi tìm sự sung
sướng cho bản thân và đã kết thúc thắng lợi.
Còn Chí Phèo khi đã hết đường mưu sinh, hắn nhận ra một điều: “Ở tù sướng
quá!” Nhìn bề ngoài đây là cách nói của một thằng du côn, nói như vậy có vẻ hắn thích
đi ở tù thật! Nhưng xét kỹ, Chí Phèo chỉ muốn tìm một nơi yên ổn, bình an, cố định. Đối
với hắn, được như vậy đã là sung sướng, chứ thật sự không phải hắn muốn đi ở tù. Câu
đối đáp của Chí Phèo với Bá kiến cũng là lời thách thức cái xã hội thực dân nửa phong
kiến lúc bấy giờ. Câu nói của Chí Phèo mang chút gì đó thật chua chát cho số phận của
những người nông dân nhỏ bé, nghèo khổ đang ngày càng bị dồn vào bức tường không
có lối thoát.
Trong tình yêu, một địa hạt tưởng chừng như chỉ tồn tại niềm vui sướng như
Nam Cao đã từng khẳng định: “Sung sướng thay là những người yêu” (Truyện tình)
cũng xuất hiện cả sự đau khổ. Anh lính, một nhân vật trong truyện ngắn Đui mù đã từng
sống trong tình yêu hạnh phúc vô bờ. Nhưng sau khi phát hiện ra sự thật, một sự thật hết
sức đau lòng: người yêu phản bội anh đau đớn khôn nguôi và hoàn toàn thất vọng về
tình yêu. Nam Cao thốt lên chua chát: “Thà rằng cứ đui mù như anh lính nọ lại được
hoàn toàn sung sướng hơn là tìm đến sự thật để thất vọng vì sự thật”. Bất kỳ ai cũng
muốn tìm đến với sự thật và không muốn bị lừa dối. Ngược lại qua câu truyện này Nam
Cao chấp nhận việc không cần biết đến sự thật. Biết làm gì! Nếu nó phá vỡ tất cả niềm
vui sướng của con người chúng ta và chỉ đem lại sự buồn tủi, khổ đau. Trong tình yêu,
sự phản bội là điều khiến mọi người đau lòng nhất.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 26
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
Đến với Từ trong Đời thừa, ta cảm nhận được nỗi đau tình yêu còn lớn hơn
thế! Bị người tình ruồng bỏ, phụ bạc, Từ đã hết hi vọng ở cuộc đời này khi mang trong
bụng đứa con của kẻ bạc tình. Nhưng Hộ đã xuất hiện và giang đôi cánh tay cứu vớt đời
Từ, cả bà mẹ già còm cõi của Từ. Trong xã hội có mấy ai được như thế đâu! Nghĩa cử
cao đẹp đó đã dấy lên trong lòng Từ tình yêu và cả lòng kính trọng, nể sợ đối với chồng
“Từ yêu chồng với một tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi”.
Được Hộ -một nhà văn cưu mang, những tưởng Từ sẽ sống trong hạnh phúc của mái ấm
gia đình, nhưng không phải, Từ đã đau khổ lắm! Với số lương còm cõi của một nhà văn
sĩ như Hộ, nuôi sống bản thân đã là một điều chẳng dễ dàng, nay có thêm Từ và các con,
Hộ đã phải tất bật lên để kiếm tiền, để nuôi sống gia đình. Từ hiểu và hiểu rất rõ tất cả sự
cực nhọc, nỗi vất vả của Hộ. Và Từ càng đau khổ hơn khi nhận ra chính Từ, vì Từ mà
Hộ khổ. Chao ôi! “Còn gì buồn cho bằng khi biết mình làm khổ cho người mà mình
yêu”. (Đời thừa). Nam Cao đã trải nghiệm qua được những nấc thang của cuộc đời, và ở
đây, ông tỏ ra rất hiểu, đồng cảm sâu sắc về sự đau khổ trong tình yêu. Từ hiện lên với
hình ảnh một người phụ nữ chịu thương chịu khó, hết mực yêu chồng, thương con.
Song, cuộc đời lại hình như không mỉm cười với số phận của Từ.
Còn Hộ, Hộ cũng rất yêu Từ và các con. Hộ có một tấm lòng nhân đạo, một
tình yêu thương vô bờ khi đã cứu vớt cuộc đời của Từ. Lí tưởng của Hộ là một lí tưởng
chứa chan tinh thần nhân đạo, hết sức cao cả, đó là viết được “một tác phẩm thật giá trị,
phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho
loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa
phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần
người hơn”. Là một nhà văn thật sự có tài, Hộ hoàn toàn có thể làm được nếu như Hộ có
đủ thời gian, đủ điều kiện về vật chất để thực hiện hoài bão, để nuôi lớn giấc mộng văn
chương. Nhưng hiện tại, Hộ phải đương đầu với gánh nặng áo cơm đang ghì sát anh
xuống đất, không cho anh bay cao, bay xa với những lí tưởng của bản thân. Xuân Diệu
đã từng thốt lên:
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ
Thi sĩ Tản Đà cũng đã thật chua chát trước thực tại:
Có đàn con trẻ nheo nheo
Có dăm món nợ eo sèo bên tai
Trước kia, khi chỉ có một mình, Hộ không cần phải quan tâm, lo toan đến
những tủn mủn về vật chất và “đói rét không có nghĩa lí gì đối với một gã trẻ tuổi say
mê lí tưởng”. Thế nhưng từ khi làm chồng làm cha, bi kịch của cuộc đời Hộ đã thật sự
diễn ra. Hộ đã phải từ bỏ giấc mộng văn chương, phải viết những tác phẩm “vô vị, nhạt
phèo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng
trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi ”. Không những vậy, Hộ đã đánh đập Từ
và các con, anh đã chối bỏ lẽ sống tình thương mà chính bản thân anh đã từng đề cao.
Với một trái tim đồng cảm sâu sắc, Nam Cao nhận ra tất cả và thấu hiểu hết nỗi đau khổ
của Hộ cũng như của các trí thức đương thời “Còn gì buồn hơn chính mình lại chán
mình? Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời
sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”. Bi
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 27
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
kịch của Hộ cũng chính là bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ nói riêng
và của mọi người nói chung, khi mà mọi khát khao, ước mơ cao đẹp của họ bị cuộc đời
thực dội nước lạnh làm cho tắt ngấm. Nam Cao đã vạch rõ cái xã hội thực dân nửa
phong kiến lúc bấy giờ không đem lại điều gì tốt đẹp mà chỉ là một ngọn lửa đã thui chột
mọi tài năng, khát vọng cao đẹp của con người chạy trốn thực tại thì không thể nên con
người đành phải sống một cuộc đời khổ sở, hết sức khốn cùng.
Trường hợp của văn sĩ Hộ không phải là cá biệt mà là đại diện tiêu biểu cho cả
một tầng lớp đang bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất, không sao ngóc đầu lên được để
thực hiện những ước mơ, những lí tưởng dang dở còn đang hình thành trong khối óc.
Như vậy đây là một bi kịch tinh thần, một bi kịch xã hội đã gợi lên trong lòng người đọc
những tình cảm xót thương vô bờ đối với số phận nhân vật. “Nhân vật không hề thanh
thản mà đầy dằn vặt, đau đớn khi đứng trước sự lựa chọn giữa lí tưởng nghệ thuật chân
chính với tình trạng buộc phải viết cẩu thả để kiếm tiền, giữa lẽ sống tình thương cao cả
với những hành động phạm vào lẽ sống đó, đẩy anh vào bi kịch tinh thần không lối
thoát”.(Trần Đăng Suyền, 2004:82)
Nam Cao đã tỏ ra rất sâu sắc khi nhận ra chính cái khổ là nguyên nhân khiến
cho con người nhiều khi đánh mất cái bản tính thường ngày, bởi “Cái khổ làm héo một
phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta”. (Trăng sáng). Cuộc đời của con người
như một bông hoa, theo ngày tháng, đóa hoa ấy cứ lớn dần lên, những cái khổ là một
độc tố đã dần dần làm cho hoa khô héo, ủ rũ mất dần sự sống. Trong Trăng sáng, thực ra
vợ của Điền không hẳn là người xấu “Những phút thảnh thơi sao mà thị hiền dịu đến
thế! Đáng yêu đến thế! Điền không nhận ra một chút gì ở thị nó có dính dáng đến người
đàn bà cau có vẫn ngoác mồm ra mắng con, mắng con ở, mắng mèo, mắng chó, khiến
nhà cứ om lên suốt ngày”. Những lo lắng thường ngày là liều thuốc độc hủy hoại những
tính tình tươi đẹp của con người. Nam Cao từng chỉ ra “Chất độc ở ngay trong sự sống”
(Sống mòn).
