Khóa luận Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự

1.2. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

1.3. Hòa giải theo quy định của một số nước trên thế giới

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải

2.2. Phạm vi các vụ việc mà tòa án tiến hành hòa giải

2.3. Các chủ thể trong hòa giải

2.4. Thủ tục hòa giải vụ án dân sự

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÒA GIẢI VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Những kết quả đạt được

3.2. Những hạn chế tồn tại

3.3 Kiến nghị

KẾT LUẬN

 

 

 

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16790 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án. Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 181 và Điều 182 Bộ luật này”. Theo quy định của điều luật thì ngoài những vụ án không được hòa giải và những vụ án không tiến hành hòa giải được thì Tòa án phải tiến hành hòa giải tất cả các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Pháp luật đã quy định rõ những vụ án dân sự phải tiến hành hòa giải. Tuy nhiên, do pháp luật không quy định nên hòa giải đối với việc dân sự thuận tình ly hôn có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau: + Có quan điểm căn cứ vào Điều 10 BLTTDS quy định hòa giải bao gồm cả việc dân sự và Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình: “Sau khi thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự”, cho rằng cần tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm đối với trường hợp thuận tình ly hôn. Ví dụ, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã thụ lý, giải quyết việc dân sự: Ngày 04/4/2005 Chị Dương Thị Hiền và anh Đặng Văn Hiếu đã viết đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã thụ lý và triệu tập chị Hiền và anh Hiếu đến Tòa án để tiến hành hòa giải nhưng cả hai đã không thống nhất trở đoàn tụ. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành và ra quyết định mở phiên họp để giải quyết.[20, tr.41] + Có quan điểm cho rằng: Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định Tòa án phải tiến hành hòa giải song việc hòa giải này phải tuân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng ngoài Điều 10 thì BLTTDS không còn có một điều luật nào khác quy định chi tiết thủ tục tiến hành hòa giải việc dân sự. Mặt khác, việc dân sự là việc không có tranh chấp nên không cần phải tiến hành hòa giải để nhằm cho các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Do đó, Tòa án không cần tiến hành hòa giải. Từ việc áp dụng pháp luật của một số Tòa án địa phương như trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để đảm bảo việc thực hiện pháp luật được dễ dàng, thống nhất. 2.2.2. Những vụ án dân sự không được hòa giải Pháp luật quy định một số vụ án không được hòa giải tại Điều 181 BLTTDS vì nếu hòa giải sẽ đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho các bên vi phạm pháp luật hoặc việc hòa giải sẽ dễ bị lợi dụng để xâm phạm tài sản công. Những vụ án không được tiến hành hòa giải bao gồm: - Thứ nhất, yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước. Tài sản Nhà nước được hiểu là tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước quy định tại Điều 200 của Bộ luật dân sự năm 2005 và được điều chỉnh theo các quy định tại Mục 1 Chương XIII của Bộ luật dân sự năm 2005. [4] Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước là trường hợp tài sản của Nhà nước bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm nghĩa vụ dân sự…gây ra và người được giao chủ sở hữu đối với tài sản Nhà nước đó có yêu cầu đòi bồi thường. [4] Vụ án yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước chỉ có thể giải quyết bằng việc Tòa án mở phiên tòa xét xử. Pháp luật không cho các bên thỏa thuận giải quyết vì tính chất của loại tài sản này thuộc sở hữu Nhà nước, không thể tiến hành hòa giải để quyết định về số lượng hay nội dung giá trị bồi thường. Quy định này nhằm phòng ngừa trường hợp lợi dụng việc hòa giải để thỏa thuận, thương lượng gây thiệt hại, thất thoát tài sản của Nhà nước. Phần II tiểu mục 2.1 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 đã có những hướng dẫn cụ thể về phạm vi hòa giải đối với vụ án yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước như sau: + Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến loại tài sản này, Tòa án không được hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. + Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung. - Thứ hai, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Những giao dịch trái pháp luật (giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật) và trái đạo đức xã hội là những giao dịch vô hiệu tuyệt