MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1.
CHƯƠNG 1. Tìm hiểu nội dung, vai trò của lãi suất và chính sách lãi suất đối với nền kinh tế. 3.
1. Những vấn đề cơ bản về lãi suất. 4.
1.1. Lãi suất là gì. 4.
1.2. Phân loại lãi suất. 4.
1.2.1. Căn cứ vào mối quan hệ với lạm phát. 4.
1.2.2. Căn cứ vào nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. 5.
1.2.3. Căn cứ vào mức độ chỉ đạo đối với thị trường. 5.
1.2.4. Căn cứ vào phạm vi quốc gia và quốc tế. 6.
1.3. Các nhân tố tác động tới lãi suất. 7.
1.3.1. Mối quan hệ giữa lãi suất và cung cầu quỹ cho vay. 7.
1.3.2. Các nhân tố tác động tới lãi suất. 10.
1.4. Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế. 16.
1.4.1. Vai trò của lãi suất đối với các nền kinh tế nói chung. 16.
1.4.2. Vai trò của lãi suất đối với từng nền tài chính nói riêng. 20.
2. Chính sách lãi suất. 26.
2.1. Chính sách lãi suất là gì. 26.
2.2. Các công cụ thực hiện chính sách lãi suất. 27.
2.2.1. Chính sách dự trữ bắt buộc. 28.
2.2.2. Chính sách tái chiết khấu. 29.
2.2.3.Nghiệp vụ thị trường mở. 30.
2.3. Xây dựng chính sách lãi suất hiệu quả. 32.
CHƯƠNG 2. Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất VN từ khi cải
cách kinh tế cho tới nay 35.
1. Diễn biến quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất của Việt Nam . 36.
1.1. Giai đoạn 1986-1988. 36.
1.2. Giai đoạn 1989-1991. 38.
1.3. Giai đoạn 1991-1995. 40.
1.4. Giai đoạn T10/1995-1997. 43.
1.5. Giai đoạn cuối 1997-T8/2000. 44.
1.6. Giai đoạn T8/2000-T5/2002. 47.
1.7. Giai đoạn T6/2002 đến nay. 49.
2. Đánh giá việc điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua. 51.
2.1. Những kết quả đạt được. 51.
2.2. Những tồn tại trong điều hành chính sách lãi suất. 58.
CHƯƠNG 3. Xu hướng phát tiển của thị trường tài chính VN và những đòi hỏi phải hoàn thiện chính sách lãi suất tiến tới hội nhập kinh tế 64.
1. Tác động của hội nhập kinh tế đến nền kinh tế VN nói chung và nền tài
chính nói riêng. 65.
1.1. Những thuận lợi của tự do hoá và hội nhập quốc tế về tài chính. 65.
1.2. Những thách thức của hội nhập tài chính tiền tệ. 68.
2. Những đòi hỏi về chuyển đổi chính sách lãi suất và những thách thức trong
chính sách lãi suất mới. 71.
2.1. Sự cần thiết phải chuyển đổi lãi suất theo cơ chế thị trường. 71.
2.2. Những thách thức trong chính sách lãi suất mới. 75.
3. Một số gợi ý về điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới và những
kiến nghị đối với các bộ ngành. 83.
3.1. Một số gợi ý về chính sách lãi suất. 83.
3.2. Những kiến nghị. 91.
3.2.1. Đối với các bộ ngành. 91.
3.2.2. Đối với NHNN. 92.
3.2.3. Đối với các TCTD. 93.
KẾT LUẬN. 96.
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoàn thiện chính sách lãi suất của Việt Nam tiến tới hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản thay thế tăng cao hơn so với các tài sản tài chính sẽ làm cho lượng cầu tài sản tài chính giảm xuống, do đó cung quĩ cho vay giảm, lãi suất cân bằng tăng lên.
ảnh hưởng của lãi suất quốc tế đến lãi suất quốc gia
Trong một nền kinh tế mở, mọi biến động trên thị trường tài chính quốc tế sẽ có ảnh hưởng tới thị trường tài chính trong nước. Khi lãi suất thực quốc tế mà nhỏ hơn lãi suất thực quốc gia thì sẽ khuyến khích những người muốn đầu tư đi vay tiền nước ngoài, điều đó làm cho đường cầu quĩ cho vay dịch chuyển sang trái. Đồng thời những người có tiền tiết kiệm sẽ muốn cho nước ngoài vay tiền để hưởng lãi suất cao hơn làm cho đường cung quĩ cho vay dịch chuyển sang trái. ( hình 6).
Hình 6: ảnh hưởng của lãi suất quốc tế đến lãi suất quốc gia.
Lãi suất
S2 S1
i1
i2
D2 D1
Quỹ cho vay
Tuy nhiên khoản đầu tư chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu quĩ cho vay còn khoản tiết kiệm người dân gửi ra nước ngoài không đáng kể trong tổng cung quĩ cho vay do đó đường cung dịch chuyển ít hơn đường cầu. Điều đó làm cho lãi suất cân bằng giảm xuống.
Như vậy một sự giảm sút của lãi suất quốc tế sẽ kéo theo sự sụt giảm của lãi suất quốc gia.
*Những nhân tố gián tiếp: Đó là những nhân tố mà khi chịu tác động của một chính sách bên ngoài, nó sẽ làm dịch chuyển đường cung- cầu quĩ cho vay, từ đó tác động tới lãi suất cân bằng.
Chính sách tài chính của nhà nước: là chính sách chi tiêu và chính sách thuế của chính phủ. John Maynard Keynes nhận thấy rằng chính sách chi tiêu của chính phủ và chính sách thuế cũng ảnh hưởng tới tổng cầu tiền tệ và do đó nó được sử dụng để khôi phục kinh tế và tăng công ăn việc làm.
Khi nhà nước thực hiện một chính sách bành trướng: tăng chi tiêu của chính phủ thì sẽ làm làm tăng lượng cầu quĩ cho vay, làm cho đường cầu quĩ cho vay dịch chuyển về bên phải, do đó làm cho lãi suất tăng lên. Đồng thời với việc thực hiện một chính sách tài chính bành trướng là việc giảm thu thuế. Mặc dù thuế giảm không trực tiếp ảnh hưởng tới tổng cầu nhưng nó sẽ làm tăng số thu nhập từ đầu tư mới do đó sẽ kích thích đầu tư, làm cho cầu quĩ cho vay tăng lên. Mặt khác, một sự giảm xuống của thuế cũng sẽ tăng số thu nhập sẵn sàng để chi tiêu, từ đó làm tăng cầu quĩ cho vay. Kết quả là lãi suất cân bằng sẽ tăng lên.
Ngược lại, một chính sách tài chính thắt chặt (giảm chi tiêu của chính phủ hoặc tăng thuế) sẽ làm đảo ngược quá trình trên và làm cho lãi suất giảm xuống.
Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
Theo lý thuyết cung- cầu quĩ cho vay thì lượng cung và cầu quĩ cho vay sẽ xác định lãi suất cân bằng. Theo lí thuyết ưa thích tiền mặt của John. M. Keynes thì lãi suất cân bằng được xác định dựa vào lượng cung và cầu tiền tệ. Tuy nhiên, theo Keynes thì việc xác định lãi suất cân bằng bằng cách làm cân bằng lượng cung và lượng cầu quĩ cho vay hay làm cân bằng lượng cung và cầu tiền tệ thì đều như nhau. Ông cho rằng, cầu tiền tệ bao gồm cầu giao dịch, cầu đầu cơ và cầu dự phòng, trong đó cầu giao dịch chiếm tỉ trọng lớn nhất. Khi cầu tiền tệ tăng thì cũng có nghĩa là cầu quĩ cho vay tăng lên. Còn cung tiền tệ bao gồm việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương và việc tạo tiền của NHTM. Khi cung tiền tăng nghĩa là việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương nhiều hơn hoặc việc tạo tiền của NHTM nhiều hơn nghĩa là cung quĩ cho vay cũng tăng lên.
Vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt (hay mở rộng) thông qua các công cụ như dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm cho cung tiền tệ giảm (hoặc tăng) do đó cung quĩ cho vay cũng giảm (hoặc tăng), từ đó làm cho lãi suất tăng (hoặc giảm) tương ứng.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy các ngân hàng trung ương thường sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn (thông qua nghiệp vụ tái cấp vốn) để thực hiện mục tiêu thắt chặt tiền tệ khi nền kinh tế bị lạm phát nhằm ổn định tiền tệ, ổn định giá cả hàng hóa bằng cách tăng lãi suất chiết khấu, và thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để kích cầu, chống giảm phát tiền tệ, chống suy thoái kinh tế bằng cách giảm lãi suất chứng khoán thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Trong tiến trình tiến tới tự do hoá lãi suất các nước như Malaisia, Singapore đều sử dụng các công cụ gián tiếp như lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, chính sách dự trữ bắt buộc để tác động tới lãi suất thị trường khi cần thiết. Tự do hoá lãi suất nghĩa là để cho lãi suất được tự do điều tiết theo quan hệ cung- cầu, không can thiệp trực tiếp vào nó. Tuy nhiên, trong từng điều kiện kinh tế khác nhau, ngân hàng trung ương các nước vẫn phải sử dụng các công cụ gián tiếp để tác động tới lãi suất bởi lãi suất là một biến số kinh tế rất quan trọng. Bất kì một sự biến động nào của lãi suất cũng có ảnh hưởng tới các chỉ số kinh tế khác trên thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Để hiểu rõ hơn tại sao lãi suất lại là biến số kinh tế được theo dõi hàng ngày bởi các chủ thể kinh tế chúng ta cùng đi tìm hiểu vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế.
1.4. Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế
1.4.1. Vai trò của lãi suất đối với các nền kinh tế nói chung
Qua nghiên cứu lí thuyết và thực nghiệm các nhà kinh tế học từ kinh tế học cổ điển cho tới kinh tế học hiện đại đều cho rằng lãi suất có 3 vai trò cơ bản đối với bất kì một nền kinh tế nào.
Thứ nhất, lãi suất là công cụ đánh giá sức khoẻ của nền kinh tế
Lãi suất là một biến số kinh tế rất nhạy cảm. Một sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động trực tiếp tới hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế, từ đó tác động ngược tới đầu tư, tiết kiệm, tổng cầu, khu vực sản xuất vật chất, khu vực kinh tế đối ngoại, khu vực tiền tệ, ngân sách….Nhìn vào chỉ số lãi suất người ta có thể biết được tình trạng kinh tế nói chung của một nước. Qua phân tích lí thuyết và thực tế của nhiều nước các nhà kinh tế học đã đi đến kết luận rằng:
“ Lãi suất tín dụng rất cao thể hiện nền kinh tế khủng hoảng
Lãi suất tín dụng hơi cao thể hiện nền kinh tế năng động, đang trên đà phát triển
Lãi suất tín dụng rất thấp thể hiện nền kinh tế trì trệ, suy thoái”
Chúng ta có thể giải thích kết luận trên bằng việc giả định các qui luật thị trường đặc biệt là qui luật cung- cầu hoạt động hiệu quả bởi nếu trong nền kinh tế thị trường các qui luật thị trường hoạt động không hiệu quả, bị bóp méo đi thì công cụ lãi suất sẽ không hoạt động theo đúng cơ chế cung- cầu của nó. Như vậy lãi suất không còn là công cụ để đánh giá được tình trạng kinh tế của nước đó.
Trong nền kinh tế thị trường nếu như lãi suất tín dụng rất thấp thì chứng tỏ ngân hành trung ương đang có chủ trương “kích cầu” nền kinh tế. Thực hiện chủ trương “kích cầu” nền kinh tế, các chính phủ thương ưu tiên cho việc kích thích đầu tư thông qua công cụ lãi suất bởi lãi suất là một trong những công cụ khuyến khích đầu tư có hiệu quả. Tuy nhiên việc hạ lãi suất xuống mức thấp có “kích cầu” được nền kinh tế hay không còn phụ thuộc vào tình trạng kinh tế của từng nước. Việc liên tục cắt giảm lãi suất tới một mức rất thấp chứng tỏ vẫn không khuyến khích được đầu tư bởi nền kinh tế đang suy thoái, cung và cầu quĩ cho vay không thể gặp nhau ở điểm lãi suất cân bằng. Chúng ta có thể thấy rõ hiện tượng này ở Việt Nam trong năm 1999. Lãi suất tín dụng đã được hạ trần xuống mức rất thấp, có lúc tới 0,85%/ tháng đối với lãi suất cho vay nhưng vẫn xuất hiện tình trạng uể oải trong đầu tư và tiêu dùng. Hiện tượng “thừa cung”, mức giá giảm liên tục không phải do nền kinh tế đã bão hoà về hàng hoá mà do xuất hiện “khủng hoảng kép”: thừa ở một số mặt hàng được sản xuất với chi phí quá cao, lại được sản xuất ra trong một môi trường thiếu tính cạnh tranh. Tương tự như Việt Nam, Nhật Bản trong giai đoạn suy thoái từ năm 1999 đến 2001 đã thực hiện chính sách lãi suất 0 nhưng vẫn không đem lại kết quả mong muốn, nền kinh tế Nhật Bản vẫn rơi vào tình trạng suy thoái và nợ nước ngoài ngày càng gia tăng.
Ngược lại, khi lãi suất tín dụng bị đẩy lên quá cao, vượt xa so với lãi suất cân bằng chứng tỏ cầu quĩ cho vay tăng rất mạnh, lớn hơn nhiều so với cung quĩ cho vay. Cầu quĩ cho vay quá lớn chứng tỏ cầu đầu tư rất lớn, hậu quả của việc đầu tư quá nhiều có thể làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng thừa, sản xuất quá nhiều. Hơn nữa, lãi suất tăng liên tục làm chi phí sản xuất tăng theo, dẫn đến giá cả hàng hoá cũng tăng lên liên tục. Hậu quả là lạm phát có thể lên mấy con số. Hiện tượng này thể hiện rất rõ vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ 20 tại Việt Nam. Có lúc lãi suất tiền gửi ngân hàng kì hạn 6 tháng lên tới 12%/ tháng- tức 144%/ năm, tương ứng với nó là khủng hoảng kinh tế và lạm phát phi mã 3 con số cường độ cao. Năm 1985 tỉ lệ lạm phát là 875%/ năm, năm 1987 là 774%/ năm.
Còn khi lãi suất ở mức vừa phải chứng tỏ cung cầu quĩ cho vay gặp nhau ở điểm lãi suất cân bằng. Qui luật cung- cầu vận hành có hiệu quả, nền kinh tế đang trên đà phát triển.
Thứ hai, lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trước hết, chúng ta đi tìm hiểu 2 mô hình kinh tế cơ bản để biết được lãi suất tác động tới những yếu tố nào của nền kinh tế, qua đó ngân hàng trung ương có thể sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô.
Một là mô hình cân bằng vĩ mô ngắn hạn: do J.M.Keynes đưa ra, chủ yếu dựa vào cân bằng thị trường tiền tệ (đường LM) và cân bằng trên thị trường hàng hoá(đường IS)
Mô hình kinh tế vĩ mô ngắn hạn được xác lập bằng cân bằng ở cả 2 thị trường tiền tệ và hàng hoá. Do đó ta có:
QIS=QLM
QIS=kA.(Ao-A’r.r) (1)
Trong đó: kA: số nhân chi tiêu
Ao:chi tiêu tự định
r: lãi suất
A’r: hệ số ảnh hưởng của lãi suất tới xuất khẩu ròng, tiêu dùng và đầu tư
QLM= kM(Ms-M’r.r) (2)
Trong đó: kM: số nhân tiền
Ms: lượng cung tiền
M’r: hệ số nhạy cảm giữa lãi suất và cầu tiền
Từ (1) và (2) Keynes cho rằng lãi suất tác động tới mọi yếu tố của tổng cầu, đặc biệt là tới xuất khẩu ròng và lượng tiền.
Hai là mô hình tăng trưởng kinh tế dài hạn do Solow đưa ra
Theo ông:
Tăng trưởng = Đóng góp + Đóng góp của + Đóng góp
sản lượng của vốn lao động của công nghệ
DY/Y a.[S.Y/K-r] (1-a).n (1-a).y
Trong đó: a: phản ánh tỷ trọmg thu nhập của vốn K (0<a<1)
S: tỷ lệ tiết kiệm: là phần sản lượng dành cho đầu tư
r: lãi suất vốn (r.K là chi phí vốn)
n: tốc độ tăng trưởng của lực lượng lao động
y: tốc độ tiến bộ công nghệ
Vốn k gồm 2 bộ phận: kd (nội tệ) và kf (ngoại tệ)
Lãi suất thưc được tính bằng:
r=(k’d/kd).(kd/k)+[(k’f/kf)+(e’/e)].(e.kf/k)
=rd.(kd/k)+(rf+re).(e.kd/k)
Trong đó: e: Tỷ giá ngoại tệ
rd: Lãi suất vốn nội
rf: Lãi suất vốn ngoại
re=e’/e: tỷ lệ biến động tỷ giá( là lãi suất phải trả do tỷ gía biến động)
Để tránh luồng chu chuyển vốn mang tính đầu cơ từ nội tệ sang ngoại tệ hoặc ngược lại thì phải đảm bảo:
rd=rf+re
Như vậy trong mô hình này lãi suất tác động tới tổng cầu, tới chi phí vốn. Do đó bằng những chính sách điều chỉnh lãi suất phù hợp, ngân hàng trung ương có thể tác động tới mọi yếu tố vĩ mô của nền kinh tế.
Thứ ba, Lãi suất là công cụ kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả
NHTM là một trong những trung gian tài chính thực hiện nghiệp vụ huy động vốn và cho vay vốn. Chênh lệch giữa lãi suất đầu vào, đầu ra và các chi phí hợp lí liên quan sẽ là phần lợi nhuận thu được của ngân hàng (trừ những trường hợp cho vay với mục đích phi kinh tế). Vì vậy, ngân hàng bao giờ cũng muốn hạ lãi suất tiền gửi xuống càng thấp càng tốt và tăng lãi suất cho vay càng cao càng tốt. Nhưng trong điều kiện cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một gia tăng thì các ngân hàng không thể tự ý đưa ra mức lãi suất nào cũng được mà phải căn cứ vào tín hiệu thị trường. Do đó, việc đưa ra được một chính sách lãi suất hợp lí sẽ là bí quyết thành công của các ngân hàng.
Các doanh nghiệp khi đi vay vốn thì phải trả một khoản chi phí, đó chính là lãi suất. Khi quyết định đầu tư và quyết định vay vốn đầu tư thì doanh nghiệp bao giờ cũng xem xét mối quan hệ tương quan giữa lãi suất và hệ số đầu tư ICOR. Đó là chỉ số phản ánh hiệu quả của việc đầu tư. Để tăng được một đồng lợi nhuận thì doanh nghiệp cần phải đầu tư mấy đồng vốn. Như vậy, lãi suất với bản chất là một bộ phận của chi phí vốn cần được xác định trên cơ sở chủ yếu là hiệu quả đầu tư sẽ là một công cụ để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Trên đây là 3 vai trò cơ bản của lãi suất đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, khi đi xem xét tình hình tài chính nói riêng của mỗi một nền kinh tế người ta còn thấy lãi suất còn có vai trò khác nhau đối với các nền kinh tế khác nhau. Với đặc điểm thị trường tài chính của nước này thì lãi suất có tác động tới một số mặt của nền kinh tế nhưng với đặc điểm thị trường tài chính của nước kia thì những tác động đó không thấy rõ. Để có cái nhìn chi tiết hơn về vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế, chúng ta sẽ đi xem xét cụ thể vai trò của lãi suất trong 2 mô hình tài chính cơ bản sau.
1.4.2. Vai trò của lãi suất đối với từng nền tài chính nói riêng.
*Đối với nền kinh tế mở qui mô nhỏ, thị trường tài chính chưa phát triển
Nền kinh tế mở, qui mô nhỏ, thị trường tài chính chưa phát triển có đặc điểm là ít chịu tác động từ bên ngoài. Hoạt động trên thị trường tiền tệ chưa sôi động, các công cụ sử dụng không đạt hiệu quả cao, các kênh dẫn vốn và lưu thông vốn diễn ra chậm chạp, đặc biệt là thị trường chứng khoán chưa phát triển. Với đặc điểm như vậy thì cơ chế lan truyền tác động của biến số này đến biến số khác là không nhạy bén. Vai trò của lãi suất chủ yếu được thể hiện thông qua các điểm sau:
Thứ nhất, lãi suất là công cụ khuyến khích tiết kiệm
Đối với các nền kinh tế nhỏ đang trong công cuộc đổi mới thì vốn luôn là một vấn đề then chốt. Muốn huy động được vốn thì phải có các biện pháp gọi vốn. Một trong những biện pháp đó là sử dụng công cụ lãi suất. Khi lãi suất tiền gửi tăng cao thì sẽ khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng nhiều hơn. Mối quan hệ giữa lãi suất và tiết kiệm là quan hệ thuận chiều, được minh hoạ bằng sơ đồ như hình vẽ:
H.7: Mối quan hệ giữa lãi suất và tiết kiệm
Lãi suất
i1 S
i0
S0 S1 Tiết kiệm
Bên cạnh đó cũng phải chú ý rằng trong nền kinh tế mà thị trường tài chính chưa phát triển mạnh, đặc biệt là thị trường chứng khoán chưa phát triển thì hoạt động đầu tư của người dân cũng bị co hẹp. Những cơ hội đầu tư có khả năng sinh lời không phải là nhiều nên khi lãi suất tăng cao một chút thì sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng để kiếm lãi bởi đối với họ đây là khoản đầu tư chắc chắn và an toàn nhất.
Vai trò của lãi suất đối với việc kích thích tiết kiệm được thể hiện rõ qua các giai đoạn phát triển kinh tế của Đài Loan và Việt Nam. Trong những năm 1950 sau chiến tranh, nền kinh tế cuả Đài Loan gặp rất nhiều khó khăn, thị trường tài chính không phát triển, nền kinh tế thiếu vốn nghiêm trọng. Trước tình hình đó chính phủ Đài Loan đã thực hiện chính sách nâng lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao, lãi suất tiền gửi danh nghĩa đã lên tới 7%/ tháng tức là 84%/ năm. Hiệu ứng của việc tăng lãi suất này đạt kết quả rất khả quan. Tổng số tiền tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng đã tăng rất nhanh, từ mức nhỏ nhất là 6 triệu nhân dân tệ cuối tháng 3 năm 1950 lên đến 28 triệu nhân dân tệ vào cuối tháng 6 cùng năm đó. ở Việt Nam tình hình cũng diễn biến tương tự. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vốn là một yếu tố rất quan trọng. Theo kết quả điều tra của Wolrd Bank thì Việt Nam là một nước có tỉ lệ tiết kiệm khá cao trong khu vực (chỉ sau Trung Quốc). Để khơi thông nguồn vốn tiết kiệm từ dân cư, công cụ lãi suất đã được sử dụng linh hoạt, có hiệu quả, dẫn đến hiệu ứng đạt được khá cao. Có thể thấy kết quả của việc kích thích tiết kiệm qua 2 bảng sau:
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Real GDP(%)
9,5
9,3
8,2
3,5
4,2
5,5
Tổng tiết kiệm(%GDP)
40,6
38,5
38,2
27
26,5
27,5
Nguồn: Table2: Việt Nam: Selected Economic Indicator 1996-2000
Năm
Số lượng tiền gửi vào ngân hàng
( tỷ đồng)
Tỷ trọng tiền gửi / M2(%)
1992
16565
61
1993
18070
56
1994
24383
56,7
1995
33539
63,6
Nguồn: Báo cáo ngân hàng nhà nước 1997
Thứ hai, lãi suất là công cụ đẩy lùi lạm phát
Thực hiện mục tiêu đẩy lùi lạm phát các ngân hàng trung ương sẽ thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt với biểu hiện là qui định mức lãi suất cao.
Trong nền kinh tế mà các hoạt động trên thị trường tài chính tiền tệ còn sơ khai thì khi lãi suất tăng lên đến một mức độ nhất định sẽ làm cho các doanh nghiệp tự động cắt giảm lượng tiền mặt đang có và lượng tiền thanh toán trên các tài khoản tại ngân hàng để chuyển thành tiền gửi tiết kiệm định kì nhằm hưởng lãi suất cao hơn. Lý do của hậu quả trên là do thị trường tiền tệ bị chi phối bởi sự qua lại giữa mong muốn của công chúng về việc nắm giữ tiền và chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Sự phối hợp qua lại này sẽ tác động vào thị trường tiền tệ, quyết định mức lãi suất trên thị trường.
H.8: Mối quan hệ giữa lãi suất và lượng tiền cung ứng
Lãi suất
i
M Lượng tiền cung ứng
Đồ thị trên cho thấy mọi người sẽ giữ một lượng tiền M1 ở một mức lãi suất thị trường i1. Khi lãi suất tăng lên, lượng tiền trong lưu thông M sẽ giảm đi, điều đó làm cho giá cả hàng hóa giảm xuống, đẩy lùi lạm phát.
Trong những năm 1989-1990 ngân hàng nhà nước đã sử dụng công cụ lãi suất một cách hiệu quả trong việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Bằng việc thi hành quyết định số 29/ NH-QĐ-16/3/1989 về nâng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kì hạn 3 tháng lên 12%/ tháng và lãi suất không kì hạn lên 9%/ tháng các ngân hàng nước ta đã chuyển từ bội chi tiền mặt sang bội thu tiền mặt. Kết quả là lạm phát từ trên 300%/ năm trong năm 1988 và đầu năm 1989 đã giảm xuống dưới 0%/ tháng trong tháng 5 và 6 năm 1989. Tuy nhiên, biện pháp này đã làm cho hoạt động của các ngân hàng trở nên khó khăn hơn bởi cùng với việc tăng lãi suất tiền gửi thì lãi suất cho vay cũng được tăng lên, hậu quả là các ngân hàng không thể cho vay được nhiều và không đủ bù đắo chi phí. Trong điều kiện như vậy, hoạt động của các NHTM cần có sự hỗ trợ từ ngân sách và từ ngân hàng trung ương.
Như vậy qua ví dụ trên chúng ta có thể thấy rằng lãi suất có thể là một trong những công cụ hiệu quả trong việc đẩy lùi lạm phát.
* Đối với nền kinh tế mở, qui mô lớn, thị trường tài chính phát triển ổn định
Nền kinh tế mở qui mô lớn sẽ chịu nhiều tác động của cá yếu tố bên ngoài hơn và ngược lại bất kì một sự biến động nào trên thị trường tài chính của nước đó cũng có thể có những ảnh hưởng tới thế giới bên ngoài. Thị trường tài chính phát triển ổn định, các qui luật thị trường vận hành có hiệu quả, đặc biệt là qui luật cung cầu thì sẽ làm cho cơ chế lan truyền tác động của sự thay đổi biến số kinh tế này đến biến số kinh tế kia là rất nhạy cảm. Trong một nền kinh tế như vậy, lãi suất thể hiện rõ vai trò của mình qua việc kích thích đầu tư và nó cũng là một công cụ để điều chỉnh cán cân mậu dịch.
Thứ nhất, lãi suất là công cụ để kích thích đầu tư
Trước hết giả thiết rằng lãi suất trên các thị trường (thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán) đang ở xu thế cân bằng tức là qui luật cung cầu vận hành có hiệu quả. Giả sử lãi suất trên thị trường tiền tệ giảm xuống (chú ý ở đây chúng ta đang xem xét vai trò của lãi suất tín dụng), nguyên nhân có thể do đường cung quĩ cho vay dịch chuyển sang phải hoặc đường cầu quĩ cho vay dịch chuyển sang trái, tức là cung quĩ cho vay tăng hoặc cầu quĩ cho vay giảm. Tuy nhiên cần phải chú ý rằng trong nền kinh tế với các đặc điểm trên, qui luật cung- cầu vận hành rất hiệu quả, do đó lãi suất sẽ có xu hướng trở về vị trí cân bằng. Đường cung quĩ cho vay có xu hướng dịch chuyển sang trái và đường cầu có xu hướng dịch sang phải, tức là cung quĩ cho vay giảm và cầu quĩ cho vay tăng. Cầu đầu tư tăng lên trong đó cầu đầu tư của doanh nghiệp chiếm tỉ lệ đáng kể bởi trong điều kiện lạm phát ổn định thì nhu cầu cho tiêu của người dân tăng không đáng kể khi lãi suất giảm. Nhưng ngược lại cầu đầu tư sẽ tăng mạnh hơn khi lãi suất giảm bởi chi phí của khoản đầu tư giảm sẽ hứa hẹn khoản lợi nhuận thu được sẽ nhiều hơn. Như vậy mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư là mối quan hệ ngược chiều được minh hoạ trên sơ đồ sau:
H.9. Mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư.
i1 I
io
I1 I0 Cầu đầu tư
Khi lãi suất ở mức i1 thì cầu đầu tư là I1, nhưng khi lãi suất giảm xuống mức i0 thì cầu đầu tư sẽ tăng lên mức I0 và ngược lại.
Thứ hai, lãi suất là công cụ cải thiện cán cân mậu dịch
Trong nền kinh tế mở qui mô lớn, thị trường tài chính phát triển ví dụ như Mĩ những năm cuối thế kỉ 20, khi lãi suất trong nước tăng lên (với mức giá cả cố định) thì các khoản tiền gửi bằng nội tệ trở nên hấp dẫn hơn các khoản gửi bằng ngoại tệ, do đó làm cho giá trị của khoản gửi bằng nội tệ tăng lên so với giá trị tiền gửi bằng các đồng tiền khác, nghĩa là tỉ giá hối đoái tăng lên. Giá trị cao hơn của nội tệ do kết quả của việc tăng lãi suất làm cho hàng hoá trong nước đắt hơn hàng ngoại, do đó sẽ làm giảm xuất khẩu ròng. Như vậy khi lãi suất tăng lên thì giá trị của nội tệ tăng lên, hàng nội trở nên đắt giá hơn và xuất khẩu ròng giảm xuống. Mối quan hệ giữa lãi suất và xuất khẩu ròng là mối quan hệ ngược chiều, được minh hoạ như trên hình vẽ.
H.10: Mối quan hệ giữa lãi suất và xuất khẩu ròng
Lãi suất
i3
i2
i1
NX3NX2Nx1
Xuất khẩu ròng
Từ hình vẽ ta thấy khi lãi suất giảm thì xuất khẩu ròng sẽ tăng (xuất khẩu ròng=xuất khẩu – nhập khẩu)
Do đó để cải thiện cán cân mậu dịch thì có thể thông qua công cụ lãi xuất tác động đến cung cầu quĩ cho vay để từ đó làm giảm lãi suất. Lãi suất giảm sẽ làm cho xuất khẩu ròng tăng lên. Đây cũng là một biện pháp mà cục dự trữ liên bang Mĩ (FED) đã làm trong năm 2001. Đối phó với tình hình suy thoái kinh tế FED đã 11 lần hạ lãi suất nhằm kích thích kinh tế phát triển, trong đó có một mục tiêu là nhằm cải thiện cán cân mậu dịch đặc biệt là với các nước EU.
Ngoài hai vai trò chính trên đây người ta còn thấy trong nền kinh tế mở qui mô lớn, thị trường tài chính phát triển ổn định, lãi suất còn là công cụ để thu hút nguồn ngoại tệ từ nước ngoài thông qua việc thực hiện chính sách tiền gửi cao và nó cũng là công cụ để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua việc thực hiện chính sách lãi suất cho vay thấp hơn. Tuy nhiên vai trò trên không thể hiện rõ ở tất cả các nước trong bất kì một thời kì kinh tế nào mà nó còn phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế của các nước bên ngoài trong giai đoạn đó như thế nào. Giả sử Mĩ muốn thu hút nguồn ngoại tệ từ các nước bằng việc tăng lãi suất tiền gửi lên nhưng các nước khác trong giai đoạn đó lại đang trong tình trạng thiếu vốn thì mục tiêu trên của Mĩ sẽ không đạt kết quả.
Tóm lại, lãi suất có một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Nó vừa là mục tiêu, vừa là công cụ của chính sách tiền tệ. Do đó, thông qua lãi suất người ta có thể tác động vào bất kì lĩnh vực nào của nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu ứng của lãi suất đến các mục tiêu ở các nước khác nhau và trong từng thời kì kinh tế khác nhau là khác nhau. Để đạt được hiệu quả cao nhất thì cần phải biết kết hợp các mục tiêu và công cụ một cách đồng bộ và biết được khi nào thì nên tác động tới công cụ đó. Do vậy, việc đưa ra một chính sách lãi suất hiệu quả, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng thời kì là một trong những ưu tiên hàng đầu trong việc hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia. Vậy đối với một nền kinh tế như Việt Nam- thị trường tài chính đang trong quá trình hội nhập vào nền tài chính thế giới thì một chính sách lãi suất như thế nào là hiệu quả. Để biết được thế nào là một chính sách lãi suất hiệu quả thì chúng ta phải hiểu rõ bản chất của chính sách lãi suất, các công cụ và mục tiêu là gì .
2. Chính sách lãi suất
2.1 Chính sách lãi suất là gì
Chính sách lãi suất là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia, nó vừa là mục tiêu vừa là công cụ của chính sách tiền tệ.
Là công cụ của chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương có thể sử dụng các công cụ gián tiếp như chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở để qua đó tác động tới lượng cung tiền và lãi suất .
Là mục tiêu của chính sách tiền tệ, chính sách lãi suất phải hướng tới những mục tiêu của chính sách tiền tệ đó là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, kích thích tăng trưởng kinh tế. Để đạt được mục tiêu chính sách lãi suất, Ngân hàng trung ương sẽ căn cứ vào thực trạng kinh tế đất nước trong từng giai đoạn để qui định một số chỉ tiêu lãi suất áp dụng trong toàn hệ thông ngân hàng. Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát lãi suất để đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ theo các cách sau:
Thứ nhất, Ngân hàng trung ương có thể quản lí trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất. Cách quản lí này rất cứng nhắc đối với các tổ chức tín dụng khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng bởi trong quá trình thực hiện có rất nhiều trường hợp phát sinh mà các tổ chức tín dụng cần phải giải quyết linh hoạt để làm hài hoà lợi ích của cả khách hàng lẫn của mình. Ví dụ như trong quá trình thực hiện các đối tượng vay vốn khác nhau, mức rủi ro của các khoản cho vay là khác nhau nên nếu các tổ chức tín dụng cứ áp dụng cứng nhắc the