Tâm hồn và tính cách của vợ Điền không giống như Điền. Thị suốt đời chỉ biết
tính toán, tính toán một cách nhỏ nhặt, chi li cho gia đình, thế nên thị khổ vì “những kẻ
suốt đời tính toán là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời”. Nam Cao tỏ ra rất thấu hiểu,
thông cảm với vợ Điền và những người cùng cảnh ngộ bị cái khổ dày vò. Trong cái xã
hội bất công ấy, Nam Cao đã chứng kiến biết bao cảnh ngộ cùng cực đáng thương. Như
để thuyết minh một cách rõ ràng hơn sự chi phối của cái đói, cái khổ đã dẫn đến sự thô
lỗ, cáu bẳn, cục cằn của con người, Nam Cao đã từng mượn suy nghĩ của Điền khi nghĩ
về sự gắt gỏng của vợ anh “Ai chả thế? Người ta không phải là thánh. Sự khổ dễ khiến
lòng chua chát. Khi người ta lam lũ quá, lại còn lo trăm thứ, thì ai mà bình tĩnh được?
Ai mà chả hay gắt gỏng?”.
Và vì mọi người đều khổ, tai hại hơn, họ lại nghĩ chỉ vì người khác mà mình
khổ, cho nên thật đau lòng khi họ đay nghiến, dày vò, dằn vặt nhau. Mượn lời của Điền
trong Nước mắt, Nam Cao đã chỉ ra lí do vì sao gia đình ông phán láng giềng thường
xuyên rơi vào cảnh “nhà không lúc nào yên, đàn trẻ khóc như ri. Mẹ chồng nghiến rức
con dâu, con dâu cãi lại mẹ chồng. Cô em nói mỉa mai”. Đó là vì “người nào cũng khổ
cả, và người nọ cứ tưởng vì người kia mà khổ”.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 28
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
Với tầm nhìn bao quát rộng lớn, Nam Cao đã chỉ ra đây là một lí do đã khiến
con người trở nên xấu xa trong mắt nhau, làm xấu đi quan hệ gia đình, rộng hơn là quan
hệ xã hội, không còn tình thương yêu mà chỉ còn là sự thù ghét, hiềm khích lẫn nhau.
Điều này đã làm cho con người ngày càng cách xa nhau hơn và đáng buồn là họ lại
không nhận thức được. Đây là một thực trạng phổ biến không chỉ ở một gia đình mà ở
rất nhiều gia đình, không chỉ diễn ra ở một hoàn cảnh xã hội nhất định mà nó có thể xảy
ở nhiều thời kì khác nhau, khiến cho tình cảm tốt đẹp của con người bị mai một đi. Góp
phần giải quyết vấn đề này, Nam Cao cho rằng mỗi con người chúng ta cần phải nhận
thức rõ về nguyên nhân gây ra cái khổ cho chính mình và tìm cách triệt tiêu nó đi, từ đó
mới có thể tạo ra sự đồng cảm, rồi thông cảm, thương yêu, tha thứ cho nhau. Viết nên
những câu triết lí về cái khổ của loài người, Nam Cao lớn tiếng kêu gọi mọi người hãy
sống thương yêu nhau hơn. Đây là tư tưởng nhân văn cao đẹp mà Nam Cao đã gởi gắm
trong nhiều tác phẩm của mình.
Trong Lão Hạc, Nam Cao đã lí giải rất hợp tình hợp lí về thái độ của vợ ông
giáo đối với lão Hạc. Ông giáo đã từng chạnh lòng trước cảnh “Lão Hạc chỉ ăn khoai.
Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão
ăn củ chuối…”. Ngược lại hoàn toàn với thái độ của ông giáo và bạn đọc, vợ ông giáo tỏ
ra hết sức nhẫn tâm: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ
ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão?”. Rõ ràng vợ ông giáo đã đối xử
không tốt với lão Hạc. Nhưng ông giáo đã tỏ ra am hiểu về sự đời và đưa ra câu triết lí
“Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái
chân đau của mình để nghĩ đến một cái khác đâu. Khi người ta khổ quá thì người ta
chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng,
buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Không chỉ ông giáo mà Thứ trong Sống mòn cũng đã cho
rằng “Có cái gì đáng để ý đâu, khi người ta đói quá”.
Mỗi người có một cuộc đời, một cái khổ khác nhau. Cái khổ của Dần trong
Một đám cưới thật khiến mọi người phải xót thương. Vì quá nghèo khổ, ba mẹ Dần phải
dưa Dần vào ở nhà bà chánh Liễu để Dần còn có cái ăn, cái mặc, vẫn còn hơn là ngồi ở
nhà mà bụng đói meo. Thế nhưng, bọn nhà giàu tuy giàu có, trong nhà đầy của ăn của
để nhưng lại tỏ ra hết sức keo kiệt đối với mọi người. Cái ý nghĩ của bà mẹ Dần “Con
người ta, có cơm vào là có da, có thịt ngay, không lâu đâu” cũng chí lí nhưng là đối với
những người khác, còn với bà chánh Liễu thì sự việc không đơn giản như mẹ Dần đã
nghĩ, Dần vẫn “gầy như một cái que”. Sự so sánh giàu hình tượng của Nam Cao làm
hiện lên hình ảnh của một kiếp người nghèo khổ, bần cùng nhất trong xã hội. Còn nhỏ
mà phải sống trong cảnh như vậy, cứ nghĩ rằng Dần sẽ không chịu nổi. Thế nhưng vì
thương mẹ, thương em Dần vẫn cắn răng chịu đựng. Triết lí của mẹ Dần đưa ra đúng
nhưng cũng thật chua chát, xót xa “Khi người ta đã nhất định chịu thì khổ thế nào mà
không chịu được”. Đây chỉ là sự lựa chọn cuối cùng của gia đình Dần khi không còn
cách nào để thoát khỏi cái khổ đang đeo bám.
Những kiếp người, những cuộc đời nhỏ bé hiện lên trong trang văn của Nam
Cao với nhiều sắc thái, nhiều trạng thái tình cảm khác nhau đã chứng tỏ ông có một tầm
nhìn rộng lớn mà sâu xa, thể hiện sự đồng cảm, trân trọng, thương yêu với mọi lớp
người. Chính điều này đã làm nên những giá trị to lớn trong nhiều tác phẩm của ông,
giúp cho tên tuổi của ông sống mãi trong lòng biết bao thế hệ con người Việt Nam.
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 29
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
4. Triết lí về cái lương thiện và cái xấu, cái ác
Trong bất kì một xã hội nào, từ cổ chí kim, bao giờ cũng tồn tại song song cái
thiện và cái ác. Và nhiều khi, thiện và ác không tách bạch, phân biệt được một cách rõ
ràng mà ranh giới của nó chỉ là một sợi tơ nhỏ rất mong manh. Trong bản thân mỗi con
người chúng ta có lúc đã diễn ra sự đấu tranh nội tâm dữ dội giữa cái lương thiện và cái
xấu, cái ác. Vì vậy, đây là một vấn đề được khá nhiều người quan tâm đến, trong đó có
Nam Cao. Như vậy thế nào là thiện và ác, câu hỏi này không thể có câu trả lời nhanh
chóng và chính xác được. Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên chân dung
của “một con quỷ dữ” đến nỗi ai nhìn thấy cũng phải tránh xa và nghe qua cũng đủ khiếp
sợ, nhưng thật ra ẩn giấu đằng sau đó là trái tim của một con người lương thiện. Như vậy
Nam Cao đã cho mọi người thấy được giữa cái thiện và cái ác, không chỉ căn cứ vào
hiện tượng bên ngoài mà phải nhìn sâu vào bản chất bên trong mới có thể kết luận chính
xác và rõ ràng được.
Lướt qua những cảnh Chí Phèo say xỉn, quỵt nợ, đốt nhà, rạch mặt ăn vạ, ai ai
cũng đi dến kết luận: đây không phải là một con người lương thiện! Nhưng xét cho đến
cùng, chúng ta còn nhận ra một kẻ khác tuy bề ngoài là một con người lương thiện
nhưng thật sự đó là một “con quỷ” đội lốt người. Qua những câu triết lí khôn ngoan, già
đời nói đúng hơn là triết lí của một “kẻ cướp”, Bá Kiến đã hiện ra là một con cáo già
sành sõi mà cả làng Vũ Đại và Chí Phèo không hề ngờ tới sự hiểm độc của nó. Kẻ cướp
có nhiều loại, ở đây Bá Kiến không xuất hiện là một tên cướp trắng trợn mà với bộ mặt
“nhân từ”, sẵn sàng giúp đỡ người khác. Đây mới thật sự là một tên cướp đáng sợ và
nguy hiểm nhất. Những triết lí sống của Bá Kiến đưa ra không phải là ngẫu hứng, mà là
cả một hệ thống có sự sắp xếp. Lão tỏ ra rất khôn ngoan “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ
hai sợ kẻ cố cùng liều thân”. Đối với Chí Phèo là “cái thằng liều lĩnh” Bá Kiến đã khôn
khéo áp dụng chiến thuật “dàn hòa” và đã rất thành công. Trong cái làng ở thế “quần
ngư tranh thực”, có được thế đứng như Bá Kiến quả thật rất có bản lĩnh. Những triết lí
của Bá Kiến đưa ra khôn ngoan hiểm độc đến nỗi không ngờ:
“Cái nghề làm việc quan, nếu nhất nhất cái gì cũng đè dầu ấn cổ thì bán nhà đi
cho sớm”.
“Cái nghề quan bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”.
“Một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta
xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế, đòi cho được năm
đồng, nhưng được rồi thì vất trả lại năm hào “Vì thương anh túng quá!”.”
Bá Kiến quả thật là một con cáo già, một kẻ “khôn róc đời”, mới có thể đưa ra
những triết lí như thế. Không phải chỉ ngày một ngày hai thì có thể ngẫm ra điều đó mà
phải trải qua một thời gian, một quá trình cùng với kinh nghiệm tính cách khôn ngoan,
hiểm độc sẵn có mới có thể đúc rút ra được. Già đời trong nghề đục khoét, Bá Kiến quả
thật là bậc đàn anh trong cái xã hội vô nhân tính đã đè nén những Binh Chức, Năm Thọ,
Chí Phèo xuống vũng bùn của hố sâu tội lỗi để làm lợi cho lão.
Trường hợp của Bá Kiến là một điển hình trong xã hội thực dân nửa phong kiến
lúc bấy giờ. Bá Kiến có đủ quyền, đủ khả năng thao túng trong tất cả mọi chuyện. Chí
Hồ Cẩm Kim_DH5C2 Trang 30
Luận văn tốt nghiệp Hệ thống triết lý…
Phèo vốn dĩ chẳng làm gì nên tội đến nỗi phải đi ở tù, nhưng Bá Kiến đã thẳng tay tống
Chí Phèo vào nhà giam và biến một anh nông dân hiền lành, chân chất, lương thiện trở
thành một “con quỷ dữ” bị cướp đi cả nhân hình và nhân tính. Có đủ khả năng làm điều
này, chỉ có Bá Kiến và chỉ là Bá Kiến. Không bao giờ Bá Kiến sợ những kẻ liều lĩnh, bất
chấp tất cả như Chí Phèo, mà ngược lại, cụ lại lợi dụng để làm lợi cho bản thân. Cụ nghĩ
“Cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị
những thằng đầu bò”, cụ tỏ ra rất khôn ngoan “một phần lớn cũng bởi cụ biết mềm, biết
cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi ở tù”. Từ thế bị
động, Bá Kiến đã khéo léo chuyển tình thế một cách thật bất ngờ khiến ai cũng phải
khâm phục. Có thể khẳng định Bá Kiến là một con rắn độc mà không ai có thể lường
được hậu quả, sự nguy hiểm do nó gây ra. Như vậy thì làm sao một kẻ đơn thân độc mã
như Chí Phèo có thể chống trả lại được!
Cuộc đời lương thiện của Chí Phèo chỉ được hồi tưởng lại nhưng qua đó ta thấy
hiện lên hình ảnh một anh nông dân nghèo khổ với một ước mơ thật bình dị, nhỏ nhoi
“có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con
lợn nuôi làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Một ước mơ tưởng
chừng như rất đơn giản và dễ thực hiện đối với nhiều người nhưng lại quá khó đối với
Chí Phèo. Từ khi bị Bá Kiến tống vào cái nhà giam tăm tối, ngột ngạt, không ánh sáng
của xã hội thực dân nửa phong kiến, Chí Phèo đã bị tướt đoạt tất cả. Nếu lúc trước Chí
Phèo là một kẻ không cha không mẹ, không nhà không cửa, không họ hàng thân thuộc
thì bây giờ cả quyền được làm người Chí Phèo cũng không. Cả một con số không tròn
trĩnh vây lấy cuộc đời của Chí Phèo. Và cứ thế cuộc đời của hắn cứ kéo dài từ ngày này
sang ngày khác trong cơn say triền miên của một kẻ côn đồ.
Cứ tưởng ánh sáng lương thiện trong con người Chí đã tàn lụi và tắt ngấm,
nhưng không, Thị Nở đã đến và thổi vào tâm hồn Chí một hơi ấm làm cháy bùng lên
ngọn lửa của lòng lương thiện, của tình yêu thương. Không ai có thể ngờ được, tận sâu
thẳm đáy tâm hồn của một t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- HE THONG TRIET LI TRONG TRUYEN NGAN CUA NAM CAO TRUOC CACH MANG THANG 8.PDF