đối được quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự 2005. Về bản chất thì giao dịch vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ ngay từ thời điểm xác lập. Do vậy, pháp luật quy định Tòa án không tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của họ trong giao dịch vô hiệu này. Bởi nếu tiến hành hòa giải là đồng nghĩa với việc khuyến khích các bên tiếp tục vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nếu các bên thỏa thuận không phải để thực hiện tiếp giao dịch mà chỉ để giải quyết hậu quả của giao dịch thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải. Do sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp này là thống nhất phương thức khôi phục lại tình trạng ban đầu của giao dịch dân sự hoặc phương án hoàn trả tài sản. Điều này được hướng dẫn cụ thể trong Phần II tiểu mục 2.1 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 :“Tòa án không được hòa giải vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật (giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật) hoặc trái đạo đức xã hội, nếu việc hòa giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện giao dịch đó. Trường hợp các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Tòa án vẫn phải tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó”. 2.2.3. Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được Những vụ án không tiến hành hòa giải được thực chất là những vụ án pháp luật quy định phải tiến hành hòa giải. Tuy nhiên do những lý do khách quan dẫn tới việc pháp luật quy định không cần phải tiến hành hòa giải giữa các đương sự. Theo đó, có ba trường hợp được quy định tại Điều 182 BLTTDS quy định Tòa án không cần tiến hành hòa giải, bao gồm: - Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt. - Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì lý do chính đáng. Trong hai trường hợp trên, đương sự được phân biệt thành hai loại: Bị đơn và những đương sự khác. Bị đơn là chủ thể bị động tham gia tố tụng và thường có ý thức trốn tránh. Đối với chủ thể này, chỉ cần có dấu hiệu cố tình vắng mặt không tham gia hòa giải, pháp luật cho phép Tòa án tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án mà không cần hòa giải. Những đương sự khác được pháp luật cho phép không tiến hành hòa giải nếu có lí do chính đáng. Như vậy, việc có lí do chính đáng chỉ đặt ra đối với đương sự không là bị đơn. Quy định này xuất phát từ vị trí tố tụng của mỗi đương sự trong vụ án. - Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự. Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự thì họ không thể thể hiện được ý chí của mình nên Tòa án cũng không tiến hành hòa giải. Như vậy, những trường hợp không hòa giải được là những trường hợp liên quan đến việc vắng mặt của đương sự và liên quan đến năng lực hành vi của đương sự. Trong những trường hợp này nếu Tòa án cố tình hòa giải thì việc hòa giải cũng không đạt kết quả và mục đích của hòa giải. Quy định này của BLTTDS giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, thuận tiện. 2.3. CÁC CHỦ THỂ TRONG HÒA GIẢI 2.3.1. Các chủ thể tiến hành hòa giải Khoản 1 và 2 Điều 184 BLTTDS có quy định những người tiến hành hòa giải bao gồm Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải, thư ký Tòa án ghi biên bản ghi bên bản hòa giải. Đây là điểm mới của BLTTDS, PLTTGQCVADS trước kia chưa có quy định cụ thể về những chủ thể tiến hành hòa giải. Do đó, nhiều Tòa án đã phân công thư ký tiến hành hòa giải. Việc xác định cụ thể Thẩm phán tham gia hoạt động hòa giải với vai trò là người chủ trì đã khắc phục được thực tế này. Mặt khác, quy định này của BLTTDS là phù hợp với bản chất của hoạt động hòa giải, bởi hòa giải đòi hỏi người tiến hành phải có kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp cũng như những am hiểu nhất định về lĩnh vực cần hòa giải, hơn ai hết Thẩm phán chính là người thỏa mãn các điều kiện đó. - Nhiệm vụ của Thẩm phán trong hòa giải: Thẩm phán chính là người chủ trì phiên hòa giải. Điều 185 BLTTDS đã quy định cụ thể những công việc mà Thẩm phán phải tiến hành tại phiên hòa giải: Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về toàn bộ vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành và sau bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành nếu không có bên nào thay đổi ý kiến thì Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận hòa giải thành. - Nhiệm vụ của thư ký Tòa án tại phiên hòa giải: Điều 184 BLTTDS đã quy định rõ nhiệm vụ của thư ký tại phiên hòa giải là ghi biên bản hòa giải. Việc ghi biên bản hòa giải của thư ký phải đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 186 BLTTDS. 