Khóa luận Hợp tác kinh tế - Thương mại giữa Việt Nam và APEC, thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I 1

CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI 1

GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC 1

1. Lịch sử hình thành và phát triển của APEC 1

1.1. Tính tất yếu khách quan của hợp tác kinh tế - thương mại giữa các nước APEC 1

1.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực 1

1.1.2. Sự ra đời của APEC 3

1.2. Các giai đoạn phát triển của APEC 3

1.2.1. Giai đoạn đầu (1989 - 1993) 3

1.2.2. Giai đoạn từ 1993 - 1998 4

1.2.3. Giai đoạn từ 1998 đến nay 5

2. Cơ cấu tổ chức, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC 7

2.1. Cơ cấu tổ chức của APEC 7

2.1.1. Cấp chính sách 7

2.1.2. Cấp chuyên viên 8

2.1.3. Ban thư ký 8

2.1.4. Cơ chế hoạt động của APEC 8

2.2. Mục tiêu hoạt động của APEC 9

2.3. Nguyên tắc hoạt động của APEC 10

3. Sự cần thiết của hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và APEC 12

3.1. Nhu cầu phá thế bị bao vây cấm vận kinh tế, cô lập về chính trị 12

3.2. Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế 14

CHƯƠNG II 16

MỘT SỐ NỘI DUNG PHÁP LÝ VỀ HỢP TÁC 16

KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC 16

1. Một số nội dung cơ bản của tiến trình APEC 16

1.1. Phát triển về thể chế 16

1.2. Các chương trình, sáng kiến của APEC 19

1.2.1. Tự do hoá thương mại và đầu tư 20

1.2.2. Thuận lợi hoá thương mại và đầu tư 20

1.2.3. Hợp tác kinh tế - kỹ thuật 21

2. Nghĩa vụ của Việt Nam trong APEC 25

2.1. Xây dựng, thực hiện, bổ sung hàng năm kế hoạch hành động quốc gia (IAP) 25

2.2. Tham gia các chương trình hành động tập thể và hoạt động tập thể khác (CAP) 29

CHƯƠNG III 34

HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM 34

VÀ CÁC THÀNH VIÊN APEC 34

1. Thực trạng kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập APEC 34

1.1. Những thuận lợi, khó khăn trong hợp tác giữa Việt Nam và APEC 35

1.1.1. Thuận lợi 35

1.1.2. Khó khăn 38

1.2. Thành công của năm APEC Việt Nam 2006 40

2. Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với một số nước lớn là thành viên APEC 42

2.1. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ 42

2.2. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Trung Quốc 45

2.3. Hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam và Nhật Bản 47

3. Những giải pháp về quá trình hợp tác giữa Việt Nam và APEC 50

3.1. Định hướng và giải pháp phát triển 50

3.1.1. Môi trường - thể chế 51

3.1.2. Phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng vật chất - kỹ thuật 51

3.1.3. Nguồn nhân lực 52

3.1.4. Chính sách - công cụ 52

3.1.5. Giải pháp về đối tác 53

3.1.6. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 53

3.1.7. Bộ máy nhà nước - công tác Cán bộ 54

3.2. Một số đề xuất, kiến nghị 54

KẾT LUẬN 57

 

 

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5146 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hợp tác kinh tế - Thương mại giữa Việt Nam và APEC, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n khích việc liên kết tiêu chuẩn của các thành viên với các tiêu chuẩn quốc tế, công nhận lẫn nhau giữa các thành viên APEC về chứng nhận hợp chuẩn trong các lĩnh vực được quy định và ưu tiên khuyến khích hợp tác phát triển hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm minh bạch hoá về tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn của các nền kinh tế thành viên. Về thủ tục hải quan: Mục tiêu chính của chương trình hợp tác này là nhằm đơn giản hoá và thực hiện hài hoà các thủ tục hải quan ở các nền kinh tế thành viên, Tiểu ban thủ tục hải quan hiện đang nghiên cứu khả năng áp dụng thương mại điện tử để thay thế các công việc sử dụng giấy tờ. Về đi lại của doanh nhân: Sự ra đời của chương trình thẻ đi lại của doanh nhân APEC (ABTC) đã khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nhân trong khu vực tự do đi lại và kinh doanh tại các nền kinh tế thành viên. 1.2.3. Hợp tác kinh tế - kỹ thuật Hội nghị Xubic năm 1996 đánh dấu một bước quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế - kỹ thuật, Hội nghị thông qua tuyên bố Manila, được coi là văn kiện chính thức đầu tiên về hợp tác ECOTECH trong APEC . ECOTECH đã đề ra một loạt các sáng kiến hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau như: Chương trình hành động Kualalumpơ về phát triển kỹ năng năm 1998 là sáng kiến của nhóm công tác APEC về phát triển nguồn nhân lực, nhằm đào tạo và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương trình xúc tiến xây dựng năng lực nguồn nhân lực được thông qua năm 2000 tại Hội nghị cấp cao APEC Brunây, các nhà lãnh đạo xác định mục tiêu để tất cả người dân trong khu vực có thể tiếp cận thông tin và dịch vụ qua mạng Internet vào năm 2010. Đi đôi với việc thực hiện mục tiêu này là một chương trình hỗ trợ năng lực về xây dựng nguồn nhân lực. Chương trình này càng được đẩy mạnh tại Hội nghị cấp cao Thượng Hải năm 2001 bằng việc thông qua sáng kiến Bắc Kinh về xây dựng năng lực APEC. Chương trình nghị sự APEC về hợp tác khoa học, kỹ thuật, công nghệ hướng tới thế kỷ 21. Phát triển bền vững, ba vấn đề được đưa vào chủ đề phát triển bền vững của ECOTECH là: Thành phố phát triển bền vững, sản xuất sạch, tính bền vững của môi trường biển. Tuy nhiên, không có nhóm công tác về vấn đề này, nên vấn đề chưa được thúc đẩy phát triển mạnh. Chương trình hành động ECOTECH (EAP) được các thành viên tham gia trên cơ sở tự nguyện, nhằm khuyến khích việc tự nguyện đóng góp cho các hoạt động ECOTECH. Các quan chức cao cấp APEC đã thông qua 4 lĩnh vực ưu tiên của ECOTECH năm 2003 gồm: hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, xây dựng năng lực đối phó với chủ nghĩa khủng bố, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức và giải quyết những tác động xã hội của toàn cầu hoá. Cũng trong năm này, tiểu ban hợp tác ECOTECH đã tổ chức đối thoại bàn tròn lần đầu tiên với các thể chế tài chính quốc tế, thảo luận những lĩnh vực có thể hợp tác thông qua các chương trình nhằm đào tạo và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; hỗ trợ năng lực cũng như trao đổi chuyên gia kỹ thuật. Các cuộc đối thoại tiếp theo cũng đã được tổ chức sau 2 năm bên lề hội nghị quan chức cao cấp APEC lần thứ 3 năm 2005 tại Hàn Quốc. Để đẩy nhanh việc thực hiện mục tiêu Bogor, các thành viên APEC đã xây dựng “Sáng kiến người tìm đường”. Theo phương thức này, một số thành viên có thể đi trước trong việc thực hiện các sáng kiến, nhằm tiến tới mục tiêu tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại, các thành viên khác sẽ tham gia các sáng kiến khi điều kiện cho phép. Hoạt động trong khuôn khổ này có các sáng kiến như: thẻ đi lại của doanh nhân APEC (ABTC), hệ thống thông tin trước về hành khách, chính sách thương mại cho kinh tế - kỹ thuật số. Từ năm 1998 đến nay, có nhiều sáng kiến được đưa ra trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực hải quan có “sáng kiến thương mại phi giấy tờ” (Paperless trading); nhóm tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn thành công trong việc ký kết “Hiệp định công nhận chéo về trang thiết bị điện”; nhóm đặc trách về hội nhập giới xây dựng “Khuôn khổ hội nhập phụ nữ vào APEC”. Ngoài ra còn phải nói đến kế hoạch hành động vì nền kinh tế mới, nhằm đánh giá sự sẵn sàng tham gia thương mại điện tử, kế hoạch hành động quốc gia về thương mại điện tử, chiến lượng APEC điện tử. Năm 2004, sáng kiến Xantiagô về thương mại mở rộng trong APEC. Thước đo của sáng kiến này là việc tạo dựng năng lực để tất cả các nền kinh tế có thể thực hiện và có lợi từ việc thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại. Sáng kiến gồm hai phần: phần một là tự do hoá thương mại và đầu tư, có tính đến các tiến bộ đã đạt được trong các cuộc đàm phán DDA (chương trình nghị sự phát triển Doha) của WTO, đánh giá giữa kỳ các mục tiêu Bogor, thực hành về RTAS (Hiệp định thương mại khu vực), FTAS (Hiệp định thương mại tự do) của APEC và các hoạt động mở cửa thị trường chung và đơn phương khác. Phần hai là thuận lợi hoá thương mại, thực hiện việc giảm bớt các chi phí giao dịch, tiếp thu khoa học kỹ thuật, hài hoà hoá các tiêu chuẩn và xoá bỏ các rào cản thương mại. Ngoài ra, APEC đã có những đóng góp về mặt tài chính cho sáng kiến về an ninh tài chính và thương mại khu vực của Ngân hàng phát triển châu Á và những kết quả đạt được trong việc thực hiện các sáng kiến về việc đi lại trong kinh doanh, bao gồm các hệ thống thông tin người tìm đường (API) và hợp tác để phát hành các tài liệu về đi lại dưới dạng phần mềm vào năm 2008, “Sáng kiến về đấu tranh chống AIDS” trong APEC đã được các nước thành viên thông qua và đưa ra cam kết chính trị, sẽ cùng nhau làm việc ở các cấp độ toàn cầu và khu vực, sẽ đấu tranh với sự tràn làn ngày càng tăng của đại dịch này. “Sáng kiến chống tham nhũng” từ Xantiago đến Seoul (Hàn Quốc) cũng được Hội nghị APEC - 2004 thông qua và được các nước triển khai thực hiện. “Sáng kiến về đấu tranh chống tham nhũng và bảo đảm tính minh bạch” là một sáng kiến có tính bước ngoặt đối với APEC, mỗi nền kinh tế APEC phải có các bước đảm bảo tính công khai, để có được giá trị, sự công bằng, đảm bảo tính minh bạch về hành chính công, phát triển bền vững của quốc gia. Một vấn đề nữa rất đáng quan tâm trong giai đoạn hiện nay, đó là chống khủng bố, chống khủng bố đã được đưa vào chương trình nghị sự của APEC từ năm 2001. Khủng bố là mối đe doạ đối với sự ổn định kinh tế, hoà bình và an ninh khu vực, là thách thức trực tiếp đối với mục tiêu thương mại mở, tự do phồn thịnh của APEC. Một tuyên bố của các nhà lãnh đạo APEC là chống khủng bố và thúc đẩy tăng trưởng, nhằm đưa ra các biện pháp tăng cường an ninh khu vực mà không cản trở luồng chu chuyển hàng hoá, đi lại của mọi người, dưới hình thức các sáng kiến như “Bảo đảm thương mại trong khu vực” (STAR), “Chương trình hành động APEC về chống khủng bố và tài trợ cho khủng bố”, “Chiến lược an ninh mạng của APEC”. Những chương trình, kế hoạch hành động và các sáng kiến của APEC đã có những tác dụng nhất định đối với Diễn đàn, với tổ chức kinh tế, thương mại khác trên thế giới, cụ thể đối với GATT/WTO, đã có những thời điểm APEC có tác dụng đáng kể trong thúc đẩy hoạt động của GATT/WTO. Trong bối cảnh vòng Doha của WTO đang gặp nhiều khó khăn, APEC đã liên tục thể hiện cam kết thúc đẩy vòng đàm phán này, ủng hộ chế độ thương mại đa phương mở. Có thể nói, các chương trình, kế hoạch hành động và các sáng kiến lớn của APEC ngày càng được mở rộng, đi từ ba trụ cột chính ban đầu là TILF và ECOTECH, sau là những vấn đề an ninh con người và văn hoá, xã hội. Tính không bắt buộc của các chương trình, sáng kiến hợp tác trong APEC thể hiện tính linh hoạt, tạo điều kiện cho các nền kinh tế thành viên có thể thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế của mình, phù hợp với tính chất lâu dài, bảo đảm được những hiệu quả thực chất hơn. 2. Nghĩa vụ của Việt Nam trong APEC Việt Nam là một thành viên của APEC đã có nhiều nỗ lực tích cực tham gia vào các hoạt động và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thành viên của diễn đàn, thể hiện thiện chí của Việt Nam trong tiến trình hợp tác, hội nhập APEC và hội nhập kinh tế quốc tế. 2.1. Xây dựng, thực hiện, bổ sung hàng năm kế hoạch hành động quốc gia (IAP) Với tinh thần chủ động hội nhập, sự tham gia của Việt Nam vào APEC là sự tham gia có chọn lọc, trên cơ sở cân đối các nghĩa vụ quốc tế, lợi ích quốc gia và khả năng, trình độ phát triển của nền kinh tế. IAP được coi như là công cụ chính và chủ yếu để các nền kinh tế thành viên APEC thực hiện các mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư theo tuyên bố Bogor. IAP bao gồm cam kết tự nguyện của các thành viên trong 15 lĩnh vực nêu tại OAA là: Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ, đầu tư, tiêu chuẩn hợp chuẩn, thủ tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, mua sắm chính phủ, rà soát cơ chế chính sách, giải quyết tranh chấp, thực hiện các nghĩa vụ của WTO, đi lại của doanh nhân, thu thập và phân tích thông tin và thương mại điện tử. Trong mỗi lĩnh vực, các thành viên đều phải nêu rõ tình hình hiện tại, các luật lệ, chính sách cơ bản để điều tiết các hoạt động trong lĩnh vực đó, những tiến triển trong một năm qua và kế hoạch thay đổi trong thời gian tới. Việt Nam đã gửi bản IAP đầu tiên ngay sau khi trở thành thành viên APEC, trong đó Việt Nam đã nêu rõ tình hình thực hiện hiện tại các luật lệ và cơ chế điều tiết các hoạt động trong từng lĩnh vực cụ thể trên, xây dựng các chiến lược ngắn hạn và dài hạn để thực hiện IAP một cách có hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và hỗ trợ thực hiện các mục tiêu đã được vạch ra của toàn khối. Trong IAP, Việt Nam cam kết thực hiện toàn diện 15 lĩnh vực hợp tác, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến những lĩnh vực chủ yếu, tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đến sự tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế như thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ, đầu tư, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, thủ tục hải quan, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh. * Trong lĩnh vực thuế quan Những cam kết về cắt giảm thuế quan trong APEC không mang tính ràng buộc chặt chẽ về thời gian thực hiện hay mức độ thực hiện như trong các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Tuy vậy, Việt Nam đã đưa ra cam kết riêng của mình về tiếp tục cắt giảm thuế quan, minh bạch hoá chính sách thuế quan, phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong ASEAN và WTO. Ngoài ra, Việt Nam còn cam kết cắt giảm thuế quan theo khuôn khổ Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Với mục tiêu dài hạn là giảm tối đa thuế quan, giúp đạt được viễn cảnh tự do hoá thương mại và đầu tư một khối. Việt Nam đang tích cực thực hiện điều này. * Trong lĩnh vực phi thuế quan Việt Nam đưa ra danh mục các hàng rào và biện pháp phi thuế quan đang được áp dụng trong thực tiễn và đưa ra thời gian thực hiện cắt giảm, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan cản trở thương mại. Mặc dù vậy, trong thực tiễn pháp luật Việt Nam, theo Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài, Việt Nam vẫn duy trì biện pháp cấm nhập khẩu đối với một số sản phẩm như: vũ khí, quân trang quân dụng, vật liệu nổ (trừ chất nổ công nghiệp), thiết bị kỹ thuật quân sự v.v... nhưng vẫn phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết trong khuôn khổ WTO. * Trong lĩnh vực dịch vụ Trong IAP, Việt Nam đưa ra các cam kết khá cụ thể trong từng lĩnh vực thương mại dịch vụ, dần dần mở cửa thị trường dịch vụ, dành cho các thành viên APEC đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) nhằm tạo thuận lợi nhất, công bằng và minh bạch cho các nhà cung cấp dịch vụ, đồng thời xây dựng môi trường pháp lý bình đẳng cho các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam nói riêng hướng ra thị trường toàn khối. Thực tiễn cho thấy, trong pháp luật Việt Nam, tại Pháp lệnh về đối xử Tối huệ quốc và đối xử Quốc gia trong thương mại quốc tế (2002) đã quy định việc dành đối xử MFN và NT cho dịch vụ nước ngoài và nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài. Đây là một minh chứng thể hiện rằng Pháp luật Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc điều chỉnh thương mại dịch vụ, phù hợp với các cam kết quốc. * Trong lĩnh vực đầu tư Việt Nam cam kết dần dần thực hiện tự do hoá đầu tư, xây dựng một hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý, thu hút và điều hành hoạt động đầu tư hiệu quả. Hiện tại, Luật đầu tư (2005) đã có hiệu lực ngày 01/7/2006. Đây là luật áp dụng chung cho cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, trên tinh thần cho các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng chế độ đối xử quốc gia (NT). Pháp luật về đầu tư của Việt Nam đang tiến gần hơn mức tiêu chuẩn của sự phù hợp với xu hướng hội nhập, không chỉ đối với diễn đàn kinh tế mở APEC mà còn đối với các diễn đàn kinh tế, thương mại khác ở cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu. * Trong lĩnh vực hải quan Việt Nam cam kết hài hoà hoá các thủ tục hải quan phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế, tham gia nhiều công ước quốc tế liên quan đến thủ tục hải quan như: Hiệp định về trị giá tính thuế hải quan (ngày 29/12/2003), Hải quan Việt Nam bắt đầu thực hiện việc xác định trị giá hải quan theo Hiệp định GATT của Tổ chức thương mại thế giới. “Những yêu cầu thực hiện nghĩa vụ pháp lý trong các đầu tư quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia về đơn giản hoá thủ tục hải quan, đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện pháp luật hải quan” [8, tr. 15 ]. Đứng trước đòi hỏi này, Quyết định số 50/2005/QĐ-BTC ngày 19/7/2005 của Bộ Tài chính về việc ban hành quy định quy trình thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hoá xuất nhập khẩu và đặc biệt Luật hải quan (2005) ra đời, đã có sự thống nhất tương đối về thủ tục hải quan, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại phát triển. * Về mua sắm Chính phủ Việt Nam đưa ra những cam kết chung về minh bạch hoá mua sắm của Chính phủ, về quy trình và thủ tục tham gia đấu thầu các hợp đồng xây dựng, mua sắm và chi tiêu ngân sách, công khai hoá thông tin về mời thầu, xét thầu quốc tế. Pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng trong Luật đấu thầu (2005), Nghị định số 16/2005/NĐ- CP ngày 07/02/2005 về quản lý các dự án đầu tư xây dựng các công trình và Thông tư số 08/2005/TT-BXD của Bộ Xây dựng ngày 06/5/2005 quy định chi tiết thi hành Nghị định số 16 này đã làm cho công tác triển khai thực hiện được thống nhất, hiệu quả. * Về tiêu chuẩn và hợp chuẩn Việt Nam cam kết tham gia vào các thoả thuận quốc tế về tiêu chuẩn và hợp chuẩn, hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế, tham gia vào các thoả thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn chất lượng, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và sản phẩm điện tử. Hơn nữa, tăng cường hoạt động chứng nhận hệ thống đánh giá và quản lý chất lượng theo ISO9000 và ISO14000 cho doanh nghiệp và công ty trên toàn quốc. Điều này sẽ giúp cho hàng hóa của Việt Nam thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các thị trường “khó tính” của các nền kinh tế APEC như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, New zealand v.v... * Về sở hữu trí tuệ Việt Nam cam kết thực hiện các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ trong khuôn khổ WIPO và WTO nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tự do hoá thương mại và đầu tư được thể hiện như việc luật hoá bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Luật dân sự và đặc biệt Việt Nam đã ban hành Luật sở hữu trí tuệ (2005) có hiệu lực ngày 01/7/2006 cùng một số văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể đã thúc đẩy hoạt động sáng tạo, hoạt động thương mại liên quan đến các đối tượng cuả sở hữu trí tuệ, về cơ bản đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. * Chính sách cạnh tranh Việt Nam cam kết và đã thực hiện xây dựng Luật cạnh tranh và các chế tài liên quan phù hợp với quy định của WTO và tổ chức quốc tế khác, để đảm bảo một khuôn khổ bình đẳng cho hoạt động thương mại và đầu tư. Sau khi ban hành Luật cạnh tranh (2004) Việt Nam cũng ban hành Luật đầu tư (2005) và Luật doanh nghiệp (2005) điều chỉnh chung hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của mọi chủ thể. 2.2. Tham gia các chương trình hành động tập thể và hoạt động tập thể khác (CAP) CAP là công cụ chính thực hiện mục tiêu thuận lợi hoá thương mại và đầu tư trong nội khối APEC, là một trong ba trụ cột trong chương trình hành động Osaka. CAP khái quát hoá 15 lĩnh vực hợp tác được đề cập tại IAP nhằm hỗ trợ việc thực hiện các IAP ngày một hiệu quả và bền vững. Do các lĩnh vực hợp tác thuộc CAP rất rộng, bao gồm thương mại, đầu tư và nhiều lĩnh vực khác nữa, nên việc tham gia sâu vào tất cả các lĩnh vực hợp tác này của APEC là chưa đủ điều kiện. Vì vậy, Việt Nam đã tích cực tham gia vào hai lĩnh vực hợp tác chính là tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn (SCSC) và thủ tục hải quan (SCCP). Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chuyên ngành và đầu mối tổng hợp kinh tế là Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Bộ Khoa học và Công nghệ tham gia vào các chương trình này. * Về thủ tục hải quan Việt Nam cam kết và đã tham gia nhiều công ước quốc tế liên quan đến thủ tục hải quan như tham gia Công ước Kyoto sửa đổi (2001) và giản đơn hoá và hài hoà hoá thủ tục hải quan đối với hoạt động xuất khẩu. Ngày 29/12/2003, Hải quan Việt Nam bắt đầu thực hiện xác định trị giá hải quan theo Hiệp định GATT của Tổ chức thương mại thế giới, đồng thời xây dựng hệ thống quy trình thủ tục và các quy định liên quan đến xuất khẩu, ban hành các nghị định, quyết định về xử lý hành chính các vi phạm liên quan đến hải quan. Đặc biệt, Việt Nam đã thông qua Luật hải quan sửa đổi, bổ sung ngày 19/5/2005 và có hiệu lực ngày 01/01/2006 và Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật hải quan. Việt Nam cũng đã đạt được một số thành công nhất định trong việc tiến hành xây dựng và triển khai chiến lược phát triển công nghệ thông tin trong toàn ngành hải quan giai đoạn 2001- 2005 cùng với việc xây dựng hệ thống tự động hoá hải quan. Đây là một hoạt động hưởng ứng chương trình thương mại phi giấy tờ của APEC, với mục tiêu thực hiện cho giai đoạn 2005- 2010. Ban Thư ký APEC cũng đã biên soạn một số ấn phẩm như sổ tay hải quan APEC, nhằm thúc đẩy minh bạch hoá và thông báo cho các doanh nghiệp về hoạt động của Tiểu ban thủ tục hải quan và cách thức doanh nghiệp có thể hưởng lợi từ các hoạt động này. Thông qua ấn phẩm này, các nền kinh tế thành viên có thể hiểu một cách rõ ràng hơn về cơ quan hải quan, luật pháp, quy định và các thủ tục khác liên quan đến hải quan của Việt Nam. * Về tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn Việt Nam xác định rõ việc hợp tác và hài hoà hệ thống tiêu chuẩn quốc gia với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế có tác động rất lớn đến hoạt động thương mại và đầu tư. Việt Nam đã dần đưa danh mục các tiêu chuẩn ưu tiên hài hoà trong APEC vào kế hoạch xây dựng tiêu chuẩn của Việt Nam, trong số đó có một số tiêu chuẩn đã trở thành tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào thoả thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn trong APEC (APEC- MRA) đối với các sản phẩm điện, điện tử, đồ chơi, thực phẩm và nhiều thoả thuận khác. Với việc tham gia này đã giúp Việt Nam nâng cao được khả năng tham gia vào các chương trình hợp tác mang tính khu vực trên các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và áp dụng thực tiễn kết quả nghiên cứu. Việt Nam cũng tăng cường hoạt động chứng nhận hệ thống đánh giá và quản lý chất lượng theo ISO9000 và ISO14000 cho doanh nghiệp và công ty trên toàn quốc, nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam trước sự cạnh tranh từ bên ngoài, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam đối với các nền kinh tế thành viên. Điều này được thể hiện ở tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ Việt Nam trong thời gian vừa qua, cũng như khả năng đáp ứng về nhân lực và trình độ quản lý đối với tiếp nhận đầu tư FDI: “Kết quả xuất khẩu của tháng 11/2006 đã đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của 11 tháng lên 36,276 tỷ USD, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm 2005, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đóng góp 21,024 tỷ USD, tăng 25% so với cùng kỳ” [9, tr. 25]. Kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng rất ấn tượng đó là: “Tính chung 11 tháng năm 2006, tổng số vốn cấp phép mới và tăng thêm đạt 8,274 tỷ USD, tăng 47,4% so với cùng kỳ” [10,tr. 26]. Điều này, khẳng định rằng, Việt Nam đã bước đầu tạo được uy tín và hình ảnh tốt đẹp với các thành viên của APEC về một Việt Nam năng động, cởi mở, hội nhập. Ngoài các chương trình hợp tác về kinh tế, APEC còn có nhiều hoạt động mang tính chất xã hội như các chương trình liên quan tới phụ nữ, thanh niên, người khuyết tật. Theo cam kết của các nhà lãnh đạo APEC thì vấn đề giới, cụ thể là vấn đề phụ nữ là một chủ đề xuyên suốt trong mọi chương trình hoạt động mang tính chất xã hội của APEC. Việt Nam đã tham dự tích cực vào vấn đề này thông qua các hoạt động cụ thể như xây dựng và thực hiện kế hoạch khung về hội nhập của phụ nữ, phổ biến và tuyên truyền về vấn đề giới trong các cấp, các ngành. Việt Nam cũng tích cực tổ chức đoàn tham gia các diễn đàn thanh niên, doanh nghiệp trẻ, người khuyết tật và các hoạt động hội nghị, hội thảo, trao đổi thông tin, đối thoại chính sách, hợp tác nghiên cứu trong APEC, nhằm tăng cường phổ biến thông tin và kết quả hợp tác APEC cho các đối tượng có liên quan trực tiếp như các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý ở cấp trung ương và địa phương cũng như các đối tượng xã hội khác nhau, ủng hộ đối với tiến trình hợp tác APEC. APEC đã thiết lập một ngân quỹ (tiền huy động đóng góp của các nền kinh tế thành viên và của các nhà tài trợ chính như Hoa Kỳ, Nhật Bản) dành riêng tài trợ các loại hình dự án xây dựng năng lực, hợp tác kinh tế, kỹ thuật phục vụ hoạt động các diễn đàn và các nhóm công tác trong APEC, đã được các thành viên hết sức ủng hộ, đặc biệt từ các nền kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam. Số tiền huy động đóng góp của mỗi thành viên là 50.000 USD/ năm để duy trì hoạt động của ngân quỹ này. Đây cũng là nghĩa vụ tương đối quan trọng, nhưng đã mang lại nhiều lợi ích cho các thành viên đang phát triển như Việt Nam trên khía cạnh đào tạo chuyên gia, đào tạo cán bộ nghiên cứu và hoạch định chính sách và nhiều dự án tài trợ nghiên cứu chính sách phát triển thương mại. Hơn nữa, thông qua cơ chế hợp tác song phương trong APEC, Việt Nam đã phối hợp với Australia, Hoa Kỳ, Nhật Bản xây dựng một loạt các dự án hỗ trợ nâng cao năng lực, trong đó có những dự án quan trọng như xây dựng Pháp lệnh thương mại điện tử, hỗ trợ xây dựng luật cạnh tranh. Các hoạt động hội nghị, hội thảo, trao đổi thông tin, đối thoại chính sách. Tham gia vào các hoạt động hợp tác trong APEC là một phần của tiến trình hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động này được Chính phủ Việt Nam rất coi trọng. Uỷ ban Quốc tế về hội nhập kinh tế quốc tế có nhiệm vụ giúp chính phủ điều phối chung các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực này. Bộ Ngoại giao tham gia vào các hoạt động liên quan tới Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC, Hội nghị liên Bộ trưởng ngoại giao - kinh tế và các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành. Cơ quan điều phối tham gia trực tiếp là Bộ thương mại, các Bộ ngành hữu quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn, phối hợp với Bộ thương mại và Bộ ngoại giao tham gia vào các hoạt động liên quan tới Hội nghị các quan chức cấp cao và một số cuộc họp chuyên ngành trong APEC. Như vậy, việc xây dựng IAP không chỉ để thực hiện cam kết với APEC mà còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Việt Nam tham gia đóng góp tích cực trong việc xây dựng mẫu IAP mới (e- IAP) làm cho IAP của các thành viên rõ ràng, minh bạch hơn với mục tiêu mang lại lợi ích tối đa cho các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh việc tham gia các hoạt động của APEC theo hướng có chọn lọc, trong thời gian tới đối với CAP: ngoài lĩnh vực tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn và thủ tục hải quan, Việt Nam sẽ tham gia tích cực hơn nữa vào các chương trình hợp tác kinh tế - kỹ thuật, sở hữu trí tuệ, du lịch và sự lưu chuyển của doanh nhân. Từ ngày 12-19/11/2005 Việt Nam đã tham dự các cuộc họp cấp cao APEC 13 tại Busan (Hàn Quốc), nhằm khẳng định quyết tâm chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của mình. Minh chứng cho điều này là Việt Nam đăng cai tổ chức thành công APEC-2006 lần thứ 14 với chủ đề “Hướng tới một cộng đồng năng động vì phát triển bền vững và thịnh vượng” là một trong những hoạt động đối ngoại quan trọng của Việt Nam. CHƯƠNG III HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC THÀNH VIÊN APEC 1. Thực trạng kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập APEC Trong thế giới ngày nay, liên kết và hợp tác kinh tế ở khu vực và trên phạm vi toàn cầu phát triển mạnh, tự do hoá kinh tế, thương mại và đầu tư trở thành xu hướng phổ biến, bao trùm, trở thành đặc trưng của thời đại. Toàn cầu hoá mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt các quốc gia trước sự lựa chọn không dễ dàng: đứng ngoài xu thế đó thì bị cô lập và tụt hậu, tham gia thì phải ứng phó với sự cạnh tranh khốc liệt. Châu Á - Thái Bình Dương cũng không nằm ngoài xu thế chung này. Điều đó cũng lý giải vì sao mà hầu hết các nước, kể cả các nước đang phát triển, thậm trí kém phát triển cũng tham gia vào quá trình hội nhập, từng bước chấp nhận những “luật chơi” chung của các tổ chức quốc tế, khu vực và toàn cầu. Hội nhập đòi hỏi các quốc gia phải chấp nhận các nguyên tắc cơ bản của hệ thống, có nhân nhượng và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (102).doc
Tài liệu liên quan