2.3.2. Chủ thể tham gia hòa giải Ngoài chủ thể tiến hành hòa giải, phiên hòa giải còn bao gồm chủ thể tham gia hòa giải, được quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 184 BLTTDS, bao gồm: - Các đương sự hoặc người đại điện hợp pháp của các đương sự. - Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng việt. So sánh với quy định tại Điều 44 của PLTTGQCVADS, chủ thể tham gia hòa giải được quy định trong BLTTDS đầy đủ và hợp lý hơn. Ngoài các bên đương sự như quy định tại Pháp lệnh, Bộ luật đã quy định cụ thể về việc tham gia của người đại diện hợp pháp trong hòa giải. Quy định này của Bộ luật xác định chính xác địa vị pháp lý của người đại diện, mang tính thống nhất với các với các quy định về người đại diện của những phần khác trong Bộ luật. Bên cạnh đó, sự tham gia của người phiên dịch khi cần thiết là một quy định mới, hợp lý thể hiện sự khái quát hóa từ thực tế thành quy định trong luật. 2.4. THỦ TỤC HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ 2.4.1. Thủ tục hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm 2.4.1.1. Triệu tập đương sự Điều 183 BLTTDS quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc thông báo về phiên hòa giải. Theo đó thì trước khi tiến hành hòa giải, Tòa án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hòa giải, nội dung các vấn đề cần hòa giải. Thủ tục thông báo phải tuân theo quy định tại Chương X BLTTDS về cấp, tống đạt thông báo văn bản tố tụng. Quy định tại Điều 183 BLTTDS là điểm mới của Bộ luật so với các văn bản pháp luật trước đây. Quy định rõ nội dung cần hòa giải trong thông báo về phiên hòa giải sẽ giúp các đương sự chuẩn bị trước các nội dung, phương án hòa giải. Do vậy, phiên hòa giải đạt hiệu quả hơn. Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự nên các đương sự phải có mặt để hòa giải với nhau. Nếu có đương sự vắng mặt thì tùy từng trường hợp mà Tòa án quyết định giải quyết theo các hướng sau: - Trường hợp vắng mặt bị đơn Nếu bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì sẽ thuộc trường hợp vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 182 BLTTDS. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, nếu bị đơn vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án sẽ phải hoãn phiên hòa giải. Nếu triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà bị đơn vẫn vắng thì dù có lý do chính đáng hay không, Tòa án sẽ quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Trong trường hợp tại phiên tòa bị đơn có yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa để tiến hành hòa giải thì Tòa án không chấp nhận, nhưng cần tạo điều kiện cho các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án (Mục 3 Phần II Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP). - Trường hợp vắng mặt nguyên đơn và người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 182 BLTTDS ta có thể nhận thấy đương sự được phân thành hai loại là bị đơn và các đương sự khác gồm nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có lý do chính đáng không thể tham gia hòa giải được thì Tòa án sẽ mở phiên tòa xét xử theo thủ tục chung (khoản 2 Điều 183 BLTTDS). Tuy nhiên, nếu nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt không có lí do chính đáng thì Tòa án sẽ căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. - Trường hợp có đương sự vắng mặt trong vụ án có nhiều đương sự Khoản 3 Điều 184 BLTTDS quy định:“Trong một vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải”. Vấn đề này đã được giải thích cụ thể hơn tại Mục 4 Phần II Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006. Theo đó, Tòa án phải triệu tập tất cả những người có liên quan đến việc giải quyết vụ án tham dự phiên hòa giải. Nếu việc hòa giải vụ án có liên quan đến tất cả các đương sự trong vụ án mà có đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải để mở lại phiên hòa giải khác có mặt tất cả các đương sự. Nếu trong vụ án có nhiều quan hệ pháp luật mà quan hệ pháp luật này liên quan đến đương sự này, quan hệ pháp luật kia liên quan đến đương sự khác và việc giải quyết quan hệ pháp luật đó chỉ liên quan đến các đương sự có mặt không liên quan đến các đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán tiến hành hòa giải những vấn đề có liên quan đến các đương sự có mặt. Như vậy, nếu vụ án có nhiều đương sự thì về nguyên tắc, việc hòa giải phải có đầy đủ các đương sự tham dự. Nếu có đương sự vắng mặt thì Tòa án phải hoãn phiên hòa giải, trừ những trường hợp ngoại lệ sau: + Nếu vụ án có nhiều quan hệ pháp luật và không liên quan tới tất cả các đương sự thì Tòa án có thể tiến hành hòa giải những quan hệ pháp luật chỉ liên quan tới những người có mặt, không liên quan tới những người vắng mặt. + Nếu quan hệ pháp luật liên quan tới tất cả các đương sự thì Tòa án sẽ tiến hành hòa giải khi thỏa mãn hai điều kiện:(1) các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và (2) việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. 2.4.1.2. Tổ chức phiên hòa giải Trong tất cả các văn bản pháp luật quy định về hòa giải từ trước đến nay đều không quy định cụ thể Tòa án phải tiến hành những công việc gì trong buổi hòa giải. Tuy nhiên, thông qua thực tiễn thường thấy diễn biến phiên hòa giải như sau: - Thẩm phán kiểm tra căn cước của những người tham gia hòa giải, giới thiệu Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải và thư ký. - Thẩm phán công bố nội dung vụ án, phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến giải quyết vụ án, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành. - Các bên đương sự thoả thuận về việc giải quyết vụ án. - Thư ký phiên tòa phải ghi biên bản hòa giải với những nội dung quy định tại Điều 186 BLTTDS: Ngày, tháng, năm tiến hành phiên hòa giải; địa điểm tiến hành phiên hòa giải; thành phần tham gia phiên hòa giải; ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự; những nội dung đã được các đương sự thỏa thuận, không thỏa thuận. Sau đó, các đương sự có mặt tại phiên hòa giải, Thẩm phán và thư ký ký vào biên bản hòa giải. - Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về tất cả nội dung vụ án và án phí thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. 2.4.1.3. Xử lý kết quả hòa giải - Thủ tục áp dụng trong trường hợp hòa giải không thành Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tùy từng trường hợp, Tòa án ra một trong bốn quyết định: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; tạm đình chỉ giải quyết vụ án; đình chỉ giải quyết vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử (khoản 2 Điều 179 BLTTDS). Trong trường hợp hòa giải không thành nhưng có các căn cứ đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 189 và Điều 192 BLTTDS thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án tương ứng với từng trường hợp. Nếu không có các căn cứ tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án thì Tòa án sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, để đảm bảo “mọi tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội đều được giải quyết”. Có như vậy, Nhà nước mới duy trì được công bằng xã hội và kỷ cương đất nước. - Thủ tục áp dụng trong trường hợp hòa giải thành Trong trường hợp các bên hòa giải thành, nghĩa là các bên thỏa thuận được toàn bộ nội dung vụ án và án phí thì Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành. Tuy nhiên biên bản hòa giải thành này chưa có hiệu lực pháp luật mà chỉ ghi nhận sự thỏa thuận của các bên. Sự thỏa thuận của các bên sẽ có hiệu lực ràng buộc các bên sau khi Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Thủ tục ra quyết định này được quy định tại Điều 187 BLTTDS: “1. Hết thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trong thời hạn năm ngay làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. 2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án”. Như vậy, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu thỏa mãn các điều kiện sau: + Thứ nhất, các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP đã hướng dẫn rõ thế nào là thỏa thuận được về toàn bộ vụ án tại Mục 7 Phần II của Nghị quyết, theo đó thì “Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (các quan hệ pháp luật, các yêu cầu của các đương sự trong vụ án) và cả về án phí. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng không thỏa thuận được với nhau về trách nhiệm phải chịu án phí hoặc mức án phí, thì Tòa án không công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà tiến hành mở phiên tòa để xét xử”. Theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP thì được coi là giải quyết toàn bộ vụ án khi các đương sự thỏa thuận được về việc giải quyết các quan hệ pháp luật, các yêu cầu của các đương sự trong vụ án và án phí. + Thứ hai, các bên không thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận theo hướng phản đối thỏa thuận đã lập. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các đương sự không có ý kiến phản đối thỏa thuận đã lập thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Nếu vì trở ngại khách quan mà Thẩm phán không ra quyết định được, thì Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán khác ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (Mục 7 Phần II Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP). Quyết định này sẽ được gửi cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, đối với vụ án có nhiều đương sự và có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải và các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thoả thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thoả thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thoả thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hoà giải đồng ý bằng văn bản (khoản 3 Điều 187 BLTTDS). 2.4.2. Thủ tục hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm Một trong những nguyên tắc hòa giải là nguyên tắc về trách nhiệm hòa giải của Tòa án, được quy định tại Điều 10 BLTTDS. Theo đó thì hòa giải là trách nhiệm bắt buộc của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Đối với các giai đoạn tiếp theo, Tòa án không bắt buộc phải tiến hành hòa giải mà Tòa án chỉ khuyến khích các đương sự tự hòa giải. Vì vậy, Điều 220 BLTTDS quy định tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Việc hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án thực chất là Tòa án kiểm tra xem các đương sự có tự thỏa thuận được với nhau hay không. - Những vụ án dân sự Tòa án áp dụng thủ tục hỏi các đương sự về sự thỏa thuận giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm dân sự Đối với những vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng không thành thì Tòa án sẽ tiếp tục khuyến khích các đương sự thỏa thuận với nhau. Do đó, Tòa án sẽ áp dụng thủ tục hỏi các đương sự về sự thỏa thuận giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm dân sự đối với những vụ án này. Ngoài những vụ án đã tiến hành hòa giải không thành ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì những vụ án dân sự Tòa án áp dụng thủ tục hỏi các đương sự về sự thỏa thuận giải quyết vụ án còn bao gồm cả những vụ án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 182 BLTTDS - những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được. Bởi, nguyên nhân dẫn tới vụ án không tiến hành hòa giải được tại khoản 1 và khoản 2 Điều 182 là do sự vắng mặt của các đương sự. Do đó, nếu lí do này không còn thì Tòa án cần hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không để kiểm tra việc tự hòa giải của đương sự. Đối với vụ án không hòa giải được quy định tại khoản 3 Điều 182 BLTTDS thì lí do dẫn tới việc không hòa giải được là do đương sự bị mất năng lực hành vi dân sự không thể thể hiện được ý kiến của mình nên thủ tục hỏi các đương sự về sự thỏa thuận giải quyết vụ án sẽ không áp dụng đối với trường hợp này. Như vậy, những vụ án mà Tòa án áp dụng thủ tục hỏi các đương sự về sự thỏa thuận giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm bao gồm: + Những vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng không thành. + Những vụ án không tiến hành hòa giải được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 182 BLTTDS. - Hậu quả pháp lý của việc Tòa án hỏi các đương sự về sự thỏa thuận của các bên tại phần thủ tục ở phiên tòa sơ thẩm dân sự Điều 220 BLTTDS quy định“Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án”. Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về toàn bộ vụ án và sự thoả thuận đó là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì hội đồng xét xử ra ngay quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án mà không cần chờ sau bảy ngày như việc hoà giải ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. - Thủ tục ra quyết định công nhận việc tự hòa giải của các đương sự Khoản 2 và khoản 3 Điều 210 BLTTDS quy định: “2. Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án, hoãn phiên toà phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản. 3. Quyết định về các vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không phải viết thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên toà.” Phần III tiểu mục 8.2 Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn:“sự thỏa thuận của các đương sự phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Theo quy định tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì Hội đồng xét xử thảo luận và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phòng xử án.” Như vậy, khi ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không phải viết thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa. 2.4.3. Thủ tục hòa giải tại cấp phúc thẩm Điều 258 BLTTDS quy định, trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau: - Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; - Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; - Đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm không bắt buộc phải hòa giải trước khi mở phiên tòa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHòa giải